KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên, chúng tôi xác định độc
lực qua liều gây tử vong 50% số chuột thí
nghiệm (LD50) của rắn lục đuôi đỏ (Trimeresurus
albolabris) ở Việt Nam là 0,464 µg/g, chiếm độc
lực khá cao so với rắn lục cùng họ.
Nọc độc gây xuất huyết tại chỗ đã được
chứng minh rõ ràng. Sử dụng sắc ký ái lực với
benzamidine đã cho phép tinh chế được serine
protease để xác định tỷ lệ của các enzyme này
trong nọc và xác định được khoảng pH tối ưu
cho hoạt tính enzyme là 8-8,5.
Do nọc rắn lục gây rối loạn đông cầm máu,
xuất huyết tại chỗ nên bước đầu chúng tôi đã
xác định được giá trị MHD của nọc là 2µg, liều
gây xuất huyết tối thiểu đường kính 10mm.
Để ngăn ngừa triệu chứng xuất huyết khi
nhiễm độc nọc rắn lục, kháng huyết thanh
kháng nọc có khả năng trung hòa tác động xuất
huyết ở 3MHD là 1,175µg.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định độc lực của rắn lục đuôi đỏ và tác động gây loét trên chuột, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
43
XÁC ĐỊNH ĐỘC LỰC CỦA RẮN LỤC ĐUÔI ĐỎ
VÀ TÁC ĐỘNG GÂY LOÉT TRÊN CHUỘT
Nguyễn Tấn Hiệp*, Nguyễn Thúy Hương**, Nguyễn Thị Nguyệt Thu***, Nguyễn Lê Trang
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lở loét và hoại tử mô tại chỗ còn là một vấn đề mà kháng huyết thanh không đem lại hiệu lực
tác dụng nào, đặc biệt với nhiễm độc nọc rắn lục đuôi đỏ. Hiện nay, chưa có một nghiên cứu nào ở Việt Nam báo
cáo về tác động gây loét khi bị rắn lục cắn.
Mục tiêu: Xác định thành phần gây độc chính trong nọc rắn lục đuôi đỏ (Trimeresurus albolabris) và các
yếu tố ảnh hưởng. Độc lực, liều gây tổn thương được tiến hành khảo sát trên chuột và hiệu lực trung hòa hoạt
tính enzyme trong nọc toàn phần của kháng huyết thanh kháng nọc.
Phương pháp nghiên cứu: Thí nghiệm trên chuột thông qua đường tiêm i.v, s.c. và giải phẫu vùng da bị
xuất huyết.
Kết quả: Nọc rắn lục gây xuất huyết tại chỗ được chứng minh rõ ràng, độ trầm trọng lệ thuộc vào liều nọc.
Độc lực của nọc rắn lục được xác định qua đường tiêm tĩnh mạch đuôi chuột (20g ±2, N=5): LD50 = 9,27 µg
nọc/chuột (0,464 µg/g). Liều nọc tối thiểu gây xuất huyết đường kính 10mm vùng dưới da chuột MHD = 2 µg/
chuột. Hiệu lực trung hòa 3 liều nọc MHD của kháng huyết thanh là 1,175 µg (protein kháng huyết thanh).
Enzyme serine protease trong nọc rắn lục đã được tinh chế qua cột Benzamidine Sepharose 6B và chiếm tỉ lệ
8,72% (g protein/100g nọc khô).
Kết luận: Sự hiện diện với tỷ lệ đáng kể của serine proteinase trong nọc là nguy cơ tiềm năng hoạt hóa
nhiều hệ thống tiền enzyme trong cơ thể của nạn nhân: hệ thống bổ thể, hệ thống cầm máu, gây hoại tử và biến
chứng. Nghiên cứu bước đầu cho thấy tác động gây xuất huyết của serine protease và khả năng trung hòa hoạt
tính enzyme trong nọc của kháng huyết thanh.
Từ khóa: Trimeresurus albolabris, nọc rắn lục, gây loét.
ABSTRACT
TRIMERESURUS ALBOLABRIS VENOM’ TOXIN STRENGTH AND NECROTIZING ACTIVITY WAS
DETERMINED IN MICE
Nguyen Tan Hiep, Nguyen Thuy Huong, Nguyen Thi Nguyet Thu, Nguyen Le Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 2 - 2014: 43 - 49
Background: Local tissue necrosis is an important problem when patients was bite by Trimeresurus
albolabris because treating with antiserum is not effected. There hasn’t been any study of necrotizing activity with
T. albolabris bite in Vietnam.
Objective: Identification of serine protease activities in Trimeresurus albolabris venom and its affecting.
Venom’ toxin strength, minimum hemorrhagic dose were test of mice injected and neutralization of enzyme
activities of Trimeresurus albolabris venom by antivenom.
Method: Testing on mice via i.v, s.c. injection and haemorrhagic spot in mice local tissue necrosis.
Results: The venom obviously causes local haemorrhage. The LD50 of the venom was determined by i.v.
injections of different doses into the caudal vein of mice (20±2, N=5): LD50 = 9.27 µg (0,464 µg/g). MHD is 2.0
µg/20g. Neutralization of 3MHD (6.0 µg) needed 1,175 µg antivenom protein. The yield of Serine protease
occupied 8.72% of dry venom protein.
*Bệnh Viện Đại Học Y Dược CS1 ** Đại Học Bách Khoa Tp. HCM ***Viện Pasteur Tp.HCM
Tác giả liên lạc: Nguyễn Tấn Hiệp ĐT: 0909338254 Email: hiep.nt@umc.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
44
Conclusion: The venom serine protease potentially activates hemostatic zymogen systems and causes local
necrosis. Preliminary results showed that haemorrhagic activity of serine protease and neutralization of enzyme
activities of Trimeresurus albolabris venom by antivenom.
Key words: Trimeresurus albolabris, snake venom, snakebite ulcers.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam thuộc vùng có địa hình và khí
hậu nhiệt đới thuận lợi cho sự sinh sống, phát
triển của các loài rắn nói chung và rắn độc nói
riêng. Rắn độc ở Việt Nam có thể chia làm hai
loại: các loài rắn thuộc họ nhỡn kính (elapidae)
có nọc gây độc thần kinh (neurotoxic) và các
loài rắn thuộc họ rắn lục (viperidae) có nọc gây
độc hệ huyết mạch (hemotoxic). Huyết thanh
kháng nọc rắn lục (Trimeresurus albolabris) và
kháng một số nọc rắn nhỡn kính đã được sản
xuất và thử nghiệm thành công trên bệnh nhân
nhiễm độc nọc rắn(7,10).
Huyết thanh kháng nọc rắn đã chứng tỏ có
hiệu quả để điều trị nhiễm độc nọc rắn(1,3). Tuy
nhiên, bệnh nhân thường chỉ được điều trị sau
một thời gian trì hoãn (để đến trung tâm y tế).
Thời gian trì hoãn là một nguyên nhân làm
tăng nguy cơ gây tử vong và cũng làm tăng
nguy cơ tạo các biến chứng sinh lý bệnh gây
tàn phế, đặc biệt làm tăng độ trầm trọng về
gây hoại tử tại chỗ(2).
Nguyên nhân lở loét được quy cho các
proteins gây độc trong nọc lưu tụ tại chỗ cắn, các
protein đó chủ yếu là các Serine proteases, hoạt
động với cơ chế xúc tác. Khi nhiễm độc nọc rắn
lục, các proteins này sẽ phân hủy các thành phần
của mô, phá vỡ mô, gây tổn thương cho vành
mạch, làm tăng tuần hoàn máu tập trung vào vết
thương và là nguyên nhân gây sưng phù, xuất
huyết tại chỗ(2). Rắn lục là loài có nanh nọc độc
phát triển nhất trong các loài rắn. Chấn thương
và sự nhiễm khuẩn do nanh nọc độc gây nên
không thể không tạo ra những đáp ứng tự bảo vệ
của cơ thể nạn nhân, trong đó có sự khởi động
của các yếu tố cầm máu (đa số đều là tiền serine
proteinase) với sự hoạt hóa của hệ kinin-
kallikrein(5).
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát Proteinase của nọc rắn lục đuôi đỏ
và tác động gây loét trên chuột.
Mục tiêu chuyên biệt
1. Xác định độc lực qua liều gây tử vong
50% số chuột thí nghiệm (LD50) của nọc rắn lục
đuôi đỏ.
2. Xác định thành phần gây độc chính ở rắn
lục đuôi đỏ và các yếu tố ảnh hưởng.
3. Xác định liều gây tổn thương đường kính
10mm vùng dưới da chuột (MHD).
4. Xác định hiệu lực trung hòa hoạt tính
enzyme trong nọc toàn phần của kháng huyết
thanh kháng nọc.
PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Vật liệu
Nọc rắn lục khô do Trung tâm Nuôi trồng
Nghiên cứu Chế biến Dược liệu quân khu 9,
Tiền Giang cung cấp.
Chuột nhắt trắng 18-20g được cung cấp từ
Viện Pasteur Tp.HCM.
Kháng huyết thanh kháng nọc do Viện Vắc
xin Nha Trang cung cấp.
Các bước tiến hành
Xác định liều gây tử vong 50% số chuột thí
nghiệm (LD50) của nọc rắn lục
Nguyên tắc
Thử nghiệm độc tính cấp này dựa trên phản
ứng toàn ứng hay bất ứng (sống hay chết).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
45
Nguyên tắc của thử nghiệm là tiêm một liều
duy nhất thuốc thử nghiệm vào con vật với điều
kiện ấn định, ghi phân suất tử vong trong một
thời gian quy định. Độc lực thường được biểu
thị bằng giá trị LD50 (lethal dose 50%) – liều tối
thiểu gây chết 50% số động vật thí nghiệm. Chất
có độc tính càng cao giá trị LD50 càng thấp.
Động vật thí nghiệm trong công trình này là
chuột nhắt trắng hoàn toàn khỏe mạnh, cùng
giới tính, độ tuổi, cùng dòng, không mang mầm
bệnh và không mang thai.
Gây nhiễm
+ Lô đối chứng: tiêm vào chuột 0.2 mL nước
muối sinh lý 0,9%.
+ Lô thử: tiêm vào chuột các lượng nọc và
độc tố khác nhau theo cấp số nhất định sao cho
trong đó chứa phân suất gây chết 0% và 100%
động vật thí nghiệm.
- Đọc kết quả trong 48 giờ kế từ tiêm.
- Kết quả được tính theo công thức Kaber-
Behrens:
Với Df: liều tối thiểu làm chết tất cả thú vật trong lô; a: trị
số trung bình của tổng số thú vật chết ở 2 lô kế tiếp; b: hiệu
số 2 liều kế tiếp; n: số thú vật dùng ở mỗi liều.
Độc lực của nọc được xác định bằng cách
tiêm vào tĩnh mạch đuôi (I.V.) của chuột nhắt
trắng 18-20 g.
Xác định pH các dung dịch đệm ảnh hưởng đến
hoạt tính enzyme
Tiến hành cho 0,2 mg nọc rắn được ủ với
casein 2% và các dung dịch đệm ở các pH khác
nhau tại 37°C trong 10 phút. Thêm TCA
(trichloroacetic acid) 5% vào, ly tâm thu nước nổi
và xác định giá trị hấp phụ quang ở 280 nm.
Tinh chế serine protease trong nọc rắn lục qua
cột Bezamidine Sepharose 6B
Nguyên tắc
Benzamidine SepharoseTM là p-
aminobenzamidine cộng hóa trị với Sepharose
6B bằng phương pháp cộng hợp thông qua
nhóm epoxy (một nguyên tử oxy liên kết với hai
nguyên tử carbon): p- aminobenzamidine (PAB)
là chất ức chế tổng hợp của trypsin dạng serine
protease. Các Trypsin dạng serine protease này
liên kết đặc hiệu với Benzamidine Sepharose 6B
được giữ lại trên cột. Sau đó, đẩy Serine Protease
ra khỏi cột bằng dung dịch đệm có tính acid
mạnh. Rửa cột và bảo quản ở 4OC. Xác định tỷ lệ
protein thu hồi và đánh giá kết quả tinh chế
bằng điện di trên thạch polyacrylamide 12% với
Sodium dodecylsulfate (SDS-PAGE)(6), hoạt tính
enzyme được xác định qua điện di SDS-PAGE
12%-gelatine 0,1%.
Thực hiện
Cho 11 mL nọc qua cột Bezamidine
Sepharose 6B 3 lần. Rửa cột bằng dung dịch đệm
Tris-HCl 20 mM, NaCl 0,5 M, pH=7,4 cho đến
khi dịch rửa không còn protein (OD280=0). Đẩy
thành phần bám trên cột dung dịch glycine
50mM, pH=3.0 (đến khi dịch ra có OD280=0),
trung hòa bằng Tris 1 M, pH=8. Thu enzyme cần
tinh chế. Cân bằng cột với dung dịch Tris-HCl 10
mM, NaCl 0,5 M, pH=7,5. Bảo quản cột ở 40C để
sử dụng cho các lần tinh chế sau.
Xác định liều tối thiểu gây xuất huyết đường
kính 10mm vùng dưới da chuột (MHD)
Nọc rắn được pha loãng hàng loạt theo bậc
hai từ 4-0,5 µg. Tiêm 0,1 ml vào vùng dưới da
mỗi chuột (Sc). Các chuột chứng được tiêm cùng
lượng nước muối sinh lý. Sau 2 giờ, giải phẫu
chuột, xác định đường kính vùng xuất huyết.
LD50 = Df - n
abΣ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
46
Xác định hiệu lực trung hòa hoạt tính enzyme
trong nọc toàn phần của kháng huyết thanh
kháng nọc
Dung dịch kháng huyết thanh được pha
loãng hàng loạt theo bậc 2: 1/2-1/32. Ủ dung
dịch kháng huyết thanh với nọc ở 3MHD tại
37°C trong 30 phút. Tiêm 0,1 ml vào vùng dưới
da mỗi chuột (S.C). Các chuột chứng được
tiêm 3MHD pha trong nước muối sinh lý. Sau
2 giờ, giải phẫu chuột, xác định đường kính
vùng xuất huyết.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Độc lực của nọc rắn lục đuôi đỏ
Kết quả cho thấy độc tính của nọc rắn lục
đuôi đỏ ở Việt Nam LD50 = 9,27µg/chuột
(chuột 18-20g).
Khảo sát pH các dung dịch đệm ảnh hưởng
đến hoạt tính enzyme
Bảng 1: Các dung dịch đệm với pH khác nhau
Dung dịch đệm pH
Phosphate 0,2 M 5,5 6,5 7,5 8,0
Tris-HCl 0,2 M 7,5 8,0 8,5 9,0
Glycine 0,2 M 8,5 9,5 10 10,5
Hình 1: Các dung dịch đệm ảnh hưởng đến hoạt tính
enzyme
Trong các dung dịch đệm khác nhau,
nhưng enzyme vẫn hoạt động tối ưu ở khoảng
pH = 8-8,5.
Tinh chế enzyme serine protease trong nọc
rắn lục qua cột Bezamidine-Sepharose 6B
Dung dịch nọc rắn được nạp vào cột ở pH =
7.4 với đệm Tris HCl 20mM, NaCl 0,5M; các
thành phần không bám đi ra khỏi cột và serine
protease được giữ lại trên cột. Đẩy serine
protease ra khỏi cột bằng glycine 0,1M, pH 2,5.
Xác định giá trị từng phân đoạn (1,5 mL) bằng
hấp phụ quang ở 280 nm.
Hình 2: Phân đoạn serine protease giải hấp từ cột
Đánh giá kết quả tinh chế bằng điện di trên
thạch polyacrylamide SDS-PAGE 12% và hoạt
tính enzyme được xác định qua điện di SDS-
PAGE 12%-gelatine 0,1%.
Hình 3: Kiểm tra các thành phần sau tinh chế SDS-
PAGE 12% Hàng 1, 2, 3: Serine protease sau tinh chế
có xử lý DTT Hàng 4: Serine protease sau tinh chế
không xử lý DTT. Hàng 6, 7, 8: Nọc rắn lục có xử lý
DTT. Hàng 9, 10: Nọc rắn lục không xử lý DTT
Mẫu enzyme do tinh chế cho một vạch
ngang với vạch enzyme có trong nọc rắn lục,
0
0.1
4 6 8 10 12
A
b
s
(2
8
0
n
m
)
pH
Phosphate Tris-HCl
Glycine
0
0.3
0.6
0.9
1.2
0 2 4 6 8 10
A
b
s2
8
0
Đoạn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
47
chứng tỏ enzyme thu được sau tinh chế là tinh
sạch và nồng độ cao. Hoạt tính enzyme cũng cho
kết quả tương tự.
Hình 4: Kiểm tra hoạt tính enzyme sau tinh chế
SDS-PAGE 12%-gelatine 0,1% Hàng 1, 2: Serine
protease sau tinh chế Hàng 4: Serine protease chuẩn
Hàng 5, 6, 7: Nọc rắn lục
Xác định liều tối thiểu gây xuất huyết đường
kính 10mm vùng dưới da chuột (MHD)
Liều tối thiểu gây xuất huyết đường kính
10mm vùng dưới da chuột là liều cho phép ta
quan sát đường kính xuất huyết rõ nhất dưới da
chuột, không có biểu hiện xuất huyết trên da.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định được
MHD của nọc rắn lục là 2µg.
Tại nồng độ huyết thanh pha loãng 1/8
(0,5875 µg/µl) đã cho phép chứng minh khả
năng trung hòa gần như hoàn toàn và tại nồng
độ huyết thanh pha loãng 1/4 (1,175 µg/µl) cho
thấy kháng huyết thanh hoàn toàn trung hòa
được nọc rắn lục toàn phần.
Hàm lượng nọc / 0,1 ml / chuột Mẫu chứng
4 µg 2 µg 1 µg 0,5 µg NaCl 0,9%
Hình 5: Xác định MHD trên chuột
Xác định hiệu lực trung hòa hoạt tính enzyme trong nọc toàn phần của kháng huyết thanh
kháng nọc
KHT 1/32 KHT 1/16 KHT 1/8 KHT ¼ KHT 1/2 3MHD
Hình 6: Kháng huyết thanh trung hòa nọc rắn lục toàn phần
BÀN LUẬN
Trên thế giới, các loài rắn thuộc họ rắn lục
(viperidae) có nọc gây độc hệ huyết mạch
(hemotoxic) thường có độc lực khá cao. Theo tác
giả Nget Hong Tan và cộng sự(9) nghiên cứu về
độc lực nhiều loài rắn Trimeresurus ở Đông Nam
Á, Trung Quốc, Ấn Độ đã xác định giá trị LD50
(µg/g) như sau: T. albolabris (0,60µg/g), T.
purpureomaculatus (1,27µg/g), T. samatranus
(0,60µg/g), T. popeorium (1,45µg/g), T. flavoviridis
(2,5µg/g), T. muscrosquamatus (1,50µg/g), T.
erythrurus (2,10µg/g), T. okinavensis (5,0µg/g), T.
stejnegeri (1,78µg/g), T. elegans (5,00µg/g), T.
macrops (10,00µg/g), T. wagleri (1,05µg/g). Trong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
48
nghiên cứu này, chúng tôi xác định độc lực qua
liều gây tử vong 50% số chuột thí nghiệm (LD50)
của rắn lục đuôi đỏ (T. albolabris) ở Việt Nam là
0.464 µg/g. Theo Kaber-Behrens, chất có độc tính
càng cao giá trị LD50 càng thấp(9), điều này
chứng tỏ độc lực của rắn lục đuôi đỏ ở Việt Nam
trong nghiên cứu này khá cao.
Benzamidine SepharoseTM là p-
aminobenzamidine (PAB) là chất ức chế tổng
hợp của trypsin dạng serine protease. Các
Trypsin dạng serine protease này liên kết đặc
hiệu với Benzamidine Sepharose 6B được giữ lại
trên cột. Dung dịch nọc rắn lục được nạp vào cột
ở pH = 7,4 với đệm Tris HCl 20mM, NaCl 0,5M;
các thành phần không bám đi ra khỏi cột và
serine protease được giữ lại trên cột. Đẩy serine
protease ra khỏi cột bằng glycine 0,1M, pH 2,5.
Mẫu enzyme do tinh chế cho một vạch ngang
với vạch enzyme có trong nọc rắn lục, chứng tỏ
enzyme thu được sau tinh chế là tinh sạch và
nồng độ cao. Theo tác giả Hoffmann và cộng
sự(4), tinh chế serine protease từ nọc rắn lục
Bothrops atrox, nọc được pha trong đệm sodium
phosphate (pH=7,5) để nạp vào cột. Khoảng pH
tối ưu từng loại đệm khảo sát trên đã giúp cho
lựa chọn đúng pH cho từng loại đệm tương ứng
khi tinh chế.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định
được liều tối thiểu gây xuất huyết đường kính
10mm (MHD) vùng dưới da chuột của nọc rắn
lục đuôi đỏ là 2µg. Khi so sánh với nồng độ khác
được tìm thấy trong nghiên cứu của Kabburalli
Sunitha và cộng sự(8), khảo sát ở các loài rắn lục
phổ biến ở vùng Trung Đông và Trung Á với
2MHD như sau: Echis carinatus (1µg), Echis
cariatus sochureki (10µg), Echis carinatus leakeyi
(5µg), Echis eceollatus (5µg), Crotalus atrox (5µg).
Qua đó, liều tối thiểu gây xuất huyết đường kính
10 mm của loài rắn lục đuôi đỏ khá thấp, chứng
tỏ độc lực của nọc gây loét là khá cao so với các
loài rắn cùng họ.
Theo tác giả Nget Hong Tan và cộng sự(9) đã
tiến hành trung hòa độc tính của nọc T. albolabris
và kháng huyết thanh kháng nọc với nồng độ
trung hòa như sau: đối với kháng huyết thanh
kháng nọc Trimeresurus đa giá NIPM (National
Institute of Preventive Medicine, Taiwan): 2,0
mg/mL (mg trung hòa/mL kháng huyết thanh),
kháng huyết thanh đơn giá GPV (Thai Red Cross
Society, Thailand): 1,9 mg/mL. Kháng huyết
thanh NIPM được pha loãng (1:8) (0,25 mg/mL),
lượng nọc sử dụng T. albolabris (3,5 µg) đủ để
gây tổn thương đường kính 11mm ở chuột.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thử nghiệm
trung hòa tại nồng độ huyết thanh pha loãng 1/8
(0,5875 mg/mL) đã cho phép chứng minh khả
năng trung hòa gần như hoàn toàn và tại nồng
độ huyết thanh pha loãng 1/4 (1,175 mg/mL) cho
thấy kháng huyết thanh hoàn toàn trung hòa
được nọc rắn lục toàn phần 3MHD (6,0 µg). Như
vậy, nồng độ huyết thanh (0.392 mg/mL) đã
trung hòa hoàn toàn lượng nọc T.albolabris (2,0
µg) liều tối thiểu gây xuất huyết đường kính
10mm. So sánh với thí nghiệm trên, nồng độ
kháng huyết thanh để trung hòa đường kính 11
mm của tác giả Nget Hong Tan và cộng sự (9) là
0,25 mg/mL, so với thí nghiệm chúng tôi là 0,392
mg/mL. Qua đó, chứng tỏ kháng huyết thanh
kháng nọc của Viện Vaccin Nha Trang có tác
dụng trung hòa thành phần gây xuất huyết được
thử nghiệm trên chuột.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên, chúng tôi xác định độc
lực qua liều gây tử vong 50% số chuột thí
nghiệm (LD50) của rắn lục đuôi đỏ (Trimeresurus
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
49
albolabris) ở Việt Nam là 0,464 µg/g, chiếm độc
lực khá cao so với rắn lục cùng họ.
Nọc độc gây xuất huyết tại chỗ đã được
chứng minh rõ ràng. Sử dụng sắc ký ái lực với
benzamidine đã cho phép tinh chế được serine
protease để xác định tỷ lệ của các enzyme này
trong nọc và xác định được khoảng pH tối ưu
cho hoạt tính enzyme là 8-8,5.
Do nọc rắn lục gây rối loạn đông cầm máu,
xuất huyết tại chỗ nên bước đầu chúng tôi đã
xác định được giá trị MHD của nọc là 2µg, liều
gây xuất huyết tối thiểu đường kính 10mm.
Để ngăn ngừa triệu chứng xuất huyết khi
nhiễm độc nọc rắn lục, kháng huyết thanh
kháng nọc có khả năng trung hòa tác động xuất
huyết ở 3MHD là 1,175µg.
ĐỀ XUẤT
Từ những kết luận trên chúng tôi xin đưa ra
một số đề suất như sau:
Cần có nghiên cứu thêm phương pháp
chống lại các biến chứng bệnh lý của nhiễm độc
nọc rắn lục đuôi đỏ do serine protease gây nên.
Cần sử dụng kháng huyết thanh kháng nọc
rắn lục khi tai nạn do rắn cắn kết hợp với biện
pháp chống gây loét ngay từ đầu càng sớm
càng tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Calmette A (1892), "Etude expérimentale du venin de Naja
Tripudians ou Cobra Capel et exposé d'une méthode de
neutralisation de ce venin dans l'organisme" VI (3), 160-183.
2. Chotenimitkhun R and Rojnuckarin P (2008), "Systemic
antivenom and skin necrosis after green pit viper bites"
Clinical toxicology, 46, 122-125.
3. Gutierrez J M, Theakston R D and Warrell D A (2006),
"Confronting the neglected problem of snake bite
envenoming: the need for a global partnership" PLoS
medicine, 3, e150.
4. Hofmann H. and Bon C (1987), "Blood coagulation induced
by the venom of Bothrops atrox. 2. Identification, purification,
and properties of two factor X activators", Biochemistry, 26,
780-787.
5. Kashuba E, Bailey J, Allsup D and Cawkwell L (2013), "The
kinin-kallikrein system: physiological roles, pathophysiology
and its relationship to cancer biomarkers" Biomarkers:
biochemical indicators of exposure, response, and
susceptibility to chemicals, 18, 279-296.
6. Khow O, Chanhome L, Omori-Satoh T, Puempunpanich S
and Sitprija V (2002), "A hemorrhagin as a metalloprotease in
the venom of Trimeresurus purpureomaculatus: purification
and characterization" Toxicon: official journal of the
International Society on Toxinology, 40, 455-461
7. Lê Đức Tâm, Nguyễn Thi Kê, Lê Văn Bé, Lê Văn Hiệp và CS.
(2003), "Nghiên cứu thử nghiệm trên người huyết thanh
kháng nọc rắn hổ đất (Naja kaouthia), huyết thanh kháng nọc
rắn lục tre (Trimeresurus albolabris)", Tạp chí Y học dự
phòng, tập XIII, số 6 (63).
8. Sunitha K, Hemshekhar M, Gaonkar S L, Sebastin Santhosh
M, Suresh Kumar M, Basappa, et al. (2011), "Neutralization of
haemorrhagic activity of viper venoms by 1-(3-
dimethylaminopropyl)-1-(4-fluorophenyl)-3-oxo-1,3-
dihydroisobenzofuran-5-car bonitrile " Basic & clinical
pharmacology & toxicology, 109, 292-299.
9. Tan Nget Hong, Choy Sow Kuen, Chin Khon Min and
Ponnudurai Gnanajothy (1994), "Cross-reactivity of
monovalent and polyvalent Trimeresurus antivenoms with
venoms from various species of Trimeresurus (lance-headed
pit viper) snake" Toxicon: official journal of the International
Society on Toxinology, 32, 849-853.
10. Trinh Xuan Kiem et al, (2008), 8th IST Asia Pacific meeting on
animal, plant and microbial toxins, biotoxins from nature to
human deseases. Hanoi & Halong Bay - Vietnam, In, 31, 58,
165.
Ngày nhận bài báo: 21/01/2014
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 11/03/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_doc_luc_cua_ran_luc_duoi_do_va_tac_dong_gay_loet_tr.pdf