BÀN LUẬN
Các SCFAs đều có đặc tính hấp thụ UV kém, do đó
việc tạo dẫn xuất hydrazyd là phù hợp để thu được
sản phẩm hấp thụ UV ở bước sóng cao. Nghiên cứu
đã lựa chọn được điều kiện phản ứng tối ưu, cách
xử lý mẫu phân đơn giản, nhanh, tiện lợi, tiết kiệm;
quá trình tạo dẫn xuất không mất quá nhiều thời
gian, thích hợp cho các nghiên cứu đánh giá chuyển
hóa sinh học về sau.
Nghiên cứu sử dụng cột Eclipse XDB - C8 (150
x 4,6 mm, 5µm), đây là loại cột khá phổ biến trong
các phòng thí nghiệm phân tích, không sử dụng cột
phân tích chuyên dùng cho acid béo có giá thành
cao như nghiên cứu [7], cột trao đổi ion [10]. Về
bước sóng phát hiện, bước sóng 396 nm cho hấp
thụ cực đại của hầu hết các dẫn xuất SCFAs trong
môi trường acid, tránh hấp thụ của các tạp và dung
môi do bước sóng khá cao. Thời gian phân tích là
40 phút, tuy không ngắn nhưng giúp rửa giải được
tối đa các tạp chất trong mẫu phân giúp bảo vệ tuổi
thọ cột. Hơn nữa đối với mẫu sinh học phức tạp như
mẫu phân thì thời gian phân tích này có thể chấp
nhận được.
Phương pháp phân tích bằng HPLC để định lượng
SCFAs trong phân chuột có tính chọn lọc cao, khoảng
nồng độ tuyến tính khá rộng, độ đúng và độ chính
xác cao, mẫu sau xử lý khá ổn định trong vòng 24h,
thích hợp cho việc phân tích liên tục nhiều mẫu.
Về ứng dụng của phương pháp, kết quả trên hình
4 cho thấy, trong khi với lô cho ăn TBTN trong một
thời gian dài, mặc dù hàm lượng các SCFAs có thay
đổi (từ 7,58 lên 9,92µmol/g) nhưng sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) trong suốt 20
ngày thử nghiệm. Tuy nhiên với lô cho ăn TBAC150-9,
hàm lượng các SCFAs lại biến thiên rất lớn theo thời
gian (từ 11,01 lên 17,30 µmol/g) trong suốt 18 ngày
thử nghiệm (p < 0,05). Sau đó vẫn có sự tăng lên cho
đến ngày thứ 20 (lên 18,11µmol/g), tuy nhiên sự gia
tăng tại thời điểm này không còn ý nghĩa thống kê (p
> 0,05). Kết quả khảo sát cho thấy sau 20 ngày thử
nghiệm, TBAC150-9 đã được lên men hầu như hoàn
toàn để chuyển hóa thành các SCFAs với hàm lượng
lớn nhất. Kết quả này bước đầu đã cho phép nhóm
nghiên cứu nhận định đúng đắn về sự chuyển hóa
rất lớn của TBAC trong hệ tiêu hóa chuột thí nghiệm
để tạo thành các SCFAs, chiếm tỉ lệ lớn hơn rất nhiều
so với TBTN. Điều này được giải thích bởi vẫn còn
một lượng rất lớn của RS trong TBAC150-9đã đề kháng
rất hiệu quả sự tác động của enzyme amylase nên
không bị thủy phân trong ruột non được chuyển hóa
thành các SCFAs trong ruột già.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định các acid béo chuỗi ngắn được chuyển hóa từ tinh bột đề kháng trong phân chuột bằng phương pháp HPLC, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
65
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Địa chỉ liên hệ: Trương Văn Trí, email: drtruongtri@gmail.com 
Ngày nhận bài: 5/10/2018, Ngày đồng ý đăng: 22/10/2018; Ngày xuất bản: 8/11/2018
XÁC ĐỊNH CÁC ACID BÉO CHUỖI NGẮN ĐƯỢC CHUYỂN HÓA
 TỪ TINH BỘT ĐỀ KHÁNG TRONG PHÂN CHUỘT 
BẰNG PHƯƠNG PHÁP HPLC
Nguyễn Hữu Tiến1, Nguyễn Thị Mai Khánh2, Trần Hữu Dũng1
(1) Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Sài Gòn
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Các acid béo chuỗi ngắn (SCFAs) là các sản phẩm chuyển hoá quan trọng từ quá trình lên men 
kỵ khí các carbonhydrat của vi khuẩn ruột. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định các SCFAs được chuyển hóa từ 
tinh bột đề kháng trong phân chuột. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phân chuột được ăn tinh bột 
tự nhiên hoặc tinh bột đề kháng; các SCFAs trong phân được tạo dẫn xuất hydrazid và phân tích bằng HPLC. 
Sau khi được thẩm định theo US-FDA, phương pháp được ứng dụng để xác định SCFAs trong phân chuột ăn 
hai loại tinh bột. Kết quả: Điều kiện sắc ký: cột Eclipse XDB–C8 (4,6mmx150mm, 5µm); pha động MeOH, ACN 
và đệm TFA 0,057mM (pH 4,5) theo chương trình gradient, bước sóng 396nm. Phương pháp được thẩm định 
đạt các tiêu chí theo US-FDA. Sử dụng phương pháp này để phân tích cho thấy đã có sự gia tăng rất lớn hàm 
lượng các SCFAs được chuyển hóa từ tinh bột đề kháng trong thức ăn. Kết luận: Phương pháp có thể ứng 
dụng để định lượng SCFAs trong các phân đoạn tiêu hóa của cơ thể.
Từ khoá: SCFAs, HPLC, tinh bột đề kháng, phân.
Abstract
DETERMINATION OF SHORT CHAIN FATTY ACIDS IN RAT FECES 
TREATED WITH RESISTANT STARCH BY HPLC
Nguyen Huu Tien1, Nguyen Thi Mai Khanh2, Tran Huu Dung1
(1) Faculty of Pharmacy, Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital, Hue University
(2) Hoan My Saigon Hospital
Background: Short-chain fatty acids (SCFAs), mostly found in colon feces, is an important group of gut 
microbial metabolites from anaerobic fermentation of indigestible carbohydrates. Objectives: To develope an 
HPLC method to determined SCFAs in rat feces treated with resistant starch. Materials and methods: Sample 
is the rat feces fed with acetate wheat starch and normal starch; fatty acid hydrazides are derived from SCFAs 
in feces and measured by HPLC. After validated as guidance of US-FDA, method is applied to identify SCFAs 
in rat treated two types of starch. Results: the HPLC condition was optimized as follow: Eclipse XDB–C8 
(4.6mmx150mm, 5µm) column; mobile phase: methanol, acetonitrile and 0,057 mM acid triflouroacetic (pH 
4.5) (0:13:87 – 10:20:70 – 0:13:87, v/v/v) in 40 mins;, examinized wavelength: 396 nm. Method was validated 
with parameters: system suitability, specificity, linearity, precision, accuracy and stability. The result showed 
amount ratio of SCFAs in feces of mice group treated with acetate wheat starch containing resistant starch 
higher than from the diet containing normal starch significantly. Conclusion: This method can be used to 
investigate SCFAs in the gastrointestinal segments of the living organism.
Key words: SCFAs, HPLC, resistant starch, feces.
Nguyễn Hữu Tiến, email: h utien.pharm181@gmail.com DOI: 10.34071/jmp.2019.1.11
12/1 9 8/2/2019; Ngày xuất bản: 25/2/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về 
tinh bột đề kháng (RS: resistant starch) và đã khẳng 
định được vai trò của loại tinh bột này nhờ vào tác 
dụng đề kháng với enzym amylase nên không được 
tiêu hóa ở ruột non, góp phần hạn chế đáng kể sự 
gia tăng đột ngột glucose máu sau bữa ăn. Không 
những vậy, sau khi thoát khỏi ruột non và đi vào 
ruột già, RS sẽ được lên men tạo thành các acid béo 
chuỗi ngắn (SCFAs), chứa mạch hydrocarbon ngắn 
(1C-6C) được chuyển hoá từ quá trình lên men kỵ 
khí bởi vi khuẩn đường ruột, được tìm thấy nhiều 
nhất trong phân đại tràng. Các SCFAs có vai trò như 
một nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể chủ. 
Bên cạnh đó các SCFAs còn tham gia vào nhiều 
quá trình khác trong cơ thể sống như điều hoà pH 
66
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
ruột và các hoạt động của enzym đường ruột [2]; 
có hoạt tính kháng viêm, điều hoà nhu động ruột 
[3]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra việc xác định được 
thành phần và hàm lượng các SCFAs có thể cho biết 
rõ hơn về mối quan hệ giữa chế độ ăn, thành phần 
các vi khuẩn ruột, các chuyển hoá sinh hoá trong 
quá trình tiêu hoá thức ăn ở cơ thể chủ cũng như 
một số bệnh có liên quan đến đại tràng [2][4]. Một 
số nghiên cứu trên thế giới đã áp dụng các phương 
pháp định lượng các SCFAs trong các mẫu sinh học 
bằng điện di mao quản [5],[6], sắc ký lỏng khối phổ 
[2], sắc ký khí khối phổ [4], sắc ký lỏng hiệu năng 
cao (HPLC) [7]. Trong đó phương pháp HPLC với 
detector UV được quan tâm hơn cả do có độ nhạy 
tương đối cao, phổ biến và kinh tế. Tuy nhiên hiện 
nay tại Việt Nam chưa có công trình nào tiến hành 
định lượng các SCFAs trong mẫu sinh học bằng một 
trong các phương pháp trên. 
Năm 2018, Trần Hữu Dũng và cộng sự đã thực 
hiện nghiên cứu chế biến tinh bột lúa mì acetat 
(TBAC) định hướng dùng trong hỗ trợ điều trị bệnh 
đái tháo đường. Đây là loại tinh bột đề kháng RS
4
được hình thành do biến đổi cấu trúc hóa học và 
có khả năng đề kháng với enzyme amylase rất rõ 
rệt trên in-vitro [1]. Với mong muốn nghiên cứu sâu 
hơn về sự chuyển hóa của loại tinh bột này sau khi 
thoát khỏi sự tiêu hóa của ruột non liệu có chuyển 
hóa tạo ra các SCFAs hay được đào thải nguyên vẹn 
như các chất xơ cellulose, nhóm nghiên cứu tiếp tục 
thực hiện đề tài này với mục tiêu xây dựng được 
phương pháp định lượng các SCFAs được chuyển 
hóa từ TBAC trong phân chuột thí nghiệm so với tinh 
bột tự nhiên bằng phương pháp HPLC nhằm làm cơ 
sở cho các nghiên cứu sâu hơn về y sinh và dược lý 
về các loại SCFAs.
2. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
Nguyên vật liệu và thiết bị nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Mẫu tinh bột lúa mì tự 
nhiên (TBTN) được tinh chế từ tinh bột mì thương 
mại của Công ty trách nhiệm hữu hạn bột mì Meizan 
và tinh bột lúa mì acetate TBAC
150-9 
được tạo thành 
bằng phương pháp acetyl hóa có hàm lượng acetyl 
là 2,4% và chứa hàm lượng tinh bột đề kháng (RS) 
là 34,5%.
Chuột nhắt trắng đặc thuần chủng dòng Swiss, 
có thể trọng 20-24g, 4 tuần tuổi, trưởng thành, khỏe 
mạnh do Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế Pasteur Nha 
Trang cung cấp. Chuột được nuôi một tháng để thích 
nghi với môi trường thí nghiệm.
 - Hoá chất – dung môi: Các chất chuẩn gồm các 
acid acetic (100%), propionic (99%), n-butyric (99%), 
valeric (98%) và chất nội chuẩn (IS) 2-ethylbutyric 
acid (98%) đều của Merck, Đức; acid succinic 
(99%) của HiMedia, Ấn Độ. Methanol (MeOH), 
acetonitril (ACN), acid triflouroacetic 100% (TFA) 
tinh khiết dùng chạy HPLC của Merck, Đức. N-(3-
dimethylaminopropyl)-N′-ethylcarbodiimide 
hydrochloride (1-EDC-HCl) (HiMedia, Ấn Độ), 
2-nitrophenylhydrazine (2-NPH-HCl) (TCI, Nhật) và 
các hóa chất đạt tinh khiết phân tích.
- Thiết bị - dụng cụ: Hệ thống HPLC Shimadzu 
LC20A – Detector PDA (Nhật), máy ly tâm Z326K 
Hermle Labortechnik GmbH (Đức), cân phân tích 
Mettler Toledo ME 204, máy đo pH SENSIONTM PH3, 
tủ lạnh âm sâu Sanyo MDF 293AT, micropipet Labnet 
(Mỹ) và các dụng cụ thủy tinh chính xác.
Phương pháp nghiên cứu
Chuột được phân thành ngẫu nhiên 2 lô, mỗi lô 8 
con (Lô TBTN và Lô TBAC). Hàng ngày cho các chuột 
mỗi lô ăn huyền phù tinh bột mỗi loại khác nhau 
bằng đường bơm mẫu xuống thực quản với kim đầu 
tù lần lượt:
- Lô TBTN: cho ăn huyền phù chứa TBTN với liều 
5g/kg cân nặng x 2 liều/ngày (buổi sáng và chiều). 
- Lô TBAC: cho ăn huyền phù chứa TBAC
150-9 
với 
liều 5g/kg cân nặng x 2 liều/ngày (buổi sáng và chiều).
Trong suốt thời gian thử nghiệm các lô chuột 
được cung cấp thức uống hàng ngày là sữa Vinamilk 
và nước cất cho uống tự do. Tại các thời điểm 5; 10; 
15, 18 và 20 ngày, tiến hành thu gom phân chuột 
mỗi lô để tiến hành định lượng các SCFAs thu được.
- Chuẩn bị các thuốc thử tạo dẫn xuất: Pyridin 3% 
(tt/tt) (R1), 1-EDC-HCl 250 mmol/L (R2), 2-NPH-HCl 
20 mmol/L (R3) được pha trong methanol; NaOH 
15% (kl/tt) pha trong nước cất, thêm methanol vào 
dung dịch NaOH theo tỉ lệ thể tích NaOH/methanol 
= 80/20 (R4); H
3
PO
4
 0,5 M (R5).
- Chuẩn bị các dung dịch chuẩn làm việc: Các 
dung dịch chuẩn SCFAs và chất nội chuẩn gốc nồng 
độ 200 mM được pha trong dung dịch MeOH 50% 
(tt/tt). Từ đó pha thành các dung dịch chuẩn SUC 
(0,4 mM), ACE (1,6 mM), PRO (0,4 mM), BUT (0,16 
mM), VAL (0,05 mM), IS (0,8 mM) trong MeOH.
- Xử lý mẫu 
Đối với mẫu chuẩn acid: pha loãng các dung dịch 
chuẩn gốc đến nồng độ cần thiết, sau đó thực hiện 
phản ứng tạo dẫn xuất theo quy trình như Hình 1.
Đối với các mẫu phân: Cân 0,5g phân chuột tươi 
đựng vào falcon 15ml và phân tán trong 5ml MeOH, 
ly tâm 10.000 vòng/phút x 10 phút ở nhiệt độ 20oC. 
Thu lớp dịch ở trên để thực hiện phản ứng tạo dẫn 
xuất, theo quy trình như Hình 1.
67
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
- Điều kiện sắc ký: Phương pháp phân tích được 
tiến hành ở nhiệt độ phòng trên cột Zorbax Eclipse 
XDB – C8 (4,6 x 150mm, 5µm); pha động gồm 
MeOH, ACN và đệm TFA 0,057mM pH 4,5 với tỷ lệ 
dung môi thay đổi theo chương trình gradient 40 
phút (0:13:87 – 10:20:70 – 0:13:87), tốc độ dòng 
1,4 ml/phút, nhiệt độ cột 40oC, thể tích tiêm 20 µl, 
detector PDA với bước sóng 396 nm.
Các số liệu phân tích thống kê dựa vào phần 
mềm Microsoft Excel 2013. Phương pháp được 
thẩm định theo hướng dẫn của FDA về thẩm định 
quy trình phân tích mẫu sinh học [8].
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Khảo sát điều kiện sắc ký
Qua tham khảo tài liệu [7],[9] và với điều kiện 
hiện có của phòng thí nghiệm, chúng tôi sử dụng cột 
Zorbax Eclipse XDB C8 (4,6 x 150 mm, 5µm) trong 
nghiên cứu này. Nghiên cứu khảo sát trên 2 hệ dung 
môi pha động: hệ 1 gồm MeOH, ACN và H
2
O; hệ 2 
gồm MeOH, ACN và đệm TFA 0,057 mM (pH 4,5). Kết 
quả cho thấy với hệ dung môi MeOH – ACN – đệm 
TFA 0,057 mM cho pic các chất cân đối, sắc nhọn, 
tách rời tốt. Để lựa chọn tỷ lệ pha động và thời gian 
phân tích hợp lý, nghiên cứu đã khảo sát các tỷ lệ 
khác nhau của 3 dung môi trên và lựa chọn được hệ 
pha động phù hợp nhất dung phân tích các SCFAs là 
hệ pha động MeOH – ACN – đệm TFA 0,057 mM (pH 
4,5) với chương trình dung môi như sau: 0:13:87 (0 
– 9 phút) – 10:20:70 (10 – 35 phút) – 0:13:87 (36 – 
40 phút). Sau khi lựa chọn điều kiện sắc ký, phương 
pháp được thẩm định.
Khảo sát điều kiện tối ưu cho phản ứng tạo dẫn xuất
Hình 2. Tỷ lệ diện tích píc các SCFA với IS theo nhiệt độ (a) và thời gian phản ứng (b).
Hình 1. Quy trình xử lý mẫu bằng phản ứng tạo dẫn xuất của các SCFAs
150 l IS
600 l R1
600 l R2
600 l R3
600 l MeOH
30o C/20ph
8 mL H2O
30o C/20ph
6 mL R5
8 mL ether
68
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Kết quả thực nghiệm cho thấy nhiệt độ và thời 
gian phản ứng tạo dẫn xuất có ảnh hưởng đến hàm 
lượng SCFAs thu được. Tiến hành xử lý và sắc ký một 
số mẫu hỗn hợp chuẩn có nồng độ chất như nhau, 
thực hiện 3 lần và lấy kết quả trung bình ở mỗi điều 
kiện khảo sát. Các kết quả khảo sát được thể hiện 
qua các đồ thị ở Hình 2.
Kết quả khảo sát các nhiệt độ phản ứng 30, 35, 
40, 45, 50, 55oC với biến đầu ra là tỷ lệ của diện tích 
píc các chất phân tích với IS cho thấy nhiệt độ tối ưu 
cho phản ứng tạo dẫn xuất là 30oC. 
Kết quả khảo sát thời gian phản ứng tạo dẫn xuất 
10, 20, 30 phút với biến đầu ra là tỷ lệ diện tích pic 
chất phân tích với IS cho thấy thời gian tối ưu cho 
phản ứng tạo dẫn xuất là 20 phút (không có sự khác 
biệt rõ rệt giữa 20 phút và 30 phút). Do đó, điều kiện 
nhiệt độ 30oC và thời gian 20 phút được chọn làm 
điều kiện tối ưu cho phản ứng.
 Thẩm định phương pháp
- Tính phù hợp hệ thống
Chuẩn bị mẫu hỗn hợp chuẩn 5 acid với nồng độ 
từng acid trong hỗn hợp lần lượt như sau: SUC (0,4 
mM), ACE (1,6 mM), PRO (0,4 mM), BUT (0,16 mM), 
VAL (0,05 mM); tiến hành xử lý mẫu theo quy trình, 
tiêm lặp lại 6 lần vào hệ thống sắc ký. Kết quả được 
trình bày tại Bảng 1.
Bảng 1. Kết quả khảo sát độ phù hợp hệ thống
Chất 
phân tích
Thông số thẩm định
t
R
S/S
IS
N R
S
k’
TB RSD% TB RSD% TB RSD% TB TB
SUC 5,25 0,13 0,049 1,63 2407 1,99 9,54 1,38
ACE 5,95 0,10 0,268 0,30 2762 0,75 1,60 1,70
PRO 10,53 0,12 0,380 0,26 4585 1,53 8,52 3,78
BUT 15,31 0,02 0,392 0,20 44243 0,47 10,47 5,91
VAL 21,93 0,01 0,172 0,70 29287 0,67 16,48 8,95
IS 26,04 0,02 26096 0,78 7,10 10,81
Các số liệu thu được cho thấy hệ thống và các điều kiện sắc ký chọn lựa là tương thích cho việc phân tích 
định lượng các SCFAs trong phân chuột.
- Tính chọn lọc
Tiến hành sắc ký 10 mẫu gồm: 5 mẫu đơn từng acid, mẫu trắng MeOH, mẫu hỗn hợp chuẩn, mẫu phân, 
mẫu phân thêm chuẩn. Sắc ký đồ của các mẫu được trình bày ở Hình 3.
Hình 3. Sắc ký đồ các mẫu: a) Mẫu trắng MeOH có IS; b) Mẫu hỗn hợp chuẩn; 
c) Mẫu phân; d) Mẫu phân thêm chuẩn
69
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Từ kết quả thực nghiệm cho thấy các pic sắc gọn, cân đối, tách nhau, trên mẫu trắng tại thời gian lưu của 
các chất không có pic lạ. Kiểm tra độ tinh khiết pic bằng công cụ Purity View trên phần mềm đi kèm cho thấy 
các pic đều có giá trị Purity Index từ 0,9999 đến 1,0000. Do đó phương pháp có độ chọn lọc tốt.
- Khoảng nồng độ tuyến tính
Chuẩn bị một dãy mẫu hỗn hợp chuẩn 5 acid với các nồng độ giảm dần, xử lý và tiến hành sắc ký theo điều 
kiện đã xác định. Kết quả được trình bày ở Bảng 2 và Hình 4.
Bảng 2. Kết quả khảo sát khoảng nồng độ tuyến tính
SCFAs SUC ACE PRO BUT VAL
Khoảng nồng độ (mM) 0,05 - 1,6 0,2 - 6,4 0,05 - 1,6 0,02 - 0,64 0,00625 - 0,2
Đường tuyến tính
y = 0,0811x + 
0,0089
y = 0,1404x + 
0,0209
y = 0,845x + 
0,0094
y = 1,842x + 
0,0362
y = 2,9494x + 
0,0065
Hệ số tương quan (r2) 0,9974 0,9994 0,9991 0,9955 0,9982
Kết quả cho thấy, trong khoảng nồng độ khảo sát của từng acid có sự tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa 
nồng độ với tỷ lệ diện tích pic chuẩn và chuẩn nội (với r2 > 0,995).
- Xác định LOD – LOQ
Chuẩn bị các mẫu hỗn hợp chuẩn có nồng độ giảm dần, xử lý và tiến hành sắc ký. Xác định tỉ số tín hiệu/
nhiễu nền (S/N), giá trị LOD được xác định khi S/N=3, giá trị S/N=10. Kết quả các giá trị LOD và LOQ của các 
acid được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3. Kết quả khảo sát LOD - LOQ
SCFAs SUC ACE PRO BUT VAL
LOD (µM) 2,97 7,56 1,57 0,55 0,55
LOQ (µM) 9,9 25,19 5,22 1,85 1,84
- Độ chính xác
Tiến hành xử lý và sắc ký 6 mẫu phân ngay sau khi lấy ở chuột. Hàm lượng SCFAs trong phân (µmol/g) 
trong các mẫu được tính từ đường chuẩn được thiết lập trong cùng ngày và lặp lại quy trình này trong ngày 
thứ hai trên cùng mẫu. Kết quả được thể hiện trong Hình 4.
Bảng 4. Kết quả đánh giá độ chính xác
SCFAs SUC ACE PRO BUT VAL
Trong ngày
TB (µmol/g) 13,57 28,52 5,98 1,58 0,16
RSD % 7,05 6,74 6,00 6,09 5,52
Khác ngày
TB (µmol/g) 13,48 25,79 5,31 1,40 0,12
RSD % 5,86 5,35 7,45 7,59 5,44
Phương pháp có độ chính xác tốt với giá trị RSD đều dưới 15%, đáp ứng yêu cầu về độ chính xác của 
phương pháp phân tích trong mẫu sinh học.
- Độ đúng
Từ mẫu phân đã xác định hàm lượng các SCFAs, chuẩn bị các mẫu phân thêm 10; 20 và 100% chuẩn, tiến 
hành xử lý và sắc ký các mẫu. Tỷ lệ thu hồi của các SCFAs chuẩn thêm vào được trình bày ở Bảng 5.
Bảng 5. Kết quả đánh giá độ đúng (n=3)
SCFAs
Tỷ lệ thu hồi (%) ± SD
SUC ACE PRO BUT VAL
Phân thêm 10% chuẩn 101,0 ± 8,5 94,4 ± 3,5 101,5 ± 4,8 98,8 ± 7,5 104,4 ± 6,9
Phân thêm 20% chuẩn 101,0 ± 2,5 104,8 ± 3,6 98,7 ± 7,3 103,7 ± 4,2 100,5 ± 3,5
Phân thêm 100% chuẩn 93,2 ± 26 98,8 ± 5,2 97,1 ± 2,3 96,9 ± 2,4 99,8 ± 5,0
Phương pháp có độ đúng tốt với tỷ lệ thu hồi từ 93,2% - 104,8%, đáp ứng yêu cầu về độ đúng của phương 
pháp phân tích trong mẫu sinh học.
- Độ ổn định của mẫu
Độ ổn định mẫu trước xử lý: Bảo quản mẫu phân trong tủ lạnh âm sâu (-80oC). Lấy mẫu tại các thời điểm 
70
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
ngày thứ 0, 1, 5, 10, xử lý mẫu và tiến hành sắc ký để đánh giá độ ổn định của mẫu trước xử lý. Kết quả được 
thể hiện ở Bảng 6.
Bảng 6. Kết quả khảo sát độ ổn định của mẫu phân trước khi xử lý
Thời điểm C
SUC
 (mM) C
ACE 
(mM) C
PRO 
(mM) C
BUT 
(mM) C
VAL
 (mM)
Ngày 0 1,353 2,967 0,610 0,159 0,018
Ngày 1 1,213 2,618 0,608 0,159 0,017
Ngày 5 1,327 3,139 0,534 0,186 0,015
Ngày 10 1,400 2,900 0,572 0,161 0,016
TB 1,323 2,906 0,581 0,166 0,017
RSD% 6,00 7,46 6,15 7,96 6,33
Độ ổn định mẫu sau xử lý: Thực hiện phản ứng tạo dẫn xuất trên các mẫu phân chuột. Xử lý các mẫu trên, 
đặt trong buồng tiêm mẫu và tiến hành sắc ký tại các thời điểm 0, 6, 12, 18 và 24 giờ để đánh giá độ ổn định 
mẫu sau xử lý. Kết quả được thể hiện ở Bảng 7.
Bảng 7. Kết quả khảo sát độ ổn định của mẫu phân sau khi xử lý
Thời điểm (giờ) C
SUC
 (mM) C
ACE
 (mM) C
PRO
 (mM) C
BUT
 (mM) C
VAL
 (mM)
0 1,353 2,967 0,610 0,159 0,016
6 1,353 2,973 0,610 0,160 0,018
12 1,360 2,979 0,610 0,160 0,018
18 1,360 2,973 0,609 0,159 0,018
24 1,347 2,973 0,608 0,159 0,017
TB 1,356 2,972 0,609 0,159 0,018
RSD% 0,40 0,15 0,16 0,25 1,69
Hàm lượng các SCFAs trên các mẫu phân chưa xử lý không thay đổi đáng kể sau 10 ngày bảo quản ở nhiệt 
độ -80 oC và các mẫu phân đã xử lý không thay đổi đáng kể trong thời gian 24 giờ (RSD ≤ 15%). Điều đó cho 
thấy các SCFAs trong mẫu phân có độ ổn định tốt trong thời gian dài khi được bảo quản ở nhiệt độ âm sâu và 
mẫu đã xử lý có độ ổn định trong vòng 24 giờ.
- Xác định hàm lượng SCFAs trong phân chuột ăn tinh bột tự nhiên và tinh bột acetat
Các mẫu phân của các lô chuột thí nghiệm cho ăn TBTN và TBAC
150-9 
tại các ngày thứ 5; 10; 15; 18 và 20 
được tạo dẫn xuất hydrazide trong pyridin và phân tích trên HPLC với quy trình đã được thẩm định. Hàm 
lượng tổng SCFAs bao gồm acid acetic, propionic, butyric, succinic và valeric trong phân của các lô chuột thí 
nghiệm theo thời gian được trình bày ở Hình 4.
 Hình 4. Sự biến thiên hàm lượng SCFAs theo thời gian của lô ăn TBTN và TBAC
150-9
71
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
4. BÀN LUẬN
Các SCFAs đều có đặc tính hấp thụ UV kém, do đó 
việc tạo dẫn xuất hydrazyd là phù hợp để thu được 
sản phẩm hấp thụ UV ở bước sóng cao. Nghiên cứu 
đã lựa chọn được điều kiện phản ứng tối ưu, cách 
xử lý mẫu phân đơn giản, nhanh, tiện lợi, tiết kiệm; 
quá trình tạo dẫn xuất không mất quá nhiều thời 
gian, thích hợp cho các nghiên cứu đánh giá chuyển 
hóa sinh học về sau.
Nghiên cứu sử dụng cột Eclipse XDB - C8 (150 
x 4,6 mm, 5µm), đây là loại cột khá phổ biến trong 
các phòng thí nghiệm phân tích, không sử dụng cột 
phân tích chuyên dùng cho acid béo có giá thành 
cao như nghiên cứu [7], cột trao đổi ion [10]. Về 
bước sóng phát hiện, bước sóng 396 nm cho hấp 
thụ cực đại của hầu hết các dẫn xuất SCFAs trong 
môi trường acid, tránh hấp thụ của các tạp và dung 
môi do bước sóng khá cao. Thời gian phân tích là 
40 phút, tuy không ngắn nhưng giúp rửa giải được 
tối đa các tạp chất trong mẫu phân giúp bảo vệ tuổi 
thọ cột. Hơn nữa đối với mẫu sinh học phức tạp như 
mẫu phân thì thời gian phân tích này có thể chấp 
nhận được.
Phương pháp phân tích bằng HPLC để định lượng 
SCFAs trong phân chuột có tính chọn lọc cao, khoảng 
nồng độ tuyến tính khá rộng, độ đúng và độ chính 
xác cao, mẫu sau xử lý khá ổn định trong vòng 24h, 
thích hợp cho việc phân tích liên tục nhiều mẫu.
Về ứng dụng của phương pháp, kết quả trên hình 
4 cho thấy, trong khi với lô cho ăn TBTN trong một 
thời gian dài, mặc dù hàm lượng các SCFAs có thay 
đổi (từ 7,58 lên 9,92µmol/g) nhưng sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) trong suốt 20 
ngày thử nghiệm. Tuy nhiên với lô cho ăn TBAC
150-9
, 
hàm lượng các SCFAs lại biến thiên rất lớn theo thời 
gian (từ 11,01 lên 17,30 µmol/g) trong suốt 18 ngày 
thử nghiệm (p < 0,05). Sau đó vẫn có sự tăng lên cho 
đến ngày thứ 20 (lên 18,11µmol/g), tuy nhiên sự gia 
tăng tại thời điểm này không còn ý nghĩa thống kê (p 
> 0,05). Kết quả khảo sát cho thấy sau 20 ngày thử 
nghiệm, TBAC
150-9 
đã được lên men hầu như hoàn 
toàn để chuyển hóa thành các SCFAs với hàm lượng 
lớn nhất. Kết quả này bước đầu đã cho phép nhóm 
nghiên cứu nhận định đúng đắn về sự chuyển hóa 
rất lớn của TBAC trong hệ tiêu hóa chuột thí nghiệm 
để tạo thành các SCFAs, chiếm tỉ lệ lớn hơn rất nhiều 
so với TBTN. Điều này được giải thích bởi vẫn còn 
một lượng rất lớn của RS trong TBAC
150-9 
đã đề kháng 
rất hiệu quả sự tác động của enzyme amylase nên 
không bị thủy phân trong ruột non được chuyển hóa 
thành các SCFAs trong ruột già. 
5. KẾT LUẬN
Như vậy, phương pháp định lượng các SCFAs 
trong phân chuột bằng HPLC với độ đúng tốt, khoảng 
tuyến tính khá rộng, tính chọn lọc cao đã được xây 
dựng với quy trình xử lý mẫu khá đơn giản. Sử dụng 
phương pháp này để phân tích cho thấy đã có sự gia 
tăng rất lớn hàm lượng các SCFAs được chuyển hóa 
từ tinh bột đề kháng trong thức ăn. Phương pháp 
này có thể ứng dụng để định lượng các acid béo 
trong các phân đoạn tiêu hóa đường ruột của cơ thể 
sống, nhằm đánh giá mối quan hệ giữa chế độ ăn và 
các chuyển hóa sinh học trong cơ thể, phục vụ cho 
việc nghiên cứu về tác dụng dược lý của các loại tinh 
bột đề kháng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Ngọc Uyên, Nguyễn Khắc Nam, Trần Hữu 
Dũng (2018), “Điều chế và xác định các đặc tính lý hóa của 
tinh bột mì acetat định hướng dùng hỗ trợ điều trị bệnh 
đái tháo đường”, Tạp chí Y Dược học, số 5 tập 8/2018, tr 
78-83.
2. S.R. Christoffersen (2017), “LC – MS/MS method 
for quantification of short chain fatty acids in biological 
samples”. Bachelor’s thesis, Professional bachelor in 
Laboratory technology.
3. John L. Rombeau (2004), “Investigations of 
short-chain fatty acids in humans”, Clinical Nutrition 
Supplements, Vol. 1, Issue 2, pp. 19–23.
4. Elyssa Rautiola (2013), “Short chain fatty acids 
production by Probiotic organisms in the gastrotestinal 
tract”, Journal of Chromatography A, Vol. 781, pp.233-
238.
5. R.G. Peres, E.P. Moraes, G.A. Micke, F.G. Tonin, 
M.F.M. Tavares, D.B. Rodriguez-Amaya (2008), “Rapid 
method for the determination of organic acids in wine by 
capillary electrophoresis with indirect UV detection”, Food 
Control , Vol. 20, Issue 6, pp. 548–552.
6. Christian W. Klampfl, Wolfgang Buchberger, Paul R. 
Haddad (2000), “Determination of organic acids in food 
samples by capillary zone electrophoresis”, Journal of 
72
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Chromatography A, Vol 881, Issue 1-2, pp. 357-364.
7. T Torii, K Kanemitsu, T Wada, S Itoh, A Hagiwara 
(2010), “Measurement of short-chain fatty acids in human 
feaces using high-performance liquid chromatography: 
specimen stability”. Annals of Clinical Biochemistry, 
Vol.47, Issue 5, pp. 447-452.
8. U.S. Department of Health and Human Services, 
Food and Drug Administration, CDER, CVM. (2013), 
“Guidance for industry: Bioanalytical Method Validation”.
9. Rikizo Horikawa, Takenori Tanimura (1982), 
“Spectrophotometric determination of carboxylic acids 
with 2-nitrophenylhydrazine in aqueous solution”, 
Analytical Letters, Vol. 15, Issue 20, pp. 1629-1642.
10. Kotani Akira, Miyaguchi Y, Kohama M, Ohtsuka 
T, Shiratori T, Kusu F. (2009), “Determination of short-chain 
fatty acids in rat and human feces by high-performance 
liquid chromatography with electrochemical detection”, 
Analytical Sciences, 25, pp.1007-1011.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 xac_dinh_cac_acid_beo_chuoi_ngan_duoc_chuyen_hoa_tu_tinh_bot.pdf xac_dinh_cac_acid_beo_chuoi_ngan_duoc_chuyen_hoa_tu_tinh_bot.pdf