Hưởng quốc tịch Việt Nam theo sự
phục hồi quốc tịch
Văn bản hợp nhất số 05/VBHN -
VPQH Luật quốc tịch Việt Nam năm 2014
đã có điều chỉnh ngày càng rõ hơn và
linh hoạt hơn về những trường hợp được
trở lại quốc tịch Việt Nam. Điều 23 Văn
bản hợp nhất số 05/VBHN - VPQH Luật
quốc tịch Việt Nam năm 2014 quy định
các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt
Nam cụ thể như sau: Xin hồi hương về
Việt Nam; Có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ
hoặc con đẻ là công dân Việt Nam; Có
công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Thực hiện đầu tư tại
Việt Nam; Đã thôi quốc tịch Việt Nam để
nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng không
được nhập quốc tịch nước ngoài.
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam
không được trở lại quốc tịch Việt Nam,
nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích
quốc gia của Việt Nam.
Đối với trường hợp người bị tước
quốc tịch Việt Nam xin trở lại quốc tịch
Việt Nam thì phải sau ít nhất 5 năm, kể
từ ngày bị tước quốc tịch mới được xem
xét cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam
phải lấy lại tên gọi Việt Nam trước đây,
tên gọi này phải được ghi rõ trong Quyết
định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
Về nguyên tắc, người được trở lại
quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc
tịch nước ngoài, trừ những người sau
đây, trong trường hợp đặc biệt, nếu được
Chủ tịch nước cho phép: Là vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân
Việt Nam; hoặc người đó có công lao đặc
biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; hoặc việc
nhập quốc tịch của người đó có lợi cho
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Như vậy, cũng giống như nhiều
nước, pháp luật Việt Nam quy định về
căn cứ xác lập quốc tịch Việt Nam dựa
trên những căn cứ xác lập quốc tịch phổ
biến trên thế giới. Các quy định liên quan
đến các căn cứ xác định quốc tịch là cơ
sở pháp lý để nhà nước xác định tư cách
công dân, trên cơ sở đó xác lập các quy
định pháp lý liên quan đến quyền và
nghĩa vụ công dân. Đồng thời, cá nhân
muốn nhập quốc tịch của một nước khác
cần nắm rõ và đáp ứng được các điều
kiện liên quan đến căn cứ xác lập quốc
tịch của nước đó./.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 368 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định quốc tịch theo quy định của thế giới và Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58
Căn Cứ xáC định quốC tịCh theo quy định Của thế giới và việt nam
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
Quốc tịch là cơ sở pháp lý để thực hiện chủ quyền quốc gia đối với dân cư của họ và thể hiện ranh
giới chủ quyền giữa các quốc gia trong
quan hệ quốc tế. Đồng thời, quốc tịch thể
hiện sự quy thuộc về một Nhà nước nhất
định của một cá nhân, là tiền đề pháp lý
cơ bản để một cá nhân được hưởng các
quyền và nghĩa vụ công dân của nhà
nước đó. Cá nhân mang quốc tịch của
quốc gia nào sẽ được hưởng các quyền
và phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật quốc gia đó. Chính vì
vậy, những quy định liên quan đến căn
cứ xác lập quốc tịch có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia
trên thế giới.
1. Những cách thức hưởng quốc tịch
phổ biến trên thế giới
Trên cơ sở chủ quyền quốc gia, mỗi
nước bằng pháp luật, quy định những
trường hợp được hưởng quốc tịch, cũng
như những trường hợp thay đổi và mất
quốc tịch. Việc quy định các điều kiện và
cách thức hưởng, mất quốc tịch là công
việc nội bộ của mỗi nước, không có nước
nào và tổ chức quốc tế nào có quyền can
thiệp. Mỗi nước có thể quy định các cách
thức hưởng quốc tịch khác nhau, nhưng
nhìn chung trên thế giới tồn tại các cách
thức hưởng quốc tịch như sau: Hưởng
quốc tịch theo sự sinh đẻ, theo sự gia
nhập quốc tịch, theo sự lựa chọn quốc
tịch và theo sự phục hồi quốc tịch.
- Hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ
Đây là cách thức xác lập quốc tịch
phổ biến, thông qua sự kiện sự sinh đẻ
của người mẹ, các quốc gia sẽ xác lập tư
XÁC ĐỊNH QUỐC TỊCH
THEO QUY ĐỊNH CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
* Thạc sĩ, Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân
Đối với mỗi quốc gia, quốc tịch là chế định hết sức quan trọng, thể hiện
mối liên hệ pháp lý giữa một cá nhân với quốc gia đó. Các căn cứ xác định
quốc tịch do từng quốc gia quy định, là cơ sở để giải quyết các vấn đề pháp
lý liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong bài viết này, tác giả
phân tích các căn cứ xác định quốc tịch phổ biến trên thế giới và căn cứ xác
định quốc tịch theo quy định của Văn bản hợp nhất số 05/VBHN - VPQH Luật
quốc tịch Việt Nam năm 2014.
Từ khóa: Quốc tịch, xác định quốc tịch.
For every nation, nationality is a significant regulation which presents legal
relationship between an individual and his nation. The basis for determining
nationality are prescribed by each nation to handle legal issues related to
citizenships and their obligations. Within this article, the author analyzes the
basis for determining nationality in the world and in regulations of Consolidated
document no. 05/VBHN - VPQH Law on nationality of Vietnam in 2014.
Keywords: Nationality, nationality determination.
TrầN NgọC MiNH*
59Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Trần ngọc Minh
cách công dân cho trẻ em. Tuy nhiên, luật
quốc tịch của các quốc gia trên thế giới lại
áp dụng hai nguyên tắc khác nhau để xác
lập quốc tịch cho trẻ em, đó là nguyên
tắc quyền huyết thống và nguyên tắc
nguyền nơi sinh hay còn gọi là nguyên
tắc lãnh thổ.
+ Nguyên tắc “quyền huyết thống”:
Theo nguyên tắc này, đứa trẻ sinh ra sẽ
mang quốc tịch của cha mẹ mà không
phụ thuộc vào nơi sinh. Nguyên tắc này
được áp dụng ở hầu hết các nước châu
Âu như Áo, Tây Ban Nha, Phần Lan, Ý,
Nauy và một số nước ở Châu Á như
Lào, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc,
Indonexia, Brunây
+ Nguyên tắc “quyền nơi sinh”: Theo
nguyên tắc này, đứa trẻ sinh ra ở nước
nào thì mang quốc tịch của nước đó mà
không phụ thuộc vào quốc tịch của cha
hay mẹ chúng. Nguyên tắc này áp dụng
phổ biến ở các quốc gia châu Mỹ như:
Braxin, Achentina, Bôlivia, Chilê
Trong thực tiễn, nguyên tắc xác định
quốc tịch theo “quyền nơi sinh” và “quyền
huyết thống” nhiều trường hợp trái ngược
nhau, dẫn đến tình trạng đứa trẻ sinh ra
có thể có hai quốc tịch hoặc không có
quốc tịch. Để giải quyết vấn đề này, các
nước cần phải hợp tác với nhau để ký
kết các Điều ước quốc tế nhằm loại trừ
những tình trạng trên.
Một số nước trên thế giới trên cơ
sở quy định nguyên tắc xác định quốc
tịch dựa trên cơ sở kết hợp cả hai yếu tố
quyền nơi sinh và quyền huyết thống,
chẳng hạn như: Ba Lan, Việt Nam...
- Hưởng quốc tịch theo sự gia nhập
Hưởng quốc tịch theo sự gia nhập
quốc tịch là việc một cá nhân bày tỏ
nguyện vọng trở thành công dân của
nước sở tại. Việc nhập quốc tịch được
quyết định bởi cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền về trao quốc tịch của nước
đó cho một người theo đúng những trình
tự được pháp luật nước đó quy định.
Khác với hai nguyên tắc nói trên, việc
xác định quốc tịch của cá nhân có thể
được thực hiện trên cơ sở những sự kiện
pháp lý hợp pháp như:
(1) Xin vào quốc tịch một nước ngoài;
(2) Hưởng quốc tịch theo sự kiện kết
hôn với người nước ngoài;
(3) Do được nhận làm con nuôi của
người nước ngoài;
Pháp luật các nước đều quy định
những điều kiện nhất định đối với người
xin nhập quốc tịch vì đây là vấn đề mang
tính giai cấp sâu sắc nhằm bảo vệ lợi ích
giai cấp thống trị của nước nhập quốc
tịch. Thông thường những điều kiện đó
bao gồm: phải đến một độ tuổi nhất định
(đa phần các nước quy định người xin
nhập quốc tịch có độ tuổi từ 18 tuổi trở
lên), phải cư trú tại nước xin gia nhập
quốc tịch trong một thời gian nhất định
(có thể là 5 năm như ở Mỹ, Anh, Thụy
Điển, Đức, 10 năm ở Nhật Bản, Thụy Sỹ,
15 năm ở Lucxambua...)1 phải biết tiếng
của nước mà mình xin gia nhập quốc tịch,
phải có điều kiện bảo đảm cuộc sống ở
nước xin gia nhập quốc tịch.
Chẳng hạn, đối với quy định của
pháp luật Mỹ, một người muốn nhập
quốc tịch Mỹ thì phải có đầy đủ các điều
kiện sau: Đáp ứng yêu cầu về tiếng Anh
1 https://vnexpress.net/phap-luat/5-quoc-gia-co-dieu-
kien-nhap-quoc-tich-khat-khe-nhat-the-gioi-3865836.
html
60
Căn Cứ xáC định quốC tịCh theo quy định Của thế giới và việt nam
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
và phải hiểu biết về lịch sử, chính trị
Mỹ; từ 18 tuổi trở lên; phải trung thành
với Hiến pháp Mỹ và sẵn sàng gia nhập
quân đội Mỹ; là người có phẩm chất đạo
đức tốt, chưa từng vi phạm pháp luật tại
Mỹ như trộm cắp, sử dụng giấy tờ giả,
buôn hàng cấm; là người thường trú ở
Mỹ có thẻ xanh ít nhất 5 năm (thời gian ở
Mỹ phải đủ 2,5 năm), hoặc kết hôn với 1
công dân Mỹ được 3 năm (thời gian ở Mỹ
trên 18 tháng). Riêng về điều kiện tiếng
Anh, người xin nhập quốc tịch Mỹ phải
đáp ứng các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
ở mức căn bản.
Đối với người trên 50 tuổi và là người
thường trú sống tại Mỹ ít nhất 20 năm có
thể miễn kiểm tra tiếng Anh. Người trên
65 tuổi là người thường trú đã sinh sống
tại Mỹ ít nhất 20 năm được miễn kiểm tra
tiếng Anh, miễn kiểm tra lịch sử và chính
quyền nước Mỹ2.
- Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn
Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn
được đặt ra trong trường hợp một bộ
phận lãnh thổ của quốc gia này được
sáp nhập vào lãnh thổ của quốc gia khác
và trong trường hợp Chính phủ của hai
nước đó đã thoả thuận với nhau về việc
di chuyển các bộ phận dân cư nhất định
từ nước này sang nước khác.
Việc lựa chọn quốc tịch là một quyền
con người và người đó được tự do lựa
chọn cho mình một quốc tịch trong
trường hợp người đó có khả năng nhận
được từ hai quốc tịch trở lên, có thể là
giữ nguyên quốc tịch cũ hoặc gia nhập
quốc tịch mới. Việc lựa chọn quốc tịch
cũng cần phải dựa trên cơ sở phù hợp
2 https://www.interimm.vn/nhung-dieu-kien-de-
nhap-quoc-tich-my
với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc
tế và nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có
nhiều trường hợp chính phủ các nước
ký kết với nhau Hiệp định trao đổi dân
cư nhằm di chuyển các bộ phận dân cư
nhất định từ nước này sang nước kia và
ngược lại. Việc di cư này được tiến hành
chủ yếu với những người cùng dân tộc
và trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Chẳng
hạn, Hiệp định 6/7/1945 giữa Chính phủ
Liên Xô và chính phủ lâm thời của mặt
trận dân tộc thống nhất Ba Lan đã quy
định người Ba Lan và người Do Thái có
quốc tịch Ba Lan trước ngày 17/9/1939
hiện đang cư trú trên lãnh thổ Liên Xô
có quyền rút khỏi quốc tịch Liên Xô và
nên chuyển về Ba Lan, người Nga, người
Ucraina và người các dân tộc khác của
Liên Xô hiện đang cư trú trên lãnh thổ Ba
Lan có quyền rút khỏi quốc tịch Ba Lan
và nên rút về Liên Xô. Hiệp định ngày
10/6/1946 giữa Liên Xô và Tiệp Khắc về
lựa chọn quốc tịch và di dân cũng quy
định nguyên tắc tương tự.
Ngoài ra, trên thực tế, việc hồi hương
(Repatriation) cũng đặt ra việc lựa chọn
quốc tịch cùng một lúc cho một nhóm
người nhất định. Đây là một dạng đặc
biệt của hình thức di dân. Hình thức này
đã từng được áp dụng đối với người
Đức ở Ba Lan, Tiệp khắc, Hunggari trong
những năm sau chiến tranh thế giới thứ
hai theo quy định của Hiệp ước Postdam
năm 19453.
- Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi
quốc tịch
3 Sách chuyên khảo Luật quốc tế, Ths. Ngô Hữu
Phước, Khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, nxb Chính trị quốc gia,
2010, Tr.256.
61Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Trần ngọc Minh
Đây là sự khôi phục lại quốc tịch của
một nước cho người đã mất quốc tịch
của nước đó. Vấn đề phục hồi quốc tịch
thường được đặt ra đối với những người
trước đây đã ra nước ngoài sinh sống,
nay trở về Tổ quốc; hoặc đối với những
người đã mất quốc tịch nước mình do kết
hôn, ly hôn, nhận làm con nuôi đối với
người nước ngoài.
2. Những cách thức hưởng quốc tịch
theo quy định pháp luật Việt Nam
Dựa trên cơ sở những cách thức xác
định phổ biến trên thế giới, Luật quốc
tịch Việt Nam đã quy định các căn cứ
xác định quốc tịch đối với các trường
hợp hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ,
hưởng quốc tịch theo sự gia nhập quốc
tịch, hưởng quốc tịch theo sự phục hồi
quốc tịch, hưởng quốc tịch theo điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên.
Theo quy định của Điều 14 Văn bản
hợp nhất số 05/VBHN - VPQH Luật quốc
tịch Việt Nam năm 2014, một người có
quốc tịch Việt Nam nếu có một trong
những căn cứ sau:
+ Do sinh ra theo quy định tại các
điều 15, 16 và 17 của Luật này;
+ Được nhập quốc tịch Việt Nam;
+ Được trở lại quốc tịch Việt Nam;
+ Theo quy định tại các điều 18, 35 và
37 của Luật quốc tịch;
+ Theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Hưởng quốc tịch Việt Nam theo sự
sinh đẻ
Theo quy định tại các điều 16, 17, 18
Văn bản hợp nhất số 05/VBHN - VPQH
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2014, trẻ
em được sinh ra và có quốc tịch Việt Nam
trong các trường hợp sau đây:
+ Có cha mẹ đều là công dân Việt
Nam, bất kể sinh ra ở trong hay ngoài
lãnh thổ Việt Nam;
+ Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài
lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha
hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người
kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ
là công dân Việt Nam còn cha không rõ
là ai thì có quốc tịch Việt Nam.
+ Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ
là công dân Việt Nam còn người kia là
công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt
Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản
của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai
sinh cho con. Trường hợp trẻ em được
sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha
mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn
quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc
tịch Việt Nam.
+ Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt
Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là
người không quốc tịch, nhưng có nơi
thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch
Việt Nam.
+ Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt
Nam mà khi sinh ra có mẹ là người
không quốc tịch, nhưng có nơi thường
trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai
thì có quốc tịch Việt Nam.
+ Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm
thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ
cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.
Như vậy, Luật quốc tịch Việt Nam
đã kết hợp cả hai nguyên tắc quyền nơi
sinh và quyền huyết thống nhằm đảm bảo
cho mọi đứa trẻ sinh ra trên lãnh thổ Việt
62
Căn Cứ xáC định quốC tịCh theo quy định Của thế giới và việt nam
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
Nam không rơi vào tình trạng không có
quốc tịch.
- Hưởng quốc tịch Việt Nam theo sự
gia nhập
Theo Điều 19, Văn bản hợp nhất số 05/
VBHN-VPQH Luật quốc tịch Việt Nam
năm 2014, công dân nước ngoài và người
không quốc tịch đang thường trú ở Việt
Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam
thể có thể được nhập quốc tịch Việt Nam,
nếu có đủ các điều kiện sau đây:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
theo quy định của pháp luật Việt Nam;
+ Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong
tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
+ Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào
cộng đồng Việt Nam;
+ Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm
trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc
tịch Việt Nam;
+ Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại
Việt Nam.
Người nhập quốc tịch Việt Nam
thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ
những người thuộc một trong các trường
hợp: Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc
con đẻ của công dân Việt Nam; Có công
lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; Có lợi
cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trong trường hợp đặc biệt, nếu
được Chủ tịch nước cho phép.
Đối với người nước ngoài thuộc một
trong các trường hợp trên thì điều kiện
nhập quốc tịch Việt Nam cũng đơn giản
hơn, chỉ cần hai điều kiện: có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của
pháp luật Việt Nam; tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền
thống, phong tục, tập quán của dân tộc
Việt Nam;
Người xin nhập quốc tịch Việt Nam
không được nhập quốc tịch Việt Nam,
nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích
quốc gia của Việt Nam.
Đối với quốc tịch của con chưa thành
niên khi cha mẹ được nhập, trở lại hoặc
thôi quốc tịch Việt Nam được quy định
cụ thể tại Điều 35 Văn bản hợp nhất số
05/VBHN - VPQH Luật quốc tịch Việt
Nam năm 2014, theo đó:
Khi có sự thay đổi về quốc tịch do
nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt
Nam của cha mẹ thì quốc tịch của con
chưa thành niên sinh sống cùng với cha
mẹ cũng được thay đổi theo quốc tịch
của họ.
Khi chỉ cha hoặc mẹ được nhập,
trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam thì
con chưa thành niên sinh sống cùng với
người đó cũng có quốc tịch Việt Nam
hoặc mất quốc tịch Việt Nam, nếu có sự
thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ.
Trường hợp cha hoặc mẹ được nhập,
trở lại quốc tịch Việt Nam thì con chưa
thành niên sinh sống cùng với người đó
cũng có quốc tịch Việt Nam, nếu cha mẹ
không thỏa thuận bằng văn bản về việc
giữ quốc tịch nước ngoài của người con.
Sự thay đổi quốc tịch của người từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi theo quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này
phải được sự đồng ý bằng văn bản của
người đó.
Quốc tịch của con nuôi chưa thành
niên được quy định tại Điều 37 Văn bản
hợp nhất số 05/VBHN - VPQH Luật quốc
63Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Trần ngọc Minh
tịch Việt Nam năm 2014, theo đó:
Trẻ em là công dân Việt Nam được
người nước ngoài nhận làm con nuôi thì
vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
Trẻ em là người nước ngoài được công
dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có
quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam công nhận việc nuôi con nuôi.
Trẻ em là người nước ngoài được cha
mẹ mà một người là công dân Việt Nam,
còn người kia là người nước ngoài nhận
làm con nuôi thì được nhập quốc tịch
Việt Nam theo đơn xin nhập quốc tịch
Việt Nam của cha mẹ nuôi và được miễn
các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều
19 của Luật quốc tịch.
Sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được
sự đồng ý bằng văn bản của người đó.
- Hưởng quốc tịch Việt Nam theo sự
phục hồi quốc tịch
Văn bản hợp nhất số 05/VBHN -
VPQH Luật quốc tịch Việt Nam năm 2014
đã có điều chỉnh ngày càng rõ hơn và
linh hoạt hơn về những trường hợp được
trở lại quốc tịch Việt Nam. Điều 23 Văn
bản hợp nhất số 05/VBHN - VPQH Luật
quốc tịch Việt Nam năm 2014 quy định
các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt
Nam cụ thể như sau: Xin hồi hương về
Việt Nam; Có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ
hoặc con đẻ là công dân Việt Nam; Có
công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Thực hiện đầu tư tại
Việt Nam; Đã thôi quốc tịch Việt Nam để
nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng không
được nhập quốc tịch nước ngoài.
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam
không được trở lại quốc tịch Việt Nam,
nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích
quốc gia của Việt Nam.
Đối với trường hợp người bị tước
quốc tịch Việt Nam xin trở lại quốc tịch
Việt Nam thì phải sau ít nhất 5 năm, kể
từ ngày bị tước quốc tịch mới được xem
xét cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam
phải lấy lại tên gọi Việt Nam trước đây,
tên gọi này phải được ghi rõ trong Quyết
định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
Về nguyên tắc, người được trở lại
quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc
tịch nước ngoài, trừ những người sau
đây, trong trường hợp đặc biệt, nếu được
Chủ tịch nước cho phép: Là vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân
Việt Nam; hoặc người đó có công lao đặc
biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; hoặc việc
nhập quốc tịch của người đó có lợi cho
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Như vậy, cũng giống như nhiều
nước, pháp luật Việt Nam quy định về
căn cứ xác lập quốc tịch Việt Nam dựa
trên những căn cứ xác lập quốc tịch phổ
biến trên thế giới. Các quy định liên quan
đến các căn cứ xác định quốc tịch là cơ
sở pháp lý để nhà nước xác định tư cách
công dân, trên cơ sở đó xác lập các quy
định pháp lý liên quan đến quyền và
nghĩa vụ công dân. Đồng thời, cá nhân
muốn nhập quốc tịch của một nước khác
cần nắm rõ và đáp ứng được các điều
kiện liên quan đến căn cứ xác lập quốc
tịch của nước đó./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_quoc_tich_theo_quy_dinh_cua_the_gioi_va_viet_nam.pdf