The comparative analysis between the tooth marks on the bitten victim’s wound and imitated
tooth marks of fish indicated that sharks but not moray eel, grouper, barracuda were subjects to attack on
swimmers in Quy Nhon bay (Binh Dinh province, Vietnam) in 2009 and 2010. The analysis of the length of
the gap between shark teeth and tooth marks on the bitten victim’s wound also excludes great white shark
(Carcharodon carcharias) and shortfin mako (Isurus oxyrinchus) out of subjects to attack swimmers at that
time. In terms of particular victims, comparison between the imitated tooth marks of the sharks with the tooth
marks on the bitten victim’s wound as well as the gaps of the tooth marks, and among the molar peaks of the
collected shark species could suggest that the length and distance of the bitten marks, tooth gap and shape on
the body of Mr. Nguyen Quang Huynh matched those of the pigeye shark (Carcharhinus amboinensis). In case
of victim Mang Duc Hanh, he is likely to be attacked by blacktip shark (Carcharhinus limbatus). The other
victims could be attacked by graceful shark (Carcharhinus amblyrhynchoides). The total length of the shark
which could attack on the victims is 1.37- 1.92m for graceful shark, 1.26-2.84m for blacktip shark and 1.48-
2.50m for pigeye shark.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định đối tượng cá dữ có thể tấn công người ở vùng biển quy nhơn trong năm 2009 và 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
194
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 2; 2013: 194-203
ISSN: 1859-3097
XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CÁ DỮ CÓ THỂ TẤN CÔNG NGƯỜI
Ở VÙNG BIỂN QUY NHƠN TRONG NĂM 2009 VÀ 2010
Võ Văn Quang*, Võ Sĩ Tuấn
Viện Hải dương học-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Số 1 Cầu Đá, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
*E-mail: quangvanvo@gmail.com
Ngày nhận bài: 20-4-2012
TÓM TẮT: Các kết quả so sánh vết cắn trên người nạn nhân và mô phỏng dấu răng cá dữ đã loại trừ các
loài cá chình (lịch), cá mú, cá nhồng ra khỏi danh sách các đối tượng tấn công người tắm biển ở vùng biển
Quy Nhơn (Bình Định) trong năm 2009 và 2010. Từ đó đã xác định nhóm cá tấn công người là cá mập. Các
phân tích khoảng cách các răng hàm cá mập và dấu răng trên người nạn nhân cũng cho thấy 2 loài cá mập
trắng lớn (Carcharodon carcharias) và cá nhám thu (Isurus oxyrinchus) không phải là đối tượng tấn công
người ở vùng biển Quy Nhơn trong thời gian qua. So sánh hình dạng vết thương, khoảng cách dấu răng để lại
trên người các nạn nhận với dấu răng mô phỏng của các loài cá mập thu được ở vùng biển Quy Nhơn và lân
cận, có thể đưa ra nhận định đối tượng tấn công ông Nguyễn Quang Huynh là loài cá mập mắt to
(Carcharhinus amboinensis). Trường hợp ông Mang Đức Hạnh có khả năng bị cá mập thâm (Carcharhinus
limbatus) tấn công. Các nạn nhân còn lại có thể bị tấn công bởi cá mập sọc trắng (Carcharhinus
amblyrhynchoides). Chiều dài cá mập có thể tấn công người đối với loài cá mập sọc trắng là 1,37- 1,92m, cá
mập thâm: 1,26 - 2,84m và cá mập mắt to: 1,48 - 2,50m.
Từ khóa: Cá mập, Cá tấn công người, Quy Nhơn, vết cắn cá dữ.
MỞ ĐẦU
Hiện tượng cá dữ tấn công người đã được ghi
nhận có từ rất sớm - thời Hy Lạp cổ đại, 500 năm
trước công nguyên [8]. Trong tài liệu hướng dẫn lặn
của hải quân Hoa Kỳ cũng đã đề cập đến cá loài
sinh vật biển nguy hiểm có khả năng tấn công người
lặn chủ yếu là cá mập, cá nhồng cồ, cá chình [17].
Trong số đó, cá mập là nhóm gây ra số vụ tấn công
người và gây chết người cao nhất trên thế giới.
Về các loài sinh vật nguy hiểm ở vùng biển Việt
Nam, Nguyễn Khắc Hường [16] đã mô tả một số
loài cắn người bằng bộ hàm khỏe và sắc nhọn là cá
nhồng cồ, cá chình, cá mập, cá sấu nước mặn. Theo
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn [3] loài cá
sấu hoa cà (Crocodilus porosus) sống ở nước mặn,
phân bố ở Vũng Tàu, Cần Giờ đến vùng biển Kiên
Giang, đảo Phú Quốc, Côn Đảo đã bị tuyệt chủng
ngoài tự nhiên.
Theo GSAF [10], hiện tượng cá dữ tấn công người
trên biển Việt Nam được ghi nhận từ thế kỷ XIX (1
trường hợp), đến thế kỷ XX (vào năm 1907 và năm
1911) đã xác định thêm 2 trường hợp cá tấn công
người. Sau thời gian này không có thêm ghi chép về
các trường hợp cá tấn công người ở Việt Nam.
Ở vùng biển vịnh Quy Nhơn đã xảy ra các
trường hợp cá dữ tấn công người tắm biển vào cuối
năm 2009 (ngày 18/7 xảy ra 1 trường hợp, ngày
27/09 & 06/12 lại xảy ra 02 trường hợp). Năm 2010,
các trường hợp cá tấn công người ở Quy Nhơn xảy
ra nhiều hơn, riêng trong ngày 01/09/2010 đã xảy ra
3 trường hợp, ngày 19/05 xảy ra 2 trường hợp và
ngày 15/06 xảy ra 1 trường hợp.
Hiện tượng cá dữ tấn công người ở vùng biển
Quy Nhơn, Bình Định, trong thời gian ngắn đã gây
hoang mang dư luận, ảnh hưởng xấu đến hoạt động
Xác định đối tượng cá dữ có thể tấn công người
195
kinh tế, xã hội của địa phương. Ở nước ta từ trước
đến nay chưa có các nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu
để có đầy đủ cơ sở để xác định chính xác đối tượng
cá tấn công người. Vì vậy nghiên cứu này nhằm xác
định đối tượng cá dữ đã gây ra các vụ tấn công
người ở vùng biển Quy Nhơn trong thời gian qua
làm cơ sở để xây dựng giải pháp phòng ngừa cá dữ
tấn công người trong thời gian đến.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Việc xác định các đối tượng cá dữ tấn công
người căn cứ vào vết thương để lại trên người nạn
nhân với hình dạng, kích thước và khoảng cách các
dấu răng. Mô phỏng vết cắn các loài cá dữ thu được
ở vùng biển xảy ra hiện tượng cá dữ tấn công người
và phân tích so sánh loại trừ để xác định nhóm loài
và loài đã gây ra. Trình tự thực hiện như sau:
Điều tra 10 nạn nhân bị cá dữ tấn công ở vùng
biển Quy Nhơn trong năm 2009, 2010.Tiến hành
chụp hình các vết cắn, đo kích thước độ rộng cung,
chiều ngang vết cắn, khoảng cách răng, độ rộng và
số lượng dấu răng.
Mô phỏng hình dạng dấu răng của cá mập trên
tấm nhựa mềm nitrile-butadiene. Mỗi răng cá mập
được bôi mực màu đỏ, sau đó đưa tấm nhựa mềm
vào miệng cá sau đó dùng lực ấn mạnh cho hai hàm
cá ép lên tấm nhựa, sao cho các răng đâm thủng qua
tấm nhựa như cá cắn.
Đo kích thước cung hàm, khoảng cách các đỉnh
răng 1-2, 2-3, 3-4, 4-5 và 5-6 ở hai bên mỗi hàm và
đếm số răng trên mỗi hàm theo [15] (hình 1).
Tham khảo số liệu của [15] về chiều dài,
khoảng cách đỉnh răng và độ rộng cung hàm, để ước
tính chiều dài các loài cá mập có thể đã tấn công các
nạn nhân. Tính tương quan chiều dài toàn thân
(TOT) và khoảng cách răng (IDD) theo phương
pháp của [15]. Các số liệu đo được phân tích bằng
hàm tuyến tính:
y = ax+b (1)
Trong đó: y là khoảng cách răng trung bình các
đỉnh răng 1-2, 2-3, 3-4, 4-5 và 5-6 ở hai bên mỗi
hàm, x là chiều dài toàn thân.
Đo khoảng cách hai dấu răng trên người nạn
nhân, tính từ giữa dấu răng này đến giữa dấu răng
kia (hình 1).
a b c
IDM1 IDM2
Hình 1. Đo chiều dài cung hàm, khoảng cách răng cá mập (a)
theo [15] khoảng cách dấu răng trên người nạn nhân (b) và trên tấm mô phỏng (c)
(BC: Chiều dài cung hàm, IDD: Khoảng cách 2 đỉnh răng, S: Răng giữa hàm, IDM1: Khoảng cách 2 dấu
răng trên người nạn nhân và IDM2: Khoảng cách 2 dấu răng trên tấm mô phỏng)
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hình dạng vết cắn cá dữ trên người nạn nhân ở
Quy Nhơn
Kết quả kiểm tra và đo đạc vết thương trên các
nạn nhân bị cá dữ tấn công ở vùng biển Quy Nhơn -
Bình Định cho thấy, bộ phận cơ thể nạn nhân bị cá
dữ tấn công là phần chi, cụ thể có 5/10 trường hợp
cá dữ tấn công vào phần bắp chân, 3/10 trường hợp
cá dữ tấn công bàn chân và 2 trường hợp cá tấn
công vào cánh tay. Có 9/10 trường hợp vết thương
để lại trên người nạn nhân có dạng hình cung
Võ Văn Quang, Võ Sĩ Tuấn
196
(bảng 1). Riêng trường hợp nạn nhân Lê Thị Minh
Hạnh, do cá cắn trượt nên vết thương để lại 10 vết
xướt dài trên bắp chân phải.
Bảng 1. Vị trí và hình dạng vết cắn của cá dữ trên người nạn nhân
Họ và tên Bộ phận bị tấn công Hình dạng vết cắn
Văn Phương Đùi chân trái Đùi: 6 dấu sẹo hàm trên liên tiếp trên 1 đường thẳng. Có 1 dấu sẹo hàm dưới cẳng chân.
Nguyễn Quang Huynh Bắp chân phải Dạng hình cung trên bắp chân
Huỳnh Thị Thúy Hồng Bàn chân trái Dạng hình cung ngắn trên bàn chân
Lê Thị Minh Hạnh Bắp chân phải 10 vết xướt song song nằm thẳng hàng
Lâm Thị Đàm Bắp chân trái Vết cắn gồm nhiều dấu răng lớn tạo thành dạng cung khuyết đỉnh (đứt quãng ở đỉnh hàm)
Nguyễn Minh Tuân Cánh tay trái Dạng cung tròn, gồm nhiều vết răng lớn, ở mỗi hàm
Mang Đức Hạnh Cánh tay phải 2 vết dạng cung tròn gồm nhiều dấu răng lớn phân bố đều, vết thứ 2 nằm chồng lên ½ vết thứ nhất
Trương Thị Tánh Bàn chân trái Vết cắn ở gốc bàn chân dạng thẳng, vết cắn ở phía mũi bàn dạng hơi cong.Dưới lòng bàn chân có 3 vết răng.
Nguyễn Thị Thu Thảo Bắp chân trái Gồm 28 dấu răng xếp thàng dạng cung ở 2 mặt của bắp chân trái
Huỳnh Thư Hoàng Bàn chân trái Vết cắn dạng cung tròn
Đối chiếu mô tả trên đây với hình dạng vết cắn và
mô phỏng dấu răng của các nhóm cá dữ như cá lịch
(Muraenidae) cá nhồng (Sphyraenidae), cá mú
(Serranidae), cá nhám/mập (Lamnidae, Carcharh-
inidae, Sphyrnidae) (hình 2) cho phép loại trừ các
nhóm cá này ra khỏi danh sách các đối tượng nghi
ngờ tấn công người tắm biển ở vùng biển Quy
Nhơn.
a b
Hình 2. Dấu răng mô phỏng của cá mú (a) và cá nhồng cồ (b)
Mô phỏng vết cắn của cá nhám/mập cho thấy
chúng có dạng hình cung, các dấu răng tạo thành vết
dài. Ở hàm trên các vết răng lớn, vết ở phía trước
nhỏ hơn, có vài dấu răng thể hiện hàng trong và
hàng ngoài của hàm. Các dấu răng của các răng
trước ở hàm dưới mô phỏng trên tấm có thể hơn 1
hàng dấu răng gần song song nhau ở hàm dưới và
một vài dấu sát nhau.
Quan sát vết thương trên người nạn nhân bị cá
dữ tấn công ở vùng biển Quy Nhơn vào năm 2009-
2010 (hình 3) cho thấy vết cắn có dạng hình cung
gồm nhiều dấu răng lớn kích thước 7,5-13mm, xếp
kề nhau. So sánh vết thương trên người nạn nhân
với vết cắn mô phỏng của các nhóm cá dữ cho phép
xác định nhóm đối tượng gây ra các trường hợp này
là cá mập.
Xác định đối tượng cá dữ có thể tấn công người
197
a
b
c d
Hình 3. Hình dạng dấu răng mô phỏng cá mập và vết cắn trên người nạn nhân
(a: dấu răng trên tay nạn nhân Nguyễn Minh Tuân, b: vết cắn mô phỏng của cá mập, c: dấu răng
trên chân nạn nhân Lâm Thị Đàm và d: vết cắn mô phỏng của cá mập)
Xác định loài và kích thước cá mập có khả năng
tấn công người tắm biển ở Quy Nhơn
Bảng 2. Thành phần loài cá nhám/mập có thể tấn
công người ở vùng biển Quy Nhơn
STT Tên Việt Nam Tên khoa học
I BỘ CÁ
NHÁM THU
LAMNIFORMES
Họ cá
nhám thu
Lamnidae
1 Cá nhám thu
(nhám chuột)
Isurus oxyrinchus Rafinesque, 1810
II BỘ CÁ MẬP
MẮT TRẮNG
CARCHARHINIFORMES
Họ cá mập
mắt trắng
Carcharhinidae
2 Cá mập
sọc trắng
Carcharhinus amblyrhynchoides
(Whitley, 1934)
3 Cá mập mắt to Carcharhinus amboinensis (Müller &
Henle, 1839)
4 Cá mập thoi Carcharhinus brevipina (Müller &
Henle, 1839)
5 Cá mập da trơn Carcharhinus falciformis (Müller &
Henle, 1839)
6 Cá mập thâm Carcharhinus limbatus
(Valenciennes, 1839)
Họ cá nhám
búa
Sphyrnidae
7 Cá mhám búa
vây đen
Sphyrna lewini (Griffith & Smith,
1834)
Nghiên cứu về thành phần loài [18] đã xác định
12 loài cá nhám/mập phân bố ở vùng biển Quy
Nhơn và lân cận. Đối chiếu danh sách 12 loài này
với các tài liệu liên quan cá tấn công người cho thấy
rằng các loài cá Mập thoi (Carcharhinus brevip-
inna), cá Mập da trơn (Carcharhinus falciformis), cá
Mập thâm (Carcharhinus limbatus) và cá Nhám búa
vây đen (Sphyrna lewini) là những loài đã ghi nhận
tấn công người trên thế giới (Grubich, Gudger and
Breder, Halstead, ISAF) [10]. Hai loài cá Mập sọc
trắng (Carcharhinus amblyrhynchoides), cá Mập
mắt to (Carcharhinus amboinensis) chưa có tài liệu
nào ghi nhận về tấn công người, tuy nhiên chúng
được cho là nguy hiểm đối với con người, trong đó
loài cá Mập sọc trắng được nghi ngờ đã gây ra các
vụ tấn công người tắm biển, gây bị thương người
tắm biển ở nhiều nơi trên thế giới (Halstead) [9].
Như vậy, trong tổng số 12 loài cá nhám/mập
phân bố ở vùng biển Quy Nhơn và lân cận, 7 loài có
thể được xếp vào nhóm nghi ngờ có khả năng tấn
công người tắm biển (bảng 2).
Theo kết quả quan sát và đo khoảng cách dấu
răng trên vết thương trên người của 10 nạn nhân bị
cá dữ tấn công ở Quy Nhơn, Bình Định, khoảng
cách răng trung bình do hàm trên cá mập cắn từ 8 -
13,5mm và trên hàm dưới giao động trong khoảng 7
-13mm (bảng 3). Chiều dài của các vết cắn rất khác
nhau phụ thuộc vào vị trí của vết thương trên người,
vết cắn trên bàn chân thường ngắn. Lý giải cho sự
khác nhau này là do mức độ tiếp xúc của hàm cá
vào phần bị cắn. Cá không thể ngoạm toàn bộ răng
hàm khi cắn mà chỉ là một phần nào đó. Vì vậy
không thể căn cứ vào chiều dài vết cắt. Dấu vết
đáng tin cậy là khoảng cách các vết cắn do răng để
lại khi cắn có ít nhất vài răng trước hàm gây nên vết
thương [15].
Phân tích về khoảng cách giữa các răng hàm
của 8 loài cá nhám/mập (kể cả loài cá mập trắng lớn
Võ Văn Quang, Võ Sĩ Tuấn
198
với một mẫu được coi là trôi dạt vào bờ biển Sông
Cầu - Nam Quy Nhơn) và so sánh dấu răng trên
người nạn nhân cho thấy loài cá mập trắng lớn
(Carcharodon carcharias) và loài cá nhám thu
(Isurus oxyrinchus) không phải là đối tượng tấn
công người, vì chúng có khoảng cách giữa các răng
hàm quá lớn so với khoảng cách các dấu răng trên
người nạn nhân (bảng 3 và hình 4). Do đó hai loài
cá mập trắng lớn và cá nhám thu được loại ra khỏi
danh sách đối tượng tấn công người tắm biển ở vùng
biển Quy Nhơn và lân cận trong thời gian từ
2009 - 2010.
Bảng 3. Đặc điểm vết thương trên người nạn nhân do cá mập tấn công
(HT: Hàm trên, HD: Hàm dưới)
Nạn nhân Chiều dài vết cắn (cm)
Văn Phương Cung vết cắn ở đùi dài 7cm.Bắp chân có vết cắt lớn dài 4cm rộng 1cm, vết cắt nhỏ dài 2,5cm rộng 0,5cm
Nguyễn Quang Huynh Phía trước bắp chân dài 18 cm, sau 16cm
Huỳnh Thị Thúy Hồng Vết thương bàn chân dài 10cm
Lê Thị Minh Hạnh Gồm 10 vết xướt rộng 8cm, mỗi vết dài 1-4cm.
Lâm Thị Đàm Vết cắn trên bắp chân trái dài16cm, rộng 8 cm, độ rộng dấu răng từ 0,9 - 1cm.
Nguyễn Minh Tuân Trên cẳng tay, dấu răng hàm trên dài 18cm, ở hàm dưới dài 17cm.
Mang Đức Hạnh
Vết thương trên cẳng tay, vết thứ 1: dấu hàm trên dài 17cm, dấu hàm dưới dài 15cm.
Vết cắn thứ 2: dấu hàm trên dài 10cm, hàm dưới dài 8cm.
Trương Thị Tánh Trên bàn chân 12cm. Vết răng dưới lòng bàn chân dài 1cm
Nguyễn Thị Thu Thảo Vết cắn dài 22cm, rộng 8cm
Huỳnh Thư Hoàng Mu bàn chân dài 4,5cm. Lòng bàn chân dài 8cm.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
26
28
30
32
34
36
38
40
C
C
-H
D
*
C
C
-H
T*
IO
-H
T*
IO
-H
D
*
IO
-H
D
IO
-H
T
C
A
-H
D
C
A
-H
T
C
B
-H
D
SL
-H
D
*
C
L-
H
D
*
C
B
-H
D
*
C
B
-H
T*
C
L-
H
T*
C
B
-H
T
SL
-H
T*
C
F-
H
T*
C
F-
H
D
*
C
A
m
-H
T
C
A
m
-H
D
C
F-
H
T
S
L-
H
D
C
F-
H
D
SL
-H
T
K
ho
ản
g
cá
ch
đ
ỉn
h
ră
ng
(m
m
)
Loài
± Sai số chuẩn
Hình 4. Kích thước trung bình khoảng cách răng các loài cá mập
Ghi chú: CC: cá mập trắng lớn, IO: cá nhám thu, CA: cá mập mắt to, CB: cá mập thoi, CL: cá mập thâm,
CF: cá mập da trơn, CAm: cá mập sọc trắng, SL: cá mập búa vây đen, HT: hàm trên, HD: hàm dưới, *: từ [15]
Xác định đối tượng cá dữ có thể tấn công người
199
Các phân tích trên đây cho phép nhận định 6
loài (bảng 4) thuộc bộ cá mập mắt trắng
(Carcharhiniformes) có thể là đối tượng tấn công
người ở vùng biển Quy Nhơn vừa qua. Các phân
tích, so sánh chi tiết cho từng trường hợp nạn nhân
với mô phỏng răng hàm, kích thước các loài cá mập
xuất hiện ở Quy Nhơn và thực tế mẫu vật từng loài
thu được, đồng thời tham khảo về sinh thái phân bố
của chúng cho phép xác định khả năng gây các
trường hợp tấn công người tắm biển của 6 loài cá
mập như sau.
Bảng 4. Danh sách các loài cá mập có khả năng gây ra các vụ tấn công người
ở Quy Nhơn trong năm 2009 và 2010
STT Tên loài Chiều dài toàn thân (m)
Họ cá mập mắt trắng Carcharhinidae
1 Cá mập sọc trắng Carcharhinus amblyrhynchoides (Whitley, 1934) 0,575-1,91
2 Cá mập mắt to Carcharhinus amboinensis (Müller & Henle, 1839) 2,078-2,28
3 Cá mập thoi Carcharhinus brevipina (Müller & Henle, 1839) 2,507
4 Cá mập da trơn Carcharhinus falciformis (Müller & Henle, 1839) 0,98 - 1,21
5 Cá mập thâm Carcharhinus limbatus (Valenciennes, 1839) 2,187
Họ cá nhám búa Sphyrnidae
6 Cá nhám búa vây đen Sphyrna lewini (Griffith & Smith, 1834) 0,925-1,035
Dựa vào kích thước mẫu các loài cá mập đã thu
được ở vùng biển Quy Nhơn và lân cận, 2 loài cá
mập da trơn Carcharhinus falciformis [(Müller &
Henle, 1839) và cá nhám búa vây đen Sphyrna
lewini (Griffith & Smith, 1834) có xác suất là thủ
phạm gây ra các vụ tấn công trên không cao, vì
trong thời gian thu mẫu không có cá thể nào đạt kích
thước thành thục đủ lớn có thể tấn công người
(bảng 5). Cá thể hai loài cá mập da trơn và cá nhám
búa vây đen có kích thước nhỏ nên có khoảng cách
giữa các đỉnh răng trên hai hàm nhỏ. Theo [12] loài
cá mập da trơn sống ở vùng biển khơi vì vậy việc
tấn công người tắm biển ở vùng ven bờ là rất hiếm
[1] cho rằng cá nhám búa vây đen thường tấn công
khi bị kích thích và đối tượng chủ yếu là thợ lặn.
Loài cá mập thoi (Carcharhinus brevipina) chỉ
thu được 1 mẫu ở phía Nam sông Cầu (Phú Yên)
cách bãi tắm Quy Nhơn, nơi xảy ra các trường hợp
cá tấn công người hơn 50km. Đồng thời theo [2]
loài này không nguy hiểm đối với con người chỉ tấn
công trong trường hợp bị kích thích hoặc bị thu hút
từ các thợ lặn săn bắn cá.
Từ đó có thể thấy 3 loài cá mập da trơn, cá nhám
búa vây đen và cá mập thoi khó có thể là thủ phạm
tấn công người tắm biển trong năm 2009 -2010.
So sánh từng trường hợp các nạn nhận với dâu
răng được mô phỏng và phân tích khoảng cách các
dấu răng trên vết thương của nạn nhân và giữa các
đỉnh răng hàm của các loài cá mập thu mẫu được từ
phân tích nêu trên có thể đưa ra nhận định như sau:
Đối với trường hợp ông Nguyễn Quang Huynh
chiều dài vết cắn và khoảng cách các dấu răng và
hình dạng phù hợp với loài cá mập mắt to
(Carcharhinus amboinensis). Ông Mang Đức Hạnh
có khả năng bị tấn công bởi cá mập thâm
(Carcharhinus limbatus). Các nạn nhân còn lại có
thể bị tấn công bởi cá mập sọc trắng (Carcharhinus
amblyrhynchoides).
Như vậy còn lại 3 loài có khả năng tấn công
người tắm biển ở vùng biển Quy Nhơn, Bình Định
trong thời gian từ 2009 và 2010 là cá mập sọc
trắng (Carcharhinus amblyrhynchoides), cá mập
mắt to (Carcharhinus amboinensis) và cá mập
thâm (Carcharhinus limbatus). Những loài này
được phân tích tiếp dựa vào tương quan khoảng
cách các răng hàm và chiều dài cơ thể để xác định
kích thước có thể cắn người. Trên cớ sở đó xác
định loài nào phù hợp đối với vết cắn để lại trên
người của từng nạn nhân.
Võ Văn Quang, Võ Sĩ Tuấn
200
Bảng 5. Tương quan giữa khoảng cách răng trên hàm (IDD = x)
và chiều dài toàn thân (TOT = y) của các loài cá mập có khả năng tấn công người tắm biển
ở vùng biển Quy Nhơn năm 2009 & 2010
(Ghi chú: n- số lượng mẫu, R2 –hệ số tương quan; *- Số liệu của Lowry và cs, 2009)
STT Loài n Chiều dài toàn thân TOT (mm) Hàm
Hàm tương quan
hồi quy R
2
1 Cá mập sọc trắng
18
575- 1.910
Trên y = 0,0074x - 2,3833 0,988
Dưới y = 0,0077x - 3,0478 0,985
2
Cá mập thâm*
18
780 -2.019
Trên y = 0,0043x + 1,2627 0,827
Dưới y = 0,0039x + 2,6087 0,784
3 Cá mập mắt to 2 2,078 -2,28
Trên y = 0,0057x - 0,5302 1
Dưới y = 0,0089x - 6,7168 1
Việc tiếp theo là phân tích mối tương quan giữa
chiều dài toàn thân với khoảng cách các răng của 3
loài được coi là thủ phạm. Các số liệu từ các mẫu
của những loài thu được vùng biển Quy Nhơn và lân
cận cho thấy loài cá mập sọc trắng đủ số liệu để
phân tích hồi quy tuyến tính với R2 > 0,9. Loài cá
mập mắt to chỉ có 2 con thu được và đo khoảng
cách giữa các răng hàm và chiều dài thân. Loài cá
mập thâm sử dụng bổ sung với số liệu từ [15]. Kết
quả tính toán trình bày ở các hình 5, 6 và bảng 6. Từ
kết quả này có thể ước tính được kích thước của của
loài tấn công người khi biết khoảng cách giữa 2 vết
răng trên người nạn nhân.
y = 0,0074x - 2,3833
R² = 0,9882
y = 0,0077x - 3,0478
R² = 0,9849
0
2
4
6
8
10
12
14
0 500 1000 1500 2000
K
ho
ản
g
cá
ch
g
iữ
a
ha
i đ
ỉn
h
ră
ng
(m
m
)
Chiều dài toàn thân cá - TOT (mm)
Hàm trên
Hàm dưới
Linear (Hàm trên)
Linear (Hàm dưới)
Hình 5. Tương quan khoảng cách rung bình 2 đỉnh
răng hàm và chiều dài toàn thân loài cá mập sọc trắng
Xem xét tính hợp lý về kích thước của các loài
có thể tấn công các nạn nhân, dựa vào chiều dài toàn
thân cực đại và cực tiểu của 3 loài cá trên từ các tài
liệu đã xuất bản trên thế giới, cho thấy rằng loài cá
mập thâm, kích thước cực đại được biết 2,5m, kết
quả ước tính chiều dài cho thấy chúng không phải
đối tượng tấn công ông Nguyễn Quang Huynh, vì
khoảng cách dấu răng để lại trên người tính ra chiều
dài toàn thân lớn hơn chiều dài cực đại được biết.
Tuy nhiên nó có khả năng tấn công ở trường hợp
nạn nhân Mang Đức Hạnh. Theo [13] loài cá mập
thâm thường xuất hiện ven bờ vào cuối mùa đông
đến đầu mùa hè, cá cái thường vào gần bờ kiếm ăn
và sinh sản. Cá mập thâm cũng là loài có lực cắn
của răng hàm mạnh hơn cả loài cá mập da trơn [11]
và nó có thể gây nên rách cơ và đứt ngân. Loài này
cũng bắt được 1 con trong khu vực cách bờ 1km.
y = 0,0043x + 1,2627
R² = 0,8271
y = 0,0039x + 2,6087
R² = 0,7840
3
4
5
6
7
8
9
10
11
0 500 1000 1500 2000 2500
K
ho
ản
g
cá
ch
g
iữ
a
ha
i đ
ỉn
h
ră
ng
(
m
m
)
Chiều dài toàn thân cá- TOT (mm)
Hàm trên
Hàm dưới
Linear (Hàm trên)
Linear (Hàm dưới)
Hàm dưới
Hàm trên
Hình 6. Tương quan khoảng cách trung bình 2 đỉnh
răng hàm và chiều dài toàn thân loài cá mập thâm
Trường hợp của nạn nhân Nguyễn Quang
Huynh chỉ có thể bị tấn công bởi loài cá mập mắt to.
Quan sát vết thương cho thấy phù hợp với kiểu răng
và hình dạng cung hàm. Đồng thời khoảng cách
giữa các đỉnh răng hàm và vết răng để lại trên người
nạn nhân phù hợp với kích thước của cá thu được
mẫu và kích thước cá thành thục đã được công bố
[4, 5, 6, 9].
Xác định đối tượng cá dữ có thể tấn công người
201
Bảng 6. Chiều dài toàn thân ước tính của 3 loài cá mập dựa vào khoảng cách các dấu răng trên người nạn nhân
Nạn nhân Loại hàm
Khoảng cách
giữa hai dấu răng trên
người nạn nhân (mm)
Chiều dài toàn thân (mét)
của các loài cá mập ước tính
Cá mập sọc
trắng
Cá mập
thâm
Cá mập
mắt to
Văn Phương
Hàm trên 8 1,40 1,57 1,48
Hàm dưới 7,5 1,37 1,26 1,60
Nguyễn Quang Huynh
Hàm trên 13,5 2,15 2,84 2,50
Hàm dưới 13 2,08 2,67 2,22
Huỳnh Thị Thúy Hồng
Hàm trên 9 1,54 1,80 1,67
Hàm dưới 8,5 1,50 1,522 1,71
Lê Thị Minh Hạnh Hàm trên 10 1,67 2,03 1,85
Lâm Thị Đàm
Hàm trên 10 1,67 2,03 1,85
Hàm dưới 9,5 1,63 1,77 1,82
Nguyễn Minh Tuân
Hàm trên 11,5 1,88 2,38 2,13
Hàm dưới 10 1,70 1,90 1,88
Mang Đức Hạnh
Hàm trên 11 1,81 2,26 2,04
Hàm dưới 10 1,70 1,90 1,88
Trương Thị Tánh
Hàm trên 9,5 1,61 1,91 1,76
Hàm dưới 8,5 1,50 1,52 1,71
Nguyễn Thị Thu Thảo
Hàm trên 9,5 1,61 1,91 1,76
Hàm dưới 9 1,57 1,64 1,48
Huỳnh Thư Hoàng
Hàm trên 8 1,40 1,57 1,60
Hàm dưới 7,5 1,37 1,26 2,50
Kích thước cá mập thu được ở Quy Nhơn và lân cận 0,575-1,91 2,19 2,01 -2,28
Loài cá mập sọc trắng có khả năng là thủ phạm
gây ra các trường hợp tấn công người tắm biển của
8/10 nạn nhân còn lại. Quan sát vết thương trên
người nạn nhân cho thấy kích cỡ của khoảng cách
do răng hàm cắn khác nhau. Cùng với đó là kích
thước cá thu được từ nhỏ đến lớn ở vùng biển Quy
Nhơn và lân cận. Cá thu được có các răng hàm từ
thứ 3-4 dưới lệch nhau tương đối phù hợp với các
vết cắn trên người nạn nhân.
Trên cơ sở ước tính chiều dài của 3 loài cá mập
về tương quan hồi quy giữa khoảng cách các đỉnh
răng và chiều dài toàn thân cá và khoảng cách giữa
hai dấu răng trung bình trên người nạn nhân cho ra
kết quả ở bảng 10. Loài cá mập sọc trắng tấn công
người ở Quy có chiều dài toàn thân hơn 1,37m và
lớn nhất 2,15m, cá tập thâm: 1,26 - 2,84m và cá mập
mắt to: 1,48 - 2,50m. Tuy nhiên loài cá mập sọc
trắng có chiều dài cực đại được biết nhỏ nhơn
1,95m, loài cá mập thâm nhỏ hơn 2,75m và cá mập
mắt to là 2,8m.
Thảo luận
Loài cá mập trắng lớn (Carcharodon carc-
harias) và cá nhám thu (Isurus oxyrinchus) không
phải đối tượng có thể tấn công các nạn nhân ở Quy
Nhơn và Bình Định trong năm 2009 - 2010, vì
khoảng cách răng hàm của cá trưởng thành rất lớn.
Cá mập da trơn (C. falciformis) là loài có kích thước
tối đa hơn 3m, tuy nhiên con mồi của loài này là các
loài cá, mực có kích thước lớn. Ở kích thước 1m,
chúng có cung hàm dài hơn 140mm, khoảng cách
răng khoảng 5mm. Chiều dài cung hàm của loài này
có thể đến 320mm, khoảng cách răng đạt 11mm khi
chúng đạt kích thước 3,2m. Vào tháng 3 và tháng 5,
số lượng cá thể thu mẫu được nhiều hơn hẳn các
tháng khác.Với kích thước hơn 1,4m loài cá mập này
có thể tấn công người tắm biển. Tuy nhiên loài này là
loài sống xa bờ khi trưởng thành, mẫu vật thu được ở
vùng biển Quy Nhơn và lân cận có kích thước còn
nhỏ, là cá con nên chưa thể cắn người. Cá nhám búa
vây đen (Sphyrna lewini) là loài giỏi bơi lội, thường
bắt gặp ở tầng mặt, thường xuyên xuất hiện ở rạn đá
ngầm. Độ sâu phân bố: 0-275m, thường gặp: 0-25m.
Chiều dài cực đại của loài khoảng 3,7m. Loài cá này
có đặc tính di cư xa, giữa các đại dương hoặc từ đại
dương vào vùng ven bờ. Con non thường kết đàn,
kiếm ăn ở tầng gần đáy và đến giai đoạn trưởng thành
chúng lại di cư đến vùng biển sâu hơn ở phía ngoài
rạn san hô [1, 6]. Chỉ bắt được 3 cá thể có kích
Võ Văn Quang, Võ Sĩ Tuấn
202
thước còn non ở vùng cửa và gần rạn, nơi có độ sâu
hơn 20m. Vì vậy loài này không phải là đối tượng
tấn công người tắm biển ở Quy Nhơn trong thời
gian 2009 - 2010. Cá mập thoi (C. brevipinna) xuất
hiện từ ven bờ đến đại dương, sống ở đáy, đến độ
sâu 75m, không xuất hiện vùng có độ mặn thấp,
phân bố rộng ở vùng biển khơi và thềm lục địa, đến
độ sâu 100m, có tập tính di cư. Vào mùa xuân và
mùa hè đi đến vùng ven bờ để sinh sản và kiếm ăn
[1, 2]. Chúng là loài không chủ động tấn công
người, chỉ bị thu hút bởi các thợ lặn săn cá mang
theo bên mình. Cá mập mắt to (C. amboinesis), con
đực trưởng thành ở kích thước 2,10m và con cái
2,15-2,20m, kích thước cực đại 2,8m, có hàm rộng,
khoảng cách đỉnh răng khá lớn so với cá mập sọc
trắng, cá mập thoi, cá mập da trơn và cá mập thâm.
Loài này có khu vực hoạt động tương đối rộng lên
đến 60km [14]. Ở vùng biển Quy Nhơn và lân cận
có 2 mẫu, kích thước 2,078m và 2,28m. Cá mập
thâm (C. limbatus) có khoảng cách răng và chiều dài
cung hàm biến thiên theo chiều dài cơ thể, chiều dài
cung hàm đạt 11cm khi cơ thể cá dài 78cm, chiều
dài cung hàm có thể hơn 28cm khi cơ thể đạt kích
thước hơn 1,8m; khoảng cách răng của loài này ở
kích thước 78cm là 5,21mm ở hàm dưới và 3,82mm
ở hàm trên, khoảng cách răng của loài này có thể
hơn 10mm khi kích thước cá thể hơn 1,7m [15].
Chúng là một trong những loài cá mập sống gần bờ,
theo các đàn cá nổi và thường xuyên xâm nhập vào
vùng nước nông ven bờ. Vào những ngày mưa,
nước đục, chúng có thể nhầm lẫn giữa người tắm
biển đang bơi lội và con mồi, vì vậy có thể tấn công
vào chân hoặc tay của nạn nhân. Cá mập sọc trắng
(C. amblyrhynchoides) xuất hiện với tần suất cao ở
vùng biển vịnh Quy Nhơn, từ kích thước rất nhỏ đến
trưởng thành. Chúng là nhóm sống cả tầng mặt và
tầng đáy, thường theo các đàn cá nổi để kiếm ăn [6,
7]. Mặt khác, có nhiều mẫu thu được ở khu vực này
đang mang thai, nơi đây là bãi đẻ và ương dưỡng
của loài cá này. Với hàm gồm nhiều hàng răng, răng
hẹp, sắc nhọn, chúng có thể gây nguy hiểm khi
nhầm người tắm biển với mồi; đặc biệt ở kích thước
trưởng thành. Ở độ tuổi trưởng thành (đạt chiều dài
toàn thân khoảng 1,5m), chúng có cung hàm dài hơn
200mm, độ rộng hàm từ 100-120mm và khoảng
cách răng lúc này khoảng 8-10mm.
KẾT LUẬN
Các nhóm cá chình (lịch) biển, cá mú, cá nhồng
không phải là đối tượng đã gây ra các vụ tấn công
người tắm biển trong năm 2009 - 2010 ở vùng biển
Quy Nhơn (Bình Định)
Các loài cá dữ tấn công người tắm biển ở vùng
biển Quy Nhơn (Bình Định trong năm 2009 và 2010
là cá mập mắt to (Carcharhinus amboinensis), cá
mập thâm (Carcharhinus limbatus) và cá mập sọc
trắng (Carcharhinus amblyrhynchoides).
Chiều dài cá mập có thể tấn công người đối với
loài cá mập sọc trắng từ 1,37 – 1,92m, cá mập thâm:
1,26 -2,84m và cá mập mắt to: 1,48 – 2,50m.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bester, C., 2011a. Scalloped hammerhead
Sphyrna lewini, Education biological
profiles.Florida Museum of Natural History,
Schammer/ScallopedHammerhead.html.
2. Bester, C., 2011b. Spinner shark Carcharhinus
brevipinna, Education biological
profiles.Florida Museum of Natural History,
spinnershark/spinnershark.html.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008.
Quyết định số 82/2008/QĐ-BNN. Danh mục
các loài thủy sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng ở Việt Nam cần được bảo vệ phục hồi và
phát triển, 29 trang.
4. Camhi, M. D., S. Fowler, J. Musick, A.
Brautigam and S. Fordham, 1998. Sharks and
their Relatives Ecology and Conservation.
Occasional Paper of the IUCN Species Survival
Commission
5. Camhi, M. D., E. K. Pikitch and E. A. Babcock,
2008. Sharks of the Open Ocean: Biology,
Fisheries and Conservation. Wiley - Blackwell
Publishing Ltd., 536 p.
6. Compagno, L., 1984. Sharks of the World. An
Annotated and Illustrated Catalogue of Shark
Species Known to Date. Part 1 & 2. Food and
Agricultural Organization. Rome. Italia. 489 p.
7. Compagno, L. J. V., 2008. Pelagic
Elasmobranch Diversity Sharks of the Open
Ocean, in Sharks of the Open Ocean: Biology
Fisheries and Conservation. Camhi, M. D., E.
K. Pikitch and E. A. Babcock, eds., Blackwell
Publishing Ltd, p. 14-23.
8. Coppleson, V. M., 1958. Shark attacks. Sydney.
Angus & Robertson, Ltd.
Xác định đối tượng cá dữ có thể tấn công người
203
9. Froese, R. and D. Pauly, 2010. FishBase. World
Wide Web electronic publication, http://
fishbase.org/.
10. GSAF, 2010. Global Shark Attack File: Incident
log, Shark Research Institute.
11. Huber, D. R., C. L. Weggelaar and P. J. Motta,
2006. Scaling of bite force in the blacktip shark
Carcharhinus limbatus. Zoology. Vol. 109, No.
2, p. 109-119.
12. Knickle, C., 2011. Biological Profiles: Silk
Shark Carcharhinus falciformis, Florida
Museum of Natural History,
silkyshark/silkyshark.html.
13. Knip, D. M., M. R. Heupel and C. A.
Simpfendorfer, 2010. Sharks in nearshore
environments: models, importance, and
consequences. Marine Ecology Progress Series.
Vol. 402, p. 1-11.
14. Last, P. R. and J. D. Stevens, 1994. Sharks and
Rays of Australia. CSIRO publishing 1-176 p.
15. Lowry, D., A. de Castro, K. Mara, L.
Whitenack, B. Delius, G. Burgess and P. Motta,
2009. Determining shark size from forensic
analysis of bite damage. Marine Biology. Vol.
156, No. 12, p. 2483-2492.
16. Nguyễn Khắc Hường, 1992. Cá và sinh vật độc
hại ở biển Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và
Kỹ thuật, 179 trang.
17. U.S. Navy, 2008. U.S Navy Diving Manual.
Diving medicine & Recompression Chamber
Operation. Appendix 5C : Dangerous Marine
Animals. Vol. 5C p. 1 - 23 pp
18. Võ Văn Quang, Võ Sĩ Tuấn, Lê Thị Thu Thảo,
Trần Công Thịnh, Nguyễn Phi Uy Vũ và Lê
Minh Phương, 2013. Thành phần loài và phân
bố của các nhám/mập ở vùng biển Qui Nhơn và
lân cận. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển,
Tập 13, Số 1. Tr. 21-30.
Lời cảm ơn: Công trình này là một phần kết quả
của Nhiệm vụ Khoa học cấp thiết của địa phương
“Nghiên cứu nguyên nhân và đề xuất giải pháp
phòng tránh cá dữ tấn công người ở vùng biển Quy
Nhơn” được Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ.
DETERMINATION OF PREDATOR SPECIES ATTACKING
SWIMMERS AT QUY NHON BAY (VIETNAM)
IN 2009 AND 2010
Vo Van Quang, Vo Si Tuan
Institute of Oceanography-VAST
ABSTRACT: The comparative analysis between the tooth marks on the bitten victim’s wound and imitated
tooth marks of fish indicated that sharks but not moray eel, grouper, barracuda were subjects to attack on
swimmers in Quy Nhon bay (Binh Dinh province, Vietnam) in 2009 and 2010. The analysis of the length of
the gap between shark teeth and tooth marks on the bitten victim’s wound also excludes great white shark
(Carcharodon carcharias) and shortfin mako (Isurus oxyrinchus) out of subjects to attack swimmers at that
time. In terms of particular victims, comparison between the imitated tooth marks of the sharks with the tooth
marks on the bitten victim’s wound as well as the gaps of the tooth marks, and among the molar peaks of the
collected shark species could suggest that the length and distance of the bitten marks, tooth gap and shape on
the body of Mr. Nguyen Quang Huynh matched those of the pigeye shark (Carcharhinus amboinensis). In case
of victim Mang Duc Hanh, he is likely to be attacked by blacktip shark (Carcharhinus limbatus). The other
victims could be attacked by graceful shark (Carcharhinus amblyrhynchoides). The total length of the shark
which could attack on the victims is 1.37- 1.92m for graceful shark, 1.26-2.84m for blacktip shark and 1.48-
2.50m for pigeye shark.
Keywords: Sharks, fish attack, Quy Nhon City, bitten victim’s wound.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3523_11909_1_pb_4755_2079585.pdf