Tóm lại, trong nghiên cứu nhân cách
con người Việt Nam, việc phân chia thành
các lĩnh vực nghiên cứu trên đây cũng chỉ
mang tính chất rất tương đối. Việc nghiên
cứu về nhân cách con người Việt Nam từ
nhiều góc độ khác nhau cũng đã có nhiều
bài viết, công trình, đề tài các cấp, tuy
nhiên, những vấn đề thuộc về sự phức tạp
của bản thân đối tượng nghiên cứu, vấn đề
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn khảo sát,
vấn đề sử dụng các phương pháp định
tính, định lượng trong nghiên cứu vẫn
cần nhiều công trình nghiên cứu đảm bảo
chất lượng hơn nữa để đem lại một cái
nhìn bao quát, toàn diện về nhân cách con
người Việt Nam
8 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 934 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Các hướng nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các hướng nghiên cứu
về nhân cách con người Việt Nam
Phạm Thu Trang(*)
Tóm tắt: Nghiên cứu về nhân cách đã được phân tích với các mức độ, phạm vi, mục
đích khác nhau và từ nhiều góc độ như: tâm lý học, xã hội học, đạo đức học, luật
học,v.v... Trên thế giới vào những năm 1970-1980, nhiều trào lưu nghiên cứu về nhân
cách trong tâm lý học đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Ở
nước ta, nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam ban đầu chủ yếu được thể hiện
trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về con người Việt Nam qua các tác phẩm
của Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên cùng nhiều nhà khoa học khác, về sau, nghiên
cứu về nhân cách con người Việt Nam đã được chú ý nhiều từ giới tâm lý học. Hiện nay,
theo chúng tôi, nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam không chỉ được đề cập
đến qua tâm lý học mà còn từ nhiều góc độ nghiên cứu khác như: đạo đức học, văn học
và văn hóa học, liên ngành khoa học xã hội, triết học.
Từ khóa: Nhân cách, Nghiên cứu về nhân cách, Nhân cách con người Việt Nam, Tâm
lý học nhân cách
1. Các nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học
Hiện nay,(*)trong nghiên cứu, nhân
cách trước hết và chủ yếu vẫn là đối tượng
của tâm lý học. Trong tâm lý học có riêng
phân ngành là tâm lý học nhân cách đi sâu
nghiên cứu đối tượng này. Theo đó, các
quan điểm, lý thuyết về nhân cách cùng
với những vấn đề của nó như khái niệm,
cấu trúc, quá trình hình thành và phát triển
cũng chủ yếu được xem xét từ góc độ của
các nghiên cứu tâm lý học. Nghiên cứu về
nhân cách con người Việt Nam dưới góc độ
tâm lý học chủ yếu tập trung vào các nội
dung nghiên cứu sau:
(*)
ThS., Viện Thông tin KHXH; Email:
thutrang84_triet@yahoo.com
Thứ nhất, tập trung vào đối tượng
nhân cách cụ thể như: nhân cách người Hà
Nội, nhân cách nhà kinh doanh giỏi, nhân
cách người cán bộ, sĩ quan, nhân cách Hồ
Chí Minh, nhân cách của hội thẩm nhân
dân, nhân cách người cán bộ quân đội,
nhân cách người lãnh đạo, quản lý, nhân
cách người cán bộ khoa học, nhân cách
kiểm toán viên nhà nước... Các nghiên
cứu thuộc loại này thường làm rõ các đặc
điểm, phẩm chất quan trọng, chủ yếu
thuộc về nhân cách của các đối tượng
được đề cập đến như: bản lĩnh là phẩm
chất cốt lõi của người cán bộ quân đội,
nhân tố đức và tài của người lãnh đạo
quản lý, các chỉ số (hay các mặt) cần thiết
về trình độ trí tuệ, về kiến thức, kỹ năng,
2 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016
về sức khỏe thể chất, về động cơ, thái độ
của một nhà kinh doanh giỏi,... (Phạm Tất
Dong, 2010; Đỗ Long, 2004; Nguyễn Thị
Thanh Tâm, 2011; Trần Trọng Thủy,
2004; Lê Hữu Xanh, 2006...).
Thứ hai, cũng đề cập đến đối tượng
nhân cách cụ thể, nhưng là những đối
tượng khá đặc thù nên có không ít nghiên
cứu đề cập đến nhân cách của học sinh,
sinh viên Việt Nam với những phân tích
về thực trạng, nguyên nhân của sự phát
triển nhân cách của đối tượng này, trên cơ
sở đó đưa ra những phương hướng, biện
pháp giáo dục nhằm hình thành, phát triển
nhân cách cho học sinh, sinh viên Việt
Nam. Các nghiên cứu theo hướng này chủ
yếu quan tâm đến các vấn đề: sự hình
thành và phát triển của hệ thống động cơ
(học tập, lao động, chọn nghề, giao tiếp,
động cơ thành đạt); khả năng tự đánh
giá; sự định hướng giá trị chung và định
hướng giá trị trong các hoạt động khác
nhau; thái độ trước những vấn đề xã hội
khác nhau cũng như đối với những hoạt
động khác nhau; tinh thần trách nhiệm;
hứng thú; khả năng thích ứng xã hội
(Nguyễn Thị Mai Lan, 2010; Phạm Thị
Minh, 2005; Phạm Huy Thành, 2012).
Thứ ba, tập trung vào những yếu tố,
những phẩm chất tâm lý quan trọng, tích
cực thuộc về nhân cách thông qua các
biện pháp tác động tâm lý - giáo dục, đó là
các vấn đề như: hình thành động cơ nhân
cách của hoạt động học tập; hình thành
thái độ tích cực đối với học tập và đối với
các vấn đề xã hội hiện nay; hình thành khả
năng tự đánh giá và đánh giá khách quan,
phù hợp; giáo dục tinh thần trách nhiệm,
giáo dục hình thành kỹ năng sống; giáo
dục hình thành khả năng sáng tạo, giáo
dục tài năng, nhân tài,... (Trần Anh Châu,
2008; Nguyễn Văn Huyên, 1995; Lê
Hương, 2003; Phạm Thành Nghị, 2008...).
Thứ tư, nghiên cứu về những nhân
cách bệnh lý, nhân cách phát triển lệch lạc,
nhân cách đang trong quá trình suy thoái,
phát hiện nguyên nhân sâu xa của sự lệch
lạc để trên cơ sở đó có những biện pháp
ngăn ngừa, trị liệu, giáo dục, tư vấn nhằm
góp phần tạo ra một xã hội với những con
người phát triển lành mạnh, hài hòa cả về
thể chất lẫn tâm lý. Thuộc hướng nghiên
cứu này, những vấn đề đã được làm rõ là:
đặc điểm nhân cách của người nghiện ma
túy; đặc điểm nhân cách của gái mại dâm;
ảnh hưởng của nhóm bạn tiêu cực đến
những hành vi lệch chuẩn, hành vi vi phạm
pháp luật của trẻ vị thành niên; những rối
loạn hành vi và những dấu hiệu của chúng
(Phan Thị Mai Hương, 2005; Đỗ Long,
2000; Hồ Hữu Nhựt, 2004).
Cuối cùng là các nghiên cứu định
lượng, lượng hóa các yếu tố nhân cách,
theo hướng này các công trình đã Việt hóa
hoặc bước đầu thích ứng một số phương
pháp chuẩn hóa đo đạc, đánh giá nhân
cách như: thích ứng Test sáng tạo; Test
đánh giá kỹ năng xã hội; Test định hướng
giá trị nhân cách; Test đánh giá các mặt
nhân cách của Cattell 16 PF; Test phóng
chiếu TAT; NEO PI-R (Đào Thị Oanh,
2007; Phạm Minh Hạc, 2007).
Như vậy, những nghiên cứu về nhân
cách con người Việt Nam dưới góc độ của
tâm lý học chủ yếu hướng tới tiếp cận
những đối tượng nhân cách cụ thể, với
những biện pháp tâm lý - giáo dục, với việc
điều tra, lượng hóa các yếu tố và phẩm
chất cụ thể của các đối tượng nhân cách đó
(Xem thêm: Đào Thị Oanh, 2007: 14-16).
Bên cạnh đó, đề cập đến vai trò của
các yếu tố tác động đến quá trình hình
thành và phát triển nhân cách con người
Việt Nam như: Vai trò của gia đình, của
văn hóa gia đình (Lê Thi, 1997; Lê Như
Hoa, 2001), vai trò của nhà trường (Hoàng
Đức Nhuận, 1996), vai trò của pháp luật
CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ 3
(Nguyễn Đình Đặng Lục, 2005), vai trò
của yếu tố văn hóa thẩm mỹ (Lê Thị Thùy
Dung, 2013; Lương Thị Quỳnh Khuê,
1995)..., các nghiên cứu đều đi đến khẳng
định, quá trình hình thành và phát triển
nhân cách con người Việt Nam là quá trình
phức tạp. Trong quá trình đó, mỗi yếu tố
đều có một vị trí, vai trò và ảnh hưởng
không giống nhau, các yếu tố luôn biến đổi
tùy thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển của
từng người cụ thể. Xác định, đánh giá đúng
vị trí, vai trò của từng yếu tố để có những
biện pháp giáo dục và tác động phù hợp
giúp cho nhân cách con người Việt Nam
ngày càng trở nên hoàn thiện và tốt đẹp
hơn, hướng tới những giá trị cao đẹp nhất,
là một việc làm quan trọng, nhất là trong
điều kiện hiện nay.
2. Các nghiên cứu dưới góc độ đạo đức học
Đạo đức học xem xét nhân cách chủ
yếu ở khía cạnh đạo đức cũng như vai trò
và ảnh hưởng của giáo dục đạo đức đối
với sự hình thành nhân cách. Trong lý
luận nhân cách, đạo đức là gốc của nhân
cách nhưng chưa nói lên đầy đủ, toàn bộ
nhân cách. Cho nên không thể đồng nhất
đạo đức (vẫn thường được quan niệm là
phẩm chất) với nhân cách. Nghiên cứu
nhân cách con người Việt Nam dưới góc
độ đạo đức học chủ yếu là các luận án
tiến sĩ triết học tập trung nhấn mạnh đến
giáo dục đạo đức hoặc vai trò của giáo
dục đạo đức trong điều kiện hiện nay đối
với sự hình thành của nhân cách con
người Việt Nam.
Trần Sỹ Phán trong Luận án tiến sĩ
Triết học Giáo dục đạo đức đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
cho rằng, triết học Marx-Lenin xem xét
nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có
tính lịch sử - cụ thể, tham gia vào hoạt
động thực tiễn, đóng vai trò của chủ thể
nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của
quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn
mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực
xã hội khác (Trần Sỹ Phán, 1999: 19).
Đây là một trong những công trình đầu
tiên nghiên cứu sự hình thành và phát
triển nhân cách dưới góc độ cụ thể - đó là
vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách.
Cũng đề cập đến Vai trò của đạo đức
đối với sự hình thành nhân cách con
người Việt Nam trong điều kiện đổi mới
hiện nay, luận án tiến sĩ của Lê Thị Thủy
(2000) lại khẳng định, vai trò của giáo dục
đạo đức đối với sự hình thành nhân cách
con người Việt Nam hiện nay là tiêu chí
và là nền tảng của nhân cách, góp phần
tạo dựng nhân cách phát triển hài hòa,
toàn diện, theo xu hướng nhân văn. Theo
tác giả, trong điều kiện hiện nay để nâng
cao vai trò của đạo đức cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp kinh tế-xã hội, giáo
dục và văn hóa tinh thần. Trong đó, việc
giữ vững định hướng chính trị trong phát
triển kinh tế-xã hội, thực hiện tăng trưởng
kinh tế gắn với công bằng xã hội, đẩy
mạnh hoạt động giáo dục nói chung và
giáo dục đạo đức nói riêng, tận dụng lợi
thế của văn hóa, đặc biệt là văn hóa nghệ
thuật với những tác động biểu cảm và tinh
tế của nó tới tâm hồn con người là những
giải pháp thiết thực và chủ yếu.
Tác giả Nguyễn Văn Phúc (1996)
trong bài viết Vai trò của giáo dục đạo
đức đối với sự phát triển nhân cách trong
cơ chế thị trường đã phân tích một số biểu
hiện tác động của cơ chế thị trường lên
nhân cách và khẳng định rằng, giáo dục
đạo đức sẽ góp phần lấy lại sự thống
nhất, đảm bảo sự phát triển hài hòa cho
nhân cách, “nó là một nhân tố tất yếu và
quan trọng của chiến lược con người
trong bối cảnh thị trường hóa, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tuy
nhiên, theo tác giả, giáo dục đạo đức chỉ
4 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016
có thể phát huy tác dụng khi nó được kết
hợp với các giải pháp ngoài đạo đức là
các giải pháp kinh tế-xã hội. Một cơ chế
thị trường hoàn thiện được pháp chế hóa,
sự điều tiết của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, những giải pháp
phát triển lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm
cơ sở... sẽ là cơ sở kinh tế-xã hội cho sự
phát triển nhân cách.
Là một trong số không nhiều công
trình trực tiếp khẳng định việc kế thừa các
giá trị đạo đức truyền thống có vai trò
không nhỏ trong xây dựng nhân cách con
người Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ
của Cao Thu Hằng (2011) cho rằng, ở
Việt Nam hiện nay, việc kế thừa các giá
trị đạo đức truyền thống trong xây dựng
nhân cách là một tất yếu và để các giá trị
đạo đức truyền thống phát huy được tác
dụng tích cực đối với sự phát triển nhân
cách con người Việt Nam, cần phải đẩy
mạnh công tác giáo dục các giá trị đạo đức
truyền thống, phát huy vai trò của pháp luật
và cùng với đó là nâng cao tính tích cực
của nhân dân trong việc kế thừa các giá trị
đạo đức truyền thống. Các giải pháp này
có sự thống nhất và tác động qua lại lẫn
nhau và đó là sự đảm bảo cho việc phát
triển nhân cách con người Việt Nam đáp
ứng được các yêu cầu của xã hội hiện nay.
3. Các nghiên cứu từ góc độ văn học và
văn hóa học
Những nghiên cứu về nhân cách con
người Việt Nam từ góc độ văn học và văn
hóa học chủ yếu đề cập đến việc xác định
“mô hình nhân cách con người Việt Nam”
như là những mẫu người tiêu biểu đại diện
cho các giá trị văn hóa - lịch sử, là sự khái
quát những giá trị, đặc trưng nổi bật của
con người Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử. Theo đó, từ góc độ này, theo Hồ Liên
(2008), các học giả chủ yếu định hình
những mẫu người đó theo những chân
dung văn học hay mô hình nhân cách của
một lớp người hay những nhân vật lịch sử
có thật. Theo đó, từ góc độ nghiên cứu văn
chương, Trương Tửu đề xuất mẫu hình của
cặp “nhà nho tài tử” và “nhà nho quân tử”.
Trần Đình Hượu đã xây dựng lý thuyết
khảo sát “con người chức năng”, mẫu
người “nhà nho tài tử”. Trần Ngọc Vương
phác thảo mẫu người “Hoàng đế”. Dưới
góc độ văn hóa học, Trần Quốc Vượng viết
về những danh nhân tiêu biểu trong các
giai đoạn văn hóa như: Lý Nhân Tông thời
nhà Lý, nhà giáo Chu Văn An ở giai đoạn
nhà Trần, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên
Hãn, Lê Thánh Tông ở thời kỳ Hậu Lê,
Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở giai đoạn
cuối Lê đầu Nguyễn Phan Ngọc viết về
những nhân cách tiêu biểu của con người
Việt Nam, trong đó có Nguyễn Trãi,
Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh
Cũng tiếp cận nhân cách con người
Việt Nam từ góc độ văn hóa học, Đỗ Lai
Thúy trình bày các “mẫu người văn hóa”
để khái quát về “văn hóa Việt Nam” thể
hiện trong tác phẩm Văn hóa Việt Nam -
Nhìn từ mẫu người văn hóa. Ông quan
niệm rằng, “mẫu người văn hóa là khái
niệm trừu tượng, có ý nghĩa khái quát về
những lớp người có diện mạo tinh thần
giống nhau, được hình thành trong khoảng
thời gian lịch sử mà ở đó văn hóa bộc lộ
những tính chất giống nhau, một khí hậu
văn hóa giống nhau”. Và mẫu người văn
hóa của các thời đại văn hóa cụ thể được
Đỗ Lai Thúy gọi bằng “con người làng xã,
con người vô ngã, con người quân tử, con
người tài tử, con người cá nhân”. “Con
người làng xã làm nên căn cước của con
người Việt Nam, quyết định bản sắc của
văn hóa cổ truyền Việt Nam. Là phần lõi,
là cơ tầng của văn hóa Việt Nam” (Đỗ Lai
Thúy, 2005: 131).
Sau con người làng xã, mẫu người
văn hóa đại diện cho tinh thần dân tộc
CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ 5
phát triển đến đỉnh cao là chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng trong thời đại
Lý - Trần là “con người vô ngã”. Đó là
những con người kiệt xuất, những nhân
cách lớn, những trí thức phóng khoáng có
trình độ tư duy cao, những anh hùng
chống giặc ngoại xâm Họ đa dạng về
nhân cách, về cá tính, về hành trạng,
nhưng có một điểm chung tạo thành mẫu
người tiêu biểu của thời đại, đó là đem cái
tiểu ngã cá nhân, gia đình, làng xã hòa vào
cái đại ngã dân tộc, ý thức về Tổ quốc là
thiêng liêng, là trên hết.
Sang đến thời kỳ mới, “con người
quân tử” là kết quả của sự kết hợp giữa
tinh thần dân tộc Đại Việt với sự khúc xạ
tư tưởng Nho gia Trung Hoa, sự kết hợp
giữa con người chức năng với con người
cộng đồng mà chủ nghĩa yêu nước là nét
cơ bản tạo nên diện mạo tinh thần của nó.
Khi lịch sử Việt Nam chuyển sang bước
ngoặt mới, những con người mới được
hình thành trong cuộc chiến đấu lâu dài
giành độc lập dân tộc, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ. Mẫu người đại diện cho thời
kỳ này là người anh hùng, người chiến sĩ,
là “Anh lính cụ Hồ” và hiện thân tiêu biểu
nhất của nhân cách văn hóa này chính là
Hồ Chí Minh.
4. Các nghiên cứu từ góc độ liên ngành
khoa học xã hội
Nhân cách với những yếu tố và thành
phần trong cấu trúc của nó vừa được tâm
lý học nghiên cứu nhưng đồng thời cũng
được đo đạc bằng các chỉ số và các
phương pháp thực nghiệm theo các
phương pháp của xã hội học. Với thế
mạnh là định lượng được bằng các chỉ số
rõ ràng hiện nay, các công trình nghiên
cứu, nhất là các đề tài cấp nhà nước về
vấn đề nhân cách, đã chủ yếu áp dụng các
phương pháp liên ngành tâm lý học, xã
hội học để nghiên cứu nhân cách của từng
nhóm đối tượng cụ thể như: sinh viên, học
sinh, công nhân,... từ đó có những kết luận
chung cho nhân cách con người Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu khoa học
công nghệ cấp nhà nước về nhân cách con
người Việt Nam đã được thực hiện có thể
kể đến là Chương trình KX.07, KHXH.04,
Chương trình KX.05 (Về các chương trình
này xem thêm bài viết của Vũ Thị Minh
Chi in trong cuốn sách do Phạm Minh
Hạc, Lê Đức Phúc chủ biên, 2004).
Trong đó, đáng chú ý là đề tài thuộc
chương trình khoa học cấp nhà nước đã áp
dụng phương pháp đo đạc tâm lý NEO PI-
R có sửa chữa và bổ sung cho phù hợp với
thực tế Việt Nam để điều tra, đo đạc
những đặc điểm giá trị nhân cách của một
số tầng lớp người Việt Nam hiện nay thể
hiện qua cuốn sách Nghiên cứu giá trị
nhân cách theo phương pháp NEO PI-R
cải biên do Phạm Minh Hạc chủ biên
(2007).
Công trình này mô tả kết quả đo đạc
điều tra nhân cách của một khối lượng lớn
số mẫu đại diện cho các tầng lớp người
Việt Nam (học sinh, sinh viên, nông dân,
công nhân, giáo viên, trí thức, doanh
nhân) và một số điển hình thành đạt đã tạo
cơ sở rút ra những nhận định chung về
mặt mạnh, mặt yếu của người Việt Nam
hiện nay. Sử dụng phương pháp định
lượng mới nhất trên thế giới NEO PI-R để
đo đạc nhân cách con người Việt Nam,
như chính tác giả khẳng định, có nhiều ưu
thế nhất định nhưng vẫn không tránh khỏi
“một số điểm bất cập về mặt phương pháp
tiếp cận và triển khai nghiên cứu” bởi “có
nhiều khía cạnh và chiều sâu của hiện
thực mà hệ phương pháp định lượng
không thể đáp ứng” (Phạm Minh Hạc,
2007: 54). Hơn nữa, theo tác giả việc cung
cấp một bức tranh toàn diện và sâu sắc về
bối cảnh hình thành nhân cách, đặc biệt là
nhân cách của các nhóm xã hội khác nhau,
chỉ ra những quá trình phức tạp và vô
6 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016
cùng linh hoạt của thực hành hình thành
và biến đổi nhân cách, nêu bật lên những
quan niệm của chính bản thân chủ thể
hành động hay nói một cách khác là trình
bày vấn đề nhân cách thông qua lăng kính
chủ thể chỉ có thể thực hiện được bằng
hàng loạt những công cụ hữu hiệu và đặc
trưng của hệ các phương pháp định tính
trong khoa học xã hội.
Như vậy, trong nghiên cứu nhân cách
con người Việt Nam, việc áp dụng các
phương pháp định lượng trong khoa học
xã hội dù có ưu việt đến mấy, nhưng trên
thực tế, lại có ý nghĩa không nhiều trong
việc định hình được bản chất thực sự của
nhân cách con người Việt Nam. Bản chất
của nhân cách sẽ không thể nào được làm
sáng tỏ nếu chỉ xét về mặt chức năng cũng
như mặt cấu trúc vật chất. Lý do có lẽ
phần lớn thuộc về phương pháp luận, vì
thế phương pháp luận trong nghiên cứu
nhân cách theo chúng tôi vẫn là cần tuân
theo những nguyên tắc tiếp cận của triết
học mác xít đó là nguyên tắc hệ thống,
nguyên tắc lịch sử - xã hội và nguyên tắc
tiếp cận hoạt động - giá trị. Áp dụng
những nguyên tắc này một cách chính xác
thì mới có thể làm rõ được bản chất của
nhân cách con người Việt Nam.
5. Các nghiên cứu dưới góc độ triết học
Nghiên cứu về nhân cách con người
Việt Nam nói riêng và nhân cách nói
chung từ góc độ triết học có nghĩa là tập
trung vào những vấn đề chung nhất của
nhân cách và nhân cách con người Việt
Nam cũng như tập trung vào những vấn
đề xác lập nền tảng cơ sở lý luận và
phương pháp luận cho nghiên cứu nhân
cách. Khoảng hơn mười năm trở lại đây,
trong bối cảnh xã hội có nhiều thay đổi
căn bản, khi mà những biến động về hệ
giá trị đang trở nên phức tạp, khi con
người ngày càng phải đối mặt nhiều hơn
với những biến động về lối sống, quan
niệm sống,... người ta ngày càng gặp
nhiều khó khăn hơn trong tìm kiếm giải
pháp hợp lý, khoa học, bài bản cho những
vấn nạn xung quanh sự suy thoái nhân
cách, thì việc tìm kiếm và xác lập nền tảng
phương pháp luận và cơ sở lý luận cho
nghiên cứu nhân cách trong triết học ngày
càng được đặt ra cấp thiết hơn. Những
năm qua, nhiều đề tài cấp nhà nước về
nhân cách đã được tiến hành theo các
hướng nghiên cứu khác nhau từ nhiều góc
độ và đã đạt được những kết quả đáng kể.
Tuy nhiên, những vấn đề thực sự của bản
thân nhân cách cũng như khoa học nghiên
cứu về nó vẫn đặt ra nhiều vướng mắc
chưa lý giải được đòi hỏi tiếp tục được
nghiên cứu, xem xét.
Hiện nay, những nghiên cứu mang
tính chất phương pháp luận của triết học
về nhân cách không nhiều, một số bài báo
trực tiếp xem xét khái niệm nhân cách từ
góc độ triết học Marx-Lenin như Bàn về
khái niệm nhân cách dưới góc độ triết học
của Nguyễn Quốc Tuấn (2006) và Nhân
cách theo quan điểm Triết học Marx-
Lenin của Vũ Thị Kim Oanh (2011).
Trong nghiên cứu nhân cách con
người Việt Nam, khi đưa ra định hướng có
tính chất phương pháp luận cho việc
nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường
kinh tế-xã hội đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách con người Việt Nam,
tác giả Đặng Vũ Hoạt (1993) cho rằng
chiến lược con người đòi hỏi chúng ta
phải nghiên cứu hết sức nghiêm túc về
mặt khoa học nhằm: làm sáng tỏ bản chất
với những đặc điểm cơ bản của con người
Việt Nam; phát hiện những quy luật và
những tính quy luật của sự hình thành và
phát triển nhân cách con người Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử nói chung; xây
dựng và thực hiện một hệ thống giải pháp
phức hợp, hợp lý để một mặt có thể giáo
dục, đào tạo mọi người trở thành những
CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ 7
công dân hữu ích, những người lao động
có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương
được những trách nhiệm nhất định trên
các cương vị nhất định, mặt khác, có thể
khai thác và tận dụng có hiệu quả nhất khả
năng của mỗi con người phục vụ cho sự
nghiệp đổi mới của đất nước; dự báo phát
triển nhân cách con người Việt Nam vào
những năm cuối thế kỷ XX và những năm
đầu thế kỷ XXI.
Tóm lại, trong nghiên cứu nhân cách
con người Việt Nam, việc phân chia thành
các lĩnh vực nghiên cứu trên đây cũng chỉ
mang tính chất rất tương đối. Việc nghiên
cứu về nhân cách con người Việt Nam từ
nhiều góc độ khác nhau cũng đã có nhiều
bài viết, công trình, đề tài các cấp, tuy
nhiên, những vấn đề thuộc về sự phức tạp
của bản thân đối tượng nghiên cứu, vấn đề
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn khảo sát,
vấn đề sử dụng các phương pháp định
tính, định lượng trong nghiên cứu vẫn
cần nhiều công trình nghiên cứu đảm bảo
chất lượng hơn nữa để đem lại một cái
nhìn bao quát, toàn diện về nhân cách con
người Việt Nam
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học
nhân cách: Một số vấn đề lý luận,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
2. Trần Anh Châu (2008), “Tác động của
một số đặc điểm nhân cách đến động
cơ thành đạt của thanh niên”, Tạp chí
Tâm lý học, số 8.
3. Phạm Tất Dong (chủ biên, 2010),
Những phẩm chất nhân cách đặc
trưng của người Thăng Long - Hà Nội,
Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
4. Lê Thị Thùy Dung (2013), Vai trò của
văn hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Trung
tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
5. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ
biên, 2004), Một số vấn đề nghiên cứu
nhân cách, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
6. Phạm Minh Hạc (chủ biên, 2007),
Nghiên cứu giá trị nhân cách theo
phương pháp NEO PI-R cải biên, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Cao Thu Hằng (2011), Kế thừa các giá
trị đạo đức truyền thống trong xây
dựng nhân cách con người Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện KHXH, Viện KHXH Việt
Nam, Hà Nội.
8. Lê Như Hoa (2001), Văn hóa gia đình
với việc hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em, Viện Văn hóa và Nxb.
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
9. Đặng Vũ Hoạt (1993), “Định hướng
có tính chất phương pháp luận cho
việc nghiên cứu ảnh hưởng của môi
trường kinh tế-xã hội đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
giáo dục, số 11.
10. Nguyễn Văn Huyên (1995), “Quá trình
sáng tạo và sự phát triển nhân cách”,
Tạp chí Triết học, số 3.
11. Lê Hương (2003), “Động cơ và quá
trình hình thành nhân cách”, Tạp chí
Tâm lý học, số 5.
12. Phan Thị Mai Hương (2005), Thanh
niên nghiện ma túy: Nhân cách và
hoàn cảnh xã hội, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
13. Lương Thị Quỳnh Khuê (1995), Văn
hóa thẩm mỹ với sự hình thành nhân
cách của con người Việt Nam hiện
nay, Luận án phó tiến sĩ Khoa học
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016
14. Nguyễn Thị Mai Lan (2010), Định
hướng giá trị nhân cách của học sinh
trung học phổ thông, Nxb. Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
15. Hồ Liên (2008), Một hướng tiếp cận
văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà
Nội.
16. Đỗ Long (2000), “Quan hệ của trẻ và
biện pháp khắc phục quá trình phi
nhân cách hóa ở trẻ lang thang”, Tạp
chí Tâm lý học, số 4.
17. Đỗ Long (2004), “Lại bàn về nhân
cách và nhân cách chiến sỹ”, Tạp chí
Tâm lý học, số 12.
18. Nguyễn Đặng Đình Lục (2005), Vai
trò của pháp luật trong quá trình hình
thành nhân cách, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội.
19. Phạm Thị Minh (2005), “Giáo dục
nhân cách cho học sinh, sinh viên
trong bối cảnh của cơ chế thị trường”,
Tạp chí Tâm lý học, số 7.
20. Phạm Thành Nghị (2008), “Đặc điểm
nhân cách sáng tạo”, Nghiên cứu Con
người, số 3.
21. Hoàng Đức Nhuận (1996), Vai trò của
nhà trường trong sự hình thành và phát
triển nhân cách con người Việt Nam
bằng con đường giáo đục đào tạo, Báo
cáo nội dung nghiên cứu và kết quả đạt
được của Đề tài KX-07-08, Hà Nội.
22. Hồ Hữu Nhựt (2004), “Giáo dục nhân
cách người cai nghiện”, Nghiên cứu
con người và xã hội, Trung tâm
KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh,
Số nội san tháng 1.
23. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân
cách trong tâm lý học ngày nay, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
24. Vũ Thị Kim Oanh (2011), “Nhân cách
theo quan điểm triết học Marx-Lenin”,
Khoa học Chính trị, số 2.
25. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Phúc (1996), “Vai trò của
giáo dục đạo đức đối với sự phát triển
nhân cách trong cơ chế thị trường”,
Tạp chí Triết học, số 5.
27. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2011), “Nhân
cách người lãnh đạo quản lý và vai trò
của yếu tố trí tuệ cảm xúc”, Nghiên cứu
Con người, số 3.
28. Phạm Huy Thành (2012), “Vai trò của
giáo dục chủ nghĩa yêu nước đối với việc
xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”,
Dạy và học ngày nay, số 4.
29. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong
việc xây dựng nhân cách con người
Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
30. Trần Trọng Thủy (2004), “Lao động
và nhân cách của người cán bộ khoa
học nhìn từ góc độ của tâm lý học xã
hội”, Tạp chí Tâm lý học, số 2.
31. Lê Thị Thủy (2000), Vai trò của đạo
đức đối với sự hình thành nhân cách
con người Việt Nam trong điều kiện
đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
32. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt
Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb.
Văn hóa thông tin, Tạp chí Văn hóa -
nghệ thuật, Hà Nội.
33. Nguyễn Quốc Tuấn (2006), “Bàn về
khái niệm nhân cách dưới góc độ triết
học”, Khoa học Chính trị, số 1.
34.Lê Hữu Xanh (2006), “Nhân cách
người lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện
nay - Lý luận và thực tiễn”, Tạp chí
Tâm lý học, số 1.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26234_88146_1_pb_327.pdf