Tóm lại, trong nghiên cứu nhân cách
con người Việt Nam, việc phân chia thành
các lĩnh vực nghiên cứu trên đây cũng chỉ
mang tính chất rất tương đối. Việc nghiên
cứu về nhân cách con người Việt Nam từ
nhiều góc độ khác nhau cũng đã có nhiều
bài viết, công trình, đề tài các cấp, tuy
nhiên, những vấn đề thuộc về sự phức tạp
của bản thân đối tượng nghiên cứu, vấn đề
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn khảo sát,
vấn đề sử dụng các phương pháp định
tính, định lượng trong nghiên cứu vẫn
cần nhiều công trình nghiên cứu đảm bảo
chất lượng hơn nữa để đem lại một cái
nhìn bao quát, toàn diện về nhân cách con
người Việt Nam
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Các hướng nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Các hướng nghiên cứu 
về nhân cách con người Việt Nam 
Phạm Thu Trang(*) 
Tóm tắt: Nghiên cứu về nhân cách đã được phân tích với các mức độ, phạm vi, mục 
đích khác nhau và từ nhiều góc độ như: tâm lý học, xã hội học, đạo đức học, luật 
học,v.v... Trên thế giới vào những năm 1970-1980, nhiều trào lưu nghiên cứu về nhân 
cách trong tâm lý học đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Ở 
nước ta, nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam ban đầu chủ yếu được thể hiện 
trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về con người Việt Nam qua các tác phẩm 
của Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên cùng nhiều nhà khoa học khác, về sau, nghiên 
cứu về nhân cách con người Việt Nam đã được chú ý nhiều từ giới tâm lý học. Hiện nay, 
theo chúng tôi, nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam không chỉ được đề cập 
đến qua tâm lý học mà còn từ nhiều góc độ nghiên cứu khác như: đạo đức học, văn học 
và văn hóa học, liên ngành khoa học xã hội, triết học. 
Từ khóa: Nhân cách, Nghiên cứu về nhân cách, Nhân cách con người Việt Nam, Tâm 
lý học nhân cách 
1. Các nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học 
Hiện nay,(*)trong nghiên cứu, nhân 
cách trước hết và chủ yếu vẫn là đối tượng 
của tâm lý học. Trong tâm lý học có riêng 
phân ngành là tâm lý học nhân cách đi sâu 
nghiên cứu đối tượng này. Theo đó, các 
quan điểm, lý thuyết về nhân cách cùng 
với những vấn đề của nó như khái niệm, 
cấu trúc, quá trình hình thành và phát triển 
cũng chủ yếu được xem xét từ góc độ của 
các nghiên cứu tâm lý học. Nghiên cứu về 
nhân cách con người Việt Nam dưới góc độ 
tâm lý học chủ yếu tập trung vào các nội 
dung nghiên cứu sau: 
(*)
 ThS., Viện Thông tin KHXH; Email: 
thutrang84_triet@yahoo.com 
Thứ nhất, tập trung vào đối tượng 
nhân cách cụ thể như: nhân cách người Hà 
Nội, nhân cách nhà kinh doanh giỏi, nhân 
cách người cán bộ, sĩ quan, nhân cách Hồ 
Chí Minh, nhân cách của hội thẩm nhân 
dân, nhân cách người cán bộ quân đội, 
nhân cách người lãnh đạo, quản lý, nhân 
cách người cán bộ khoa học, nhân cách 
kiểm toán viên nhà nước... Các nghiên 
cứu thuộc loại này thường làm rõ các đặc 
điểm, phẩm chất quan trọng, chủ yếu 
thuộc về nhân cách của các đối tượng 
được đề cập đến như: bản lĩnh là phẩm 
chất cốt lõi của người cán bộ quân đội, 
nhân tố đức và tài của người lãnh đạo 
quản lý, các chỉ số (hay các mặt) cần thiết 
về trình độ trí tuệ, về kiến thức, kỹ năng, 
2 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016 
về sức khỏe thể chất, về động cơ, thái độ 
của một nhà kinh doanh giỏi,... (Phạm Tất 
Dong, 2010; Đỗ Long, 2004; Nguyễn Thị 
Thanh Tâm, 2011; Trần Trọng Thủy, 
2004; Lê Hữu Xanh, 2006...). 
Thứ hai, cũng đề cập đến đối tượng 
nhân cách cụ thể, nhưng là những đối 
tượng khá đặc thù nên có không ít nghiên 
cứu đề cập đến nhân cách của học sinh, 
sinh viên Việt Nam với những phân tích 
về thực trạng, nguyên nhân của sự phát 
triển nhân cách của đối tượng này, trên cơ 
sở đó đưa ra những phương hướng, biện 
pháp giáo dục nhằm hình thành, phát triển 
nhân cách cho học sinh, sinh viên Việt 
Nam. Các nghiên cứu theo hướng này chủ 
yếu quan tâm đến các vấn đề: sự hình 
thành và phát triển của hệ thống động cơ 
(học tập, lao động, chọn nghề, giao tiếp, 
động cơ thành đạt); khả năng tự đánh 
giá; sự định hướng giá trị chung và định 
hướng giá trị trong các hoạt động khác 
nhau; thái độ trước những vấn đề xã hội 
khác nhau cũng như đối với những hoạt 
động khác nhau; tinh thần trách nhiệm; 
hứng thú; khả năng thích ứng xã hội 
(Nguyễn Thị Mai Lan, 2010; Phạm Thị 
Minh, 2005; Phạm Huy Thành, 2012). 
Thứ ba, tập trung vào những yếu tố, 
những phẩm chất tâm lý quan trọng, tích 
cực thuộc về nhân cách thông qua các 
biện pháp tác động tâm lý - giáo dục, đó là 
các vấn đề như: hình thành động cơ nhân 
cách của hoạt động học tập; hình thành 
thái độ tích cực đối với học tập và đối với 
các vấn đề xã hội hiện nay; hình thành khả 
năng tự đánh giá và đánh giá khách quan, 
phù hợp; giáo dục tinh thần trách nhiệm, 
giáo dục hình thành kỹ năng sống; giáo 
dục hình thành khả năng sáng tạo, giáo 
dục tài năng, nhân tài,... (Trần Anh Châu, 
2008; Nguyễn Văn Huyên, 1995; Lê 
Hương, 2003; Phạm Thành Nghị, 2008...). 
Thứ tư, nghiên cứu về những nhân 
cách bệnh lý, nhân cách phát triển lệch lạc, 
nhân cách đang trong quá trình suy thoái, 
phát hiện nguyên nhân sâu xa của sự lệch 
lạc để trên cơ sở đó có những biện pháp 
ngăn ngừa, trị liệu, giáo dục, tư vấn nhằm 
góp phần tạo ra một xã hội với những con 
người phát triển lành mạnh, hài hòa cả về 
thể chất lẫn tâm lý. Thuộc hướng nghiên 
cứu này, những vấn đề đã được làm rõ là: 
đặc điểm nhân cách của người nghiện ma 
túy; đặc điểm nhân cách của gái mại dâm; 
ảnh hưởng của nhóm bạn tiêu cực đến 
những hành vi lệch chuẩn, hành vi vi phạm 
pháp luật của trẻ vị thành niên; những rối 
loạn hành vi và những dấu hiệu của chúng 
(Phan Thị Mai Hương, 2005; Đỗ Long, 
2000; Hồ Hữu Nhựt, 2004). 
Cuối cùng là các nghiên cứu định 
lượng, lượng hóa các yếu tố nhân cách, 
theo hướng này các công trình đã Việt hóa 
hoặc bước đầu thích ứng một số phương 
pháp chuẩn hóa đo đạc, đánh giá nhân 
cách như: thích ứng Test sáng tạo; Test 
đánh giá kỹ năng xã hội; Test định hướng 
giá trị nhân cách; Test đánh giá các mặt 
nhân cách của Cattell 16 PF; Test phóng 
chiếu TAT; NEO PI-R (Đào Thị Oanh, 
2007; Phạm Minh Hạc, 2007). 
Như vậy, những nghiên cứu về nhân 
cách con người Việt Nam dưới góc độ của 
tâm lý học chủ yếu hướng tới tiếp cận 
những đối tượng nhân cách cụ thể, với 
những biện pháp tâm lý - giáo dục, với việc 
điều tra, lượng hóa các yếu tố và phẩm 
chất cụ thể của các đối tượng nhân cách đó 
(Xem thêm: Đào Thị Oanh, 2007: 14-16). 
Bên cạnh đó, đề cập đến vai trò của 
các yếu tố tác động đến quá trình hình 
thành và phát triển nhân cách con người 
Việt Nam như: Vai trò của gia đình, của 
văn hóa gia đình (Lê Thi, 1997; Lê Như 
Hoa, 2001), vai trò của nhà trường (Hoàng 
Đức Nhuận, 1996), vai trò của pháp luật 
CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ 3 
(Nguyễn Đình Đặng Lục, 2005), vai trò 
của yếu tố văn hóa thẩm mỹ (Lê Thị Thùy 
Dung, 2013; Lương Thị Quỳnh Khuê, 
1995)..., các nghiên cứu đều đi đến khẳng 
định, quá trình hình thành và phát triển 
nhân cách con người Việt Nam là quá trình 
phức tạp. Trong quá trình đó, mỗi yếu tố 
đều có một vị trí, vai trò và ảnh hưởng 
không giống nhau, các yếu tố luôn biến đổi 
tùy thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển của 
từng người cụ thể. Xác định, đánh giá đúng 
vị trí, vai trò của từng yếu tố để có những 
biện pháp giáo dục và tác động phù hợp 
giúp cho nhân cách con người Việt Nam 
ngày càng trở nên hoàn thiện và tốt đẹp 
hơn, hướng tới những giá trị cao đẹp nhất, 
là một việc làm quan trọng, nhất là trong 
điều kiện hiện nay. 
2. Các nghiên cứu dưới góc độ đạo đức học 
Đạo đức học xem xét nhân cách chủ 
yếu ở khía cạnh đạo đức cũng như vai trò 
và ảnh hưởng của giáo dục đạo đức đối 
với sự hình thành nhân cách. Trong lý 
luận nhân cách, đạo đức là gốc của nhân 
cách nhưng chưa nói lên đầy đủ, toàn bộ 
nhân cách. Cho nên không thể đồng nhất 
đạo đức (vẫn thường được quan niệm là 
phẩm chất) với nhân cách. Nghiên cứu 
nhân cách con người Việt Nam dưới góc 
độ đạo đức học chủ yếu là các luận án 
tiến sĩ triết học tập trung nhấn mạnh đến 
giáo dục đạo đức hoặc vai trò của giáo 
dục đạo đức trong điều kiện hiện nay đối 
với sự hình thành của nhân cách con 
người Việt Nam. 
Trần Sỹ Phán trong Luận án tiến sĩ 
Triết học Giáo dục đạo đức đối với sự 
hình thành và phát triển nhân cách sinh 
viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 
cho rằng, triết học Marx-Lenin xem xét 
nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có 
tính lịch sử - cụ thể, tham gia vào hoạt 
động thực tiễn, đóng vai trò của chủ thể 
nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của 
quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn 
mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực 
xã hội khác (Trần Sỹ Phán, 1999: 19). 
Đây là một trong những công trình đầu 
tiên nghiên cứu sự hình thành và phát 
triển nhân cách dưới góc độ cụ thể - đó là 
vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự 
hình thành và phát triển nhân cách. 
Cũng đề cập đến Vai trò của đạo đức 
đối với sự hình thành nhân cách con 
người Việt Nam trong điều kiện đổi mới 
hiện nay, luận án tiến sĩ của Lê Thị Thủy 
(2000) lại khẳng định, vai trò của giáo dục 
đạo đức đối với sự hình thành nhân cách 
con người Việt Nam hiện nay là tiêu chí 
và là nền tảng của nhân cách, góp phần 
tạo dựng nhân cách phát triển hài hòa, 
toàn diện, theo xu hướng nhân văn. Theo 
tác giả, trong điều kiện hiện nay để nâng 
cao vai trò của đạo đức cần thực hiện 
đồng bộ các giải pháp kinh tế-xã hội, giáo 
dục và văn hóa tinh thần. Trong đó, việc 
giữ vững định hướng chính trị trong phát 
triển kinh tế-xã hội, thực hiện tăng trưởng 
kinh tế gắn với công bằng xã hội, đẩy 
mạnh hoạt động giáo dục nói chung và 
giáo dục đạo đức nói riêng, tận dụng lợi 
thế của văn hóa, đặc biệt là văn hóa nghệ 
thuật với những tác động biểu cảm và tinh 
tế của nó tới tâm hồn con người là những 
giải pháp thiết thực và chủ yếu. 
Tác giả Nguyễn Văn Phúc (1996) 
trong bài viết Vai trò của giáo dục đạo 
đức đối với sự phát triển nhân cách trong 
cơ chế thị trường đã phân tích một số biểu 
hiện tác động của cơ chế thị trường lên 
nhân cách và khẳng định rằng, giáo dục 
đạo đức sẽ góp phần lấy lại sự thống 
nhất, đảm bảo sự phát triển hài hòa cho 
nhân cách, “nó là một nhân tố tất yếu và 
quan trọng của chiến lược con người 
trong bối cảnh thị trường hóa, công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tuy 
nhiên, theo tác giả, giáo dục đạo đức chỉ 
4 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016 
có thể phát huy tác dụng khi nó được kết 
hợp với các giải pháp ngoài đạo đức là 
các giải pháp kinh tế-xã hội. Một cơ chế 
thị trường hoàn thiện được pháp chế hóa, 
sự điều tiết của nhà nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa, những giải pháp 
phát triển lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm 
cơ sở... sẽ là cơ sở kinh tế-xã hội cho sự 
phát triển nhân cách. 
Là một trong số không nhiều công 
trình trực tiếp khẳng định việc kế thừa các 
giá trị đạo đức truyền thống có vai trò 
không nhỏ trong xây dựng nhân cách con 
người Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ 
của Cao Thu Hằng (2011) cho rằng, ở 
Việt Nam hiện nay, việc kế thừa các giá 
trị đạo đức truyền thống trong xây dựng 
nhân cách là một tất yếu và để các giá trị 
đạo đức truyền thống phát huy được tác 
dụng tích cực đối với sự phát triển nhân 
cách con người Việt Nam, cần phải đẩy 
mạnh công tác giáo dục các giá trị đạo đức 
truyền thống, phát huy vai trò của pháp luật 
và cùng với đó là nâng cao tính tích cực 
của nhân dân trong việc kế thừa các giá trị 
đạo đức truyền thống. Các giải pháp này 
có sự thống nhất và tác động qua lại lẫn 
nhau và đó là sự đảm bảo cho việc phát 
triển nhân cách con người Việt Nam đáp 
ứng được các yêu cầu của xã hội hiện nay. 
3. Các nghiên cứu từ góc độ văn học và 
văn hóa học 
Những nghiên cứu về nhân cách con 
người Việt Nam từ góc độ văn học và văn 
hóa học chủ yếu đề cập đến việc xác định 
“mô hình nhân cách con người Việt Nam” 
như là những mẫu người tiêu biểu đại diện 
cho các giá trị văn hóa - lịch sử, là sự khái 
quát những giá trị, đặc trưng nổi bật của 
con người Việt Nam qua các thời kỳ lịch 
sử. Theo đó, từ góc độ này, theo Hồ Liên 
(2008), các học giả chủ yếu định hình 
những mẫu người đó theo những chân 
dung văn học hay mô hình nhân cách của 
một lớp người hay những nhân vật lịch sử 
có thật. Theo đó, từ góc độ nghiên cứu văn 
chương, Trương Tửu đề xuất mẫu hình của 
cặp “nhà nho tài tử” và “nhà nho quân tử”. 
Trần Đình Hượu đã xây dựng lý thuyết 
khảo sát “con người chức năng”, mẫu 
người “nhà nho tài tử”. Trần Ngọc Vương 
phác thảo mẫu người “Hoàng đế”. Dưới 
góc độ văn hóa học, Trần Quốc Vượng viết 
về những danh nhân tiêu biểu trong các 
giai đoạn văn hóa như: Lý Nhân Tông thời 
nhà Lý, nhà giáo Chu Văn An ở giai đoạn 
nhà Trần, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên 
Hãn, Lê Thánh Tông ở thời kỳ Hậu Lê, 
Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Trạng 
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở giai đoạn 
cuối Lê đầu Nguyễn Phan Ngọc viết về 
những nhân cách tiêu biểu của con người 
Việt Nam, trong đó có Nguyễn Trãi, 
Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh 
Cũng tiếp cận nhân cách con người 
Việt Nam từ góc độ văn hóa học, Đỗ Lai 
Thúy trình bày các “mẫu người văn hóa” 
để khái quát về “văn hóa Việt Nam” thể 
hiện trong tác phẩm Văn hóa Việt Nam - 
Nhìn từ mẫu người văn hóa. Ông quan 
niệm rằng, “mẫu người văn hóa là khái 
niệm trừu tượng, có ý nghĩa khái quát về 
những lớp người có diện mạo tinh thần 
giống nhau, được hình thành trong khoảng 
thời gian lịch sử mà ở đó văn hóa bộc lộ 
những tính chất giống nhau, một khí hậu 
văn hóa giống nhau”. Và mẫu người văn 
hóa của các thời đại văn hóa cụ thể được 
Đỗ Lai Thúy gọi bằng “con người làng xã, 
con người vô ngã, con người quân tử, con 
người tài tử, con người cá nhân”. “Con 
người làng xã làm nên căn cước của con 
người Việt Nam, quyết định bản sắc của 
văn hóa cổ truyền Việt Nam. Là phần lõi, 
là cơ tầng của văn hóa Việt Nam” (Đỗ Lai 
Thúy, 2005: 131). 
Sau con người làng xã, mẫu người 
văn hóa đại diện cho tinh thần dân tộc 
CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ 5 
phát triển đến đỉnh cao là chủ nghĩa yêu 
nước, chủ nghĩa anh hùng trong thời đại 
Lý - Trần là “con người vô ngã”. Đó là 
những con người kiệt xuất, những nhân 
cách lớn, những trí thức phóng khoáng có 
trình độ tư duy cao, những anh hùng 
chống giặc ngoại xâm Họ đa dạng về 
nhân cách, về cá tính, về hành trạng, 
nhưng có một điểm chung tạo thành mẫu 
người tiêu biểu của thời đại, đó là đem cái 
tiểu ngã cá nhân, gia đình, làng xã hòa vào 
cái đại ngã dân tộc, ý thức về Tổ quốc là 
thiêng liêng, là trên hết. 
Sang đến thời kỳ mới, “con người 
quân tử” là kết quả của sự kết hợp giữa 
tinh thần dân tộc Đại Việt với sự khúc xạ 
tư tưởng Nho gia Trung Hoa, sự kết hợp 
giữa con người chức năng với con người 
cộng đồng mà chủ nghĩa yêu nước là nét 
cơ bản tạo nên diện mạo tinh thần của nó. 
Khi lịch sử Việt Nam chuyển sang bước 
ngoặt mới, những con người mới được 
hình thành trong cuộc chiến đấu lâu dài 
giành độc lập dân tộc, thống nhất và toàn 
vẹn lãnh thổ. Mẫu người đại diện cho thời 
kỳ này là người anh hùng, người chiến sĩ, 
là “Anh lính cụ Hồ” và hiện thân tiêu biểu 
nhất của nhân cách văn hóa này chính là 
Hồ Chí Minh. 
4. Các nghiên cứu từ góc độ liên ngành 
khoa học xã hội 
Nhân cách với những yếu tố và thành 
phần trong cấu trúc của nó vừa được tâm 
lý học nghiên cứu nhưng đồng thời cũng 
được đo đạc bằng các chỉ số và các 
phương pháp thực nghiệm theo các 
phương pháp của xã hội học. Với thế 
mạnh là định lượng được bằng các chỉ số 
rõ ràng hiện nay, các công trình nghiên 
cứu, nhất là các đề tài cấp nhà nước về 
vấn đề nhân cách, đã chủ yếu áp dụng các 
phương pháp liên ngành tâm lý học, xã 
hội học để nghiên cứu nhân cách của từng 
nhóm đối tượng cụ thể như: sinh viên, học 
sinh, công nhân,... từ đó có những kết luận 
chung cho nhân cách con người Việt Nam. 
Những công trình nghiên cứu khoa học 
công nghệ cấp nhà nước về nhân cách con 
người Việt Nam đã được thực hiện có thể 
kể đến là Chương trình KX.07, KHXH.04, 
Chương trình KX.05 (Về các chương trình 
này xem thêm bài viết của Vũ Thị Minh 
Chi in trong cuốn sách do Phạm Minh 
Hạc, Lê Đức Phúc chủ biên, 2004). 
Trong đó, đáng chú ý là đề tài thuộc 
chương trình khoa học cấp nhà nước đã áp 
dụng phương pháp đo đạc tâm lý NEO PI-
R có sửa chữa và bổ sung cho phù hợp với 
thực tế Việt Nam để điều tra, đo đạc 
những đặc điểm giá trị nhân cách của một 
số tầng lớp người Việt Nam hiện nay thể 
hiện qua cuốn sách Nghiên cứu giá trị 
nhân cách theo phương pháp NEO PI-R 
cải biên do Phạm Minh Hạc chủ biên 
(2007). 
Công trình này mô tả kết quả đo đạc 
điều tra nhân cách của một khối lượng lớn 
số mẫu đại diện cho các tầng lớp người 
Việt Nam (học sinh, sinh viên, nông dân, 
công nhân, giáo viên, trí thức, doanh 
nhân) và một số điển hình thành đạt đã tạo 
cơ sở rút ra những nhận định chung về 
mặt mạnh, mặt yếu của người Việt Nam 
hiện nay. Sử dụng phương pháp định 
lượng mới nhất trên thế giới NEO PI-R để 
đo đạc nhân cách con người Việt Nam, 
như chính tác giả khẳng định, có nhiều ưu 
thế nhất định nhưng vẫn không tránh khỏi 
“một số điểm bất cập về mặt phương pháp 
tiếp cận và triển khai nghiên cứu” bởi “có 
nhiều khía cạnh và chiều sâu của hiện 
thực mà hệ phương pháp định lượng 
không thể đáp ứng” (Phạm Minh Hạc, 
2007: 54). Hơn nữa, theo tác giả việc cung 
cấp một bức tranh toàn diện và sâu sắc về 
bối cảnh hình thành nhân cách, đặc biệt là 
nhân cách của các nhóm xã hội khác nhau, 
chỉ ra những quá trình phức tạp và vô 
6 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016 
cùng linh hoạt của thực hành hình thành 
và biến đổi nhân cách, nêu bật lên những 
quan niệm của chính bản thân chủ thể 
hành động hay nói một cách khác là trình 
bày vấn đề nhân cách thông qua lăng kính 
chủ thể chỉ có thể thực hiện được bằng 
hàng loạt những công cụ hữu hiệu và đặc 
trưng của hệ các phương pháp định tính 
trong khoa học xã hội. 
Như vậy, trong nghiên cứu nhân cách 
con người Việt Nam, việc áp dụng các 
phương pháp định lượng trong khoa học 
xã hội dù có ưu việt đến mấy, nhưng trên 
thực tế, lại có ý nghĩa không nhiều trong 
việc định hình được bản chất thực sự của 
nhân cách con người Việt Nam. Bản chất 
của nhân cách sẽ không thể nào được làm 
sáng tỏ nếu chỉ xét về mặt chức năng cũng 
như mặt cấu trúc vật chất. Lý do có lẽ 
phần lớn thuộc về phương pháp luận, vì 
thế phương pháp luận trong nghiên cứu 
nhân cách theo chúng tôi vẫn là cần tuân 
theo những nguyên tắc tiếp cận của triết 
học mác xít đó là nguyên tắc hệ thống, 
nguyên tắc lịch sử - xã hội và nguyên tắc 
tiếp cận hoạt động - giá trị. Áp dụng 
những nguyên tắc này một cách chính xác 
thì mới có thể làm rõ được bản chất của 
nhân cách con người Việt Nam. 
5. Các nghiên cứu dưới góc độ triết học 
Nghiên cứu về nhân cách con người 
Việt Nam nói riêng và nhân cách nói 
chung từ góc độ triết học có nghĩa là tập 
trung vào những vấn đề chung nhất của 
nhân cách và nhân cách con người Việt 
Nam cũng như tập trung vào những vấn 
đề xác lập nền tảng cơ sở lý luận và 
phương pháp luận cho nghiên cứu nhân 
cách. Khoảng hơn mười năm trở lại đây, 
trong bối cảnh xã hội có nhiều thay đổi 
căn bản, khi mà những biến động về hệ 
giá trị đang trở nên phức tạp, khi con 
người ngày càng phải đối mặt nhiều hơn 
với những biến động về lối sống, quan 
niệm sống,... người ta ngày càng gặp 
nhiều khó khăn hơn trong tìm kiếm giải 
pháp hợp lý, khoa học, bài bản cho những 
vấn nạn xung quanh sự suy thoái nhân 
cách, thì việc tìm kiếm và xác lập nền tảng 
phương pháp luận và cơ sở lý luận cho 
nghiên cứu nhân cách trong triết học ngày 
càng được đặt ra cấp thiết hơn. Những 
năm qua, nhiều đề tài cấp nhà nước về 
nhân cách đã được tiến hành theo các 
hướng nghiên cứu khác nhau từ nhiều góc 
độ và đã đạt được những kết quả đáng kể. 
Tuy nhiên, những vấn đề thực sự của bản 
thân nhân cách cũng như khoa học nghiên 
cứu về nó vẫn đặt ra nhiều vướng mắc 
chưa lý giải được đòi hỏi tiếp tục được 
nghiên cứu, xem xét. 
Hiện nay, những nghiên cứu mang 
tính chất phương pháp luận của triết học 
về nhân cách không nhiều, một số bài báo 
trực tiếp xem xét khái niệm nhân cách từ 
góc độ triết học Marx-Lenin như Bàn về 
khái niệm nhân cách dưới góc độ triết học 
của Nguyễn Quốc Tuấn (2006) và Nhân 
cách theo quan điểm Triết học Marx-
Lenin của Vũ Thị Kim Oanh (2011). 
Trong nghiên cứu nhân cách con 
người Việt Nam, khi đưa ra định hướng có 
tính chất phương pháp luận cho việc 
nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường 
kinh tế-xã hội đối với sự hình thành và 
phát triển nhân cách con người Việt Nam, 
tác giả Đặng Vũ Hoạt (1993) cho rằng 
chiến lược con người đòi hỏi chúng ta 
phải nghiên cứu hết sức nghiêm túc về 
mặt khoa học nhằm: làm sáng tỏ bản chất 
với những đặc điểm cơ bản của con người 
Việt Nam; phát hiện những quy luật và 
những tính quy luật của sự hình thành và 
phát triển nhân cách con người Việt Nam 
trong suốt chiều dài lịch sử nói chung; xây 
dựng và thực hiện một hệ thống giải pháp 
phức hợp, hợp lý để một mặt có thể giáo 
dục, đào tạo mọi người trở thành những 
CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ 7 
công dân hữu ích, những người lao động 
có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương 
được những trách nhiệm nhất định trên 
các cương vị nhất định, mặt khác, có thể 
khai thác và tận dụng có hiệu quả nhất khả 
năng của mỗi con người phục vụ cho sự 
nghiệp đổi mới của đất nước; dự báo phát 
triển nhân cách con người Việt Nam vào 
những năm cuối thế kỷ XX và những năm 
đầu thế kỷ XXI. 
Tóm lại, trong nghiên cứu nhân cách 
con người Việt Nam, việc phân chia thành 
các lĩnh vực nghiên cứu trên đây cũng chỉ 
mang tính chất rất tương đối. Việc nghiên 
cứu về nhân cách con người Việt Nam từ 
nhiều góc độ khác nhau cũng đã có nhiều 
bài viết, công trình, đề tài các cấp, tuy 
nhiên, những vấn đề thuộc về sự phức tạp 
của bản thân đối tượng nghiên cứu, vấn đề 
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn khảo sát, 
vấn đề sử dụng các phương pháp định 
tính, định lượng trong nghiên cứu vẫn 
cần nhiều công trình nghiên cứu đảm bảo 
chất lượng hơn nữa để đem lại một cái 
nhìn bao quát, toàn diện về nhân cách con 
người Việt Nam  
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học 
nhân cách: Một số vấn đề lý luận, 
Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
2. Trần Anh Châu (2008), “Tác động của 
một số đặc điểm nhân cách đến động 
cơ thành đạt của thanh niên”, Tạp chí 
Tâm lý học, số 8. 
3. Phạm Tất Dong (chủ biên, 2010), 
Những phẩm chất nhân cách đặc 
trưng của người Thăng Long - Hà Nội, 
Nxb. Hà Nội, Hà Nội. 
4. Lê Thị Thùy Dung (2013), Vai trò của 
văn hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển 
nhân cách sinh viên Việt Nam hiện 
nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Trung 
tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận 
chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
Hà Nội. 
5. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ 
biên, 2004), Một số vấn đề nghiên cứu 
nhân cách, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
6. Phạm Minh Hạc (chủ biên, 2007), 
Nghiên cứu giá trị nhân cách theo 
phương pháp NEO PI-R cải biên, Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
7. Cao Thu Hằng (2011), Kế thừa các giá 
trị đạo đức truyền thống trong xây 
dựng nhân cách con người Việt Nam 
hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, 
Học viện KHXH, Viện KHXH Việt 
Nam, Hà Nội. 
8. Lê Như Hoa (2001), Văn hóa gia đình 
với việc hình thành và phát triển nhân 
cách trẻ em, Viện Văn hóa và Nxb. 
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
9. Đặng Vũ Hoạt (1993), “Định hướng 
có tính chất phương pháp luận cho 
việc nghiên cứu ảnh hưởng của môi 
trường kinh tế-xã hội đối với sự hình 
thành và phát triển nhân cách con 
người Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu 
giáo dục, số 11. 
10. Nguyễn Văn Huyên (1995), “Quá trình 
sáng tạo và sự phát triển nhân cách”, 
Tạp chí Triết học, số 3. 
11. Lê Hương (2003), “Động cơ và quá 
trình hình thành nhân cách”, Tạp chí 
Tâm lý học, số 5. 
12. Phan Thị Mai Hương (2005), Thanh 
niên nghiện ma túy: Nhân cách và 
hoàn cảnh xã hội, Nxb. Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
13. Lương Thị Quỳnh Khuê (1995), Văn 
hóa thẩm mỹ với sự hình thành nhân 
cách của con người Việt Nam hiện 
nay, Luận án phó tiến sĩ Khoa học 
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia 
Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
8 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 10.2016 
14. Nguyễn Thị Mai Lan (2010), Định 
hướng giá trị nhân cách của học sinh 
trung học phổ thông, Nxb. Từ điển 
bách khoa, Hà Nội. 
15. Hồ Liên (2008), Một hướng tiếp cận 
văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà 
Nội. 
16. Đỗ Long (2000), “Quan hệ của trẻ và 
biện pháp khắc phục quá trình phi 
nhân cách hóa ở trẻ lang thang”, Tạp 
chí Tâm lý học, số 4. 
17. Đỗ Long (2004), “Lại bàn về nhân 
cách và nhân cách chiến sỹ”, Tạp chí 
Tâm lý học, số 12. 
18. Nguyễn Đặng Đình Lục (2005), Vai 
trò của pháp luật trong quá trình hình 
thành nhân cách, Nxb. Tư pháp, Hà 
Nội. 
19. Phạm Thị Minh (2005), “Giáo dục 
nhân cách cho học sinh, sinh viên 
trong bối cảnh của cơ chế thị trường”, 
Tạp chí Tâm lý học, số 7. 
20. Phạm Thành Nghị (2008), “Đặc điểm 
nhân cách sáng tạo”, Nghiên cứu Con 
người, số 3. 
21. Hoàng Đức Nhuận (1996), Vai trò của 
nhà trường trong sự hình thành và phát 
triển nhân cách con người Việt Nam 
bằng con đường giáo đục đào tạo, Báo 
cáo nội dung nghiên cứu và kết quả đạt 
được của Đề tài KX-07-08, Hà Nội. 
22. Hồ Hữu Nhựt (2004), “Giáo dục nhân 
cách người cai nghiện”, Nghiên cứu 
con người và xã hội, Trung tâm 
KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh, 
Số nội san tháng 1. 
23. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân 
cách trong tâm lý học ngày nay, Nxb. 
Giáo dục, Hà Nội. 
24. Vũ Thị Kim Oanh (2011), “Nhân cách 
theo quan điểm triết học Marx-Lenin”, 
Khoa học Chính trị, số 2. 
25. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo 
đức đối với sự hình thành và phát triển 
nhân cách sinh viên Việt Nam trong 
giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ 
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia 
Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
26. Nguyễn Văn Phúc (1996), “Vai trò của 
giáo dục đạo đức đối với sự phát triển 
nhân cách trong cơ chế thị trường”, 
Tạp chí Triết học, số 5. 
27. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2011), “Nhân 
cách người lãnh đạo quản lý và vai trò 
của yếu tố trí tuệ cảm xúc”, Nghiên cứu 
Con người, số 3. 
28. Phạm Huy Thành (2012), “Vai trò của 
giáo dục chủ nghĩa yêu nước đối với việc 
xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam 
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”, 
Dạy và học ngày nay, số 4. 
29. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong 
việc xây dựng nhân cách con người 
Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội. 
30. Trần Trọng Thủy (2004), “Lao động 
và nhân cách của người cán bộ khoa 
học nhìn từ góc độ của tâm lý học xã 
hội”, Tạp chí Tâm lý học, số 2. 
31. Lê Thị Thủy (2000), Vai trò của đạo 
đức đối với sự hình thành nhân cách 
con người Việt Nam trong điều kiện 
đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết 
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ 
Chí Minh, Hà Nội. 
32. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt 
Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb. 
Văn hóa thông tin, Tạp chí Văn hóa - 
nghệ thuật, Hà Nội. 
33. Nguyễn Quốc Tuấn (2006), “Bàn về 
khái niệm nhân cách dưới góc độ triết 
học”, Khoa học Chính trị, số 1. 
34.Lê Hữu Xanh (2006), “Nhân cách 
người lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện 
nay - Lý luận và thực tiễn”, Tạp chí 
Tâm lý học, số 1. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
26234_88146_1_pb_327.pdf