Chi phí thức ăn
Chi phí thức ăn ương lươn giống từ 25 đến 75
ngày tuổi bằng TĂCB là 54,5 đồng/lươn giống, rẻ
hơn gấp 7 lần so với thức ăn CBX là 344,5 đồng/lươn
giống (Hình 4). Việc sử dụng TĂCB trong quá trình
ương nuôi nhiều loài cá đã được chứng minh như
nghiên cứu trên cá lóc (Nguyễn Hoàng Hùy, 2011),
cá thát lát còm (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2014),
TĂCB không chỉ giảm giá thành mà còn chủ động
về nguồn thức ăn và ổn định; bên cạnh đó vấn đề về
môi trường nước, mầm bệnh trong quá trình ương
khi sử dụng thức ăn CBX luôn tiềm ẩn rủi ro.
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05).
3.2.4. Tỉ lệ phân đàn của lươn
Kết quả phân đàn (Hình 3) cho thấy tỉ lệ lươn
giống có kích thước lớn > 3 g và trung bình 1,5 - 3 g ở
nghiệm thức TĂCB đạt 87,2%, thể hiện tăng trưởng
lươn giống rất tốt khi sử dụng TĂCB. Tuy nhiên tỉ
lệ lươn giống có kích cỡ nhỏ hơn 1,5 g ở nghiệm
thức TĂCB chiếm 12,8% và nghiệm thức thức ăn
CBX 8,5%, cho thấy khi chuyển đổi TĂCB vẫn còn
một tỉ lệ nhất định lươn chưa tiêu hóa tốt TĂCB,
mặc dù không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống nhưng sinh
trưởng chậm. Kết quả này cũng được ghi nhận khi
chuyển đổi TĂCB ở cá lóc bông (Hien et al., 2017),
cá thát lát còm (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn
Hương Thùy, 2008), cá lóc đen (Ngô Minh Dung,
2010). Nghiên cứu của Abol-Munafi và cộng tác viên
(2004) khi sử dụng các loại thức ăn khác nhau ương
cá lóc, mặc dù TĂCB có hàm lượng đạm thích hợp
và các chất khoáng thiết yếu, nhưng ấu trùng cá lóc
sinh trưởng chậm, tác giả cho rằng thói quen ăn mồi
sống của loài là nguyên nhân chính dẫn đến một số
con không sử dụng được TĂCB trong giai đoạn đầu.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định thời điểm chuyển đổi thức ăn chế biến phù hợp trong ương lươn từ bột lên giống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
120
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM CHUYỂN ĐỔI THỨC ĂN CHẾ BIẾN PHÙ HỢP
TRONG ƯƠNG LƯƠN TỪ BỘT LÊN GIỐNG
Trần Thị Thanh Hiền1, Phạm Thanh Liêm1,
Phạm Minh Đức1, Nguyễn Thanh Hiệu1, Lam Mỹ Lan1
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định thời điểm chuyển đổi thức ăn chế biến hiệu quả trong ương lươn (Monopterus albus)
giống. Thí nghiệm 1 gồm 5 nghiệm thức với các thời điểm sử dụng thức ăn chế biến khác nhau là 20, 25, 30, 35 và
40 ngày sau nở và 1 nghiệm thức đối chứng (thức ăn Moina, trùn chỉ và cá biển xay). Lươn 1 ngày tuổi được bố trí trên
18 khay nhựa (20 L nước) với mật độ 150 con/khay; thời gian thí nghiệm 60 ngày. Kết quả tăng trưởng của lươn ở các
nghiệm thức tập ăn thấp hơn so với đối chứng; tuy nhiên, tỉ lệ sống ở các nghiệm thức tập ăn từ ngày 35 thì khác biệt
không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (p > 0,05). Thí nghiệm 2 để so sánh hiệu quả khi chuyển đổi thức ăn cá
biển xay và thức ăn chế biến từ 35 ngày tuổi. Kết quả tỉ lệ sống của lươn giống đều đạt cao ở cả hai nghiệm thức thức
ăn cá biển xay và thức ăn chế biến lần lượt 92 và 94%. Tăng trưởng của lươn ăn thức ăn chế biến thấp hơn 10% so với
lươn ăn thức ăn cá biển xay; tuy nhiên chi phí thức ăn ương lươn giống bằng thức ăn chế biến (54,5 đồng/lươn giống)
thấp hơn 7 lần và có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với nghiệm thức thức ăn cá biển xay (344,5 đồng/lươn giống).
Từ khóa: Lươn, Monopterus albus, tập ăn, thức ăn chế biến
1 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thời gian cá sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến
chịu ảnh hưởng bởi sự hoàn thiện của ống tiêu hóa
cũng như số lượng phát triển chức năng sinh lý của
ống tiêu hóa ở giai đoạn cá bột và mỗi loài có thời
điểm sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến (TĂCB)
khác nhau (Cuvier-Péres and Kestemont, 2002).
Nghiên cứu sử dụng TĂCB thay thế cho thức ăn tự
nhiên mang lại hiệu quả ưu việt như hạn chế hiện
tượng ăn nhau, chủ động trong việc cung cấp thức
ăn trong quá trình ương nuôi, hạn chế ô nhiễm môi
trường, giảm giá thành sản xuất, Tuy nhiên, việc
chuyển từ thức ăn đặc trưng của loài sang nguồn
thức ăn nhân tạo là giai đoạn khó thực hiện ở hầu
hết các đối tượng thủy sản (De silva and Anderson,
1997). Việc tập ăn cho cá có thể thực hiện ở các giai
đoạn khác nhau và thời gian để cá chấp nhận TĂCB
khác nhau tùy từng loài. Tập ăn TĂCB cho cá lóc
bông giai đoạn 40 ngày tuổi cho tỉ lệ sống 80,8% và
tăng trưởng 1,07 g/ngày tốt nhất với phương thức
thay thế 10% TĂCB/3 ngày (Hien et al., 2017). Thời
điểm tập ăn hiệu quả TĂCB của cá thát lát còm là
25 ngày tuổi với phương thức thay thế dần trùn chỉ
bằng TĂCB với tỷ lệ 10%/ngày. Ngược lại, ở một số
loài cá tập ăn ở giai đoạn sớm dưới 15 ngày cho kết
quả tốt hơn như cá kết, Micronema bleekeri (Nguyễn
Văn Triều và ctv., 2008), cá bơn xanh, Rhombosolea
tapirina (Hart and Purser, 1996), cá vược măng
Sanderlucioperca (Ostaszewska et al., 2005).
Hiện nay, nhiều đối tượng thủy sản quan trọng
như tôm sú, cua biển, cá tra, cá thát lát, cá lóc, lươn
đã được nuôi và phát triển nhanh trong những năm
gần đây. Lươn, Monopterus albus hiện đang được
chú ý để phát triển nhằm góp phần đa dạng hóa đối
tượng nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Khi ương lươn từ bột lên giống thức ăn tươi sống
(TĂTS) như Moina, trùn chỉ và cá tạp được sử dụng
phổ biến. Để phát triển nghề nuôi lươn bền vững
thì việc sử dụng TĂCB nuôi lươn là rất cần thiết. Để
chuyển đổi từ TĂTS sang TĂCB thì việc xác định
thời điểm thích hợp thay thế TĂTS bằng TĂCB trong
ương lươn giống là rất cần thiết hiện nay.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Thành phần nguyên liệu và công thức TĂCB
được mô tả ở bảng 1, thức ăn nổi, kích cỡ thức ăn
từ 0,4 mm - 1 mm. Thức ăn cá biển xay (CBX) là cá
nục tươi, phi lê lấy phần thịt, xay nhuyễn làm thức
ăn cho lươn. Thức ăn tươi sống gồm Moina, trùn chỉ.
Bảng 1. Thành phần nguyên liệu
của thức ăn thí nghiệm
Nguyên liệu Tỉ lệ (%)
Bột cá Kiên Giang (65% CP) 55,3
Bột đậu nành trích béo (47% CP) 15,0
Cám tươi 10,0
Bột mì 12,7
Khoáng và vitamin* 2,0
Dầu cá biển 3,0
Chất kết dính 2,0
Tổng 100
Ghi chú: * Vitamin và mineral mixture (unit/kg):
vitamin A, 2.000.000 IU; vitamin D, 400.000 IU; vitamin E,
6 g; vitamin B1, 800 mg; vitamin B2, 800 mg; vitamin B12,
2 mg; Calcium D. Panthotenate, 2 g; Folic acid, 160 mg;
vitamin C, 15 g; Cholin chloride, 100 g; Ferous (Fe2+),
1 g; Zinc (Zn2+), 3 g; Manganese (Mn2+), 2 g; Copper
(Cu2+), 100 mg; Iodine (I-), 20 mg; Cobalt (Co2+), 10 mg;
DL-Methionin, 60 g; L-Lysin, 30 g.
121
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thí nghiệm 1: Xác định thời điểm tập ăn
thích hợp cho lươn
Lươn 1 ngày tuổi được bố trí hoàn toàn ngẫu
nhiên vào các khay nhựa với số lượng thả là 150
con/khay (20 L nước). Thí nghiệm gồm có 5 nghiệm
thức khác nhau về thời điểm bắt đầu tập ăn TĂCB:
20, 25, 30, 35 và 40 ngày tuổi và nghiệm thức đối
chứng sử dụng hoàn toàn TĂTS gồm moina (từ ngày
thứ 7 đến ngày thứ 9), trùn chỉ (từ ngày thứ 10 đến
ngày 29) và cá biển xay (từ ngày thứ 30); mỗi nghiệm
thức được lặp lại 3 lần. TĂCB được sử dụng theo
công thức thức ăn tập ăn cho cá của Hien và cộng
tác viên (2017). Phương thức tập ăn thay thế dần
trùn chỉ bằng TĂCB như sau lượng thức ăn chế biến
tăng dần 20% TĂCB/ngày đến khi sử dụng 100%
TĂCB. Trong thời gian thí nghiệm, các nghiệm thức
chưa đến thời điểm cho ăn TĂCB được cho ăn như
nghiệm thức đối chứng. Thời gian thí nghiệm đến
lươn được 60 ngày tuổi.
2.2.2. Thí nghiệm 2: So sánh hiệu quả khi chuyển
đổi thức ăn cá biển xay và thức ăn chế biến ương
lươn giống
Chuẩn bị lươn thí nghiệm: Lươn từ 10 đến 25
ngày tuổi được ương bằng trùn chỉ để chuẩn bị
nguồn lươn cho thí nghiệm chuyển đổi thức ăn,
lươn được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 3 khay
nhựa (20 L nước) với số lượng thả là 700 con/khay.
Lươn 25 ngày tuổi chọn đồng cỡ bố trí với 2 nghiệm
thức ăn cá biển xay và TĂCB, mỗi nghiệm thức lập
lại 5 lần. 10 ngày đầu lươn tiếp tục được cho ăn trùn
chỉ, từ ngày thứ 35 bắt đầu chuyển đổi thức ăn CBX
hoặc TĂCB với mức độ thay thế 20% ngày (thay thế
100% sau 5 ngày). Thời gian thí nghiệm 50 ngày.
2.2.3. Chăm sóc và quản lý
Hệ thống bể thí nghiệm được bố trí với hệ thống
sục khí; thay nước hằng ngày; quan sát hoạt động
của lươn; vệ sinh bể. Lươn được cho ăn theo nhu
cầu và cho ăn 4 lần/ngày vào lúc 7 h, 10 h, 14 h và 17
h; ghi nhận lượng thức ăn thừa sau thời gian cho ăn
30 phút; quan sát và ghi nhận hoạt động ăn, bắt mồi
và đếm số lươn chết.
Nhiệt độ, pH và oxy hòa tan được đo 1 lần/tuần
(vào lúc 7 h và 15 h) bằng máy YSI 556 (USA) và các
yếu tố TAN, NH3 và NO2 được đo 1 lần/tuần bằng
test kit SERA (Germany). Thí nghiệm xác định thời
điểm tập ăn, nhiệt độ trong các bể ương nhiệt độ dao
dộng từ 25,1 - 30,0 ºC; pH 7,19 - 7,40; hàm lượng
TAN và NO2- dao động từ 0 - 0,5 mg/L.
2.2.4. Ghi nhận số liệu
Khối lượng và chiều dài lươn ban đầu được xác
định khi bố trí thí nghiệm. Khi kết thúc thí nghiệm
cân toàn bộ lươn trong bể; cân và đo 30 cá thể trong
mỗi bể xác định khối lượng và chiều dài cuối. Các số
liệu thu dùng tính toán tỉ lệ sống, tăng trọng, tăng
trưởng tương đối về khối lượng SGRW (%/ngày),
tăng trưởng tương đối về chiều dài SGRL (%/ngày),
mức độ phân đàn được phân theo 3 kích cỡ theo
khối lượng: lươn lớn > 3 g; lươn trung bình 1,5 - 3 g;
lươn nhỏ < 1,5 g. Các chỉ tiêu tính toán: Tăng trọng
WG (g) = Wt – Wi; lượng thức ăn ăn vào FI (%/lươn/
ngày) = lượng thức ăn vào/khối lượng cá/t; hệ số
tiêu tốn thức ăn FCR = Lượng thức ăn cho ăn /Khối
lượng lươn gia tăng; tỷ lệ sống SR (%) = (Số lươn sau
thí nghiệm /Số lươn ban đầu.) ˟ 100
2.2.5. Xử lý số liệu
Số liệu thể hiện giá trị trung bình và độ lệch chuẩn
được tính toán bằng chương trình Microsoft Excel
2010. So sánh trung bình giữa các nghiệm thức theo
one-way ANOVA và phép thử Duncan; so sánh giá
trị trung bình giữa 2 nghiệm thức bằng t-test, mức ý
nghĩa 0,05, bằng chương trình SPSS 21.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6/2017 đến
tháng 12/2018 tại Trại thí nghiệm, Bộ môn Kỹ thuật
nuôi nước ngọt, Khoa Thủy sản, Trường Đại học
Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định thời điểm tập ăn thích hợp
Sau 60 ngày thí nghiệm, tỉ lệ sống của lươn ở
các nghiệm thức dao động từ 46,2% đến 90,4%.
Tỉ lệ sống của lươn ở các nghiệm thức tập ăn từ
ngày 20 đến ngày 30 (46,2 đến 67,8%) thấp hơn và
khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng
(P < 0,05). Tỉ lệ sống đạt cao nhất trong các nghiệm
thức tập ăn là nghiệm thức tập ăn ở 40 ngày tuổi
(82,0%), tuy nhiên, khác biệt không có ý nghĩa so với
nghiệm thức 35 ngày (75,6%) và nghiệm thức đối
chứng. Tỉ lệ sống của lươn trong thí nghiệm này có
xu hướng tăng dần khi thời điểm tập ăn thức ăn chế
biến càng muộn. Kết quả này tương tự như kết quả
đạt được khi tập ăn trên một số loài cá như trên ấu
trùng cá sơn, Centropomus parallelus 40 ngày tuổi là
thời điểm tập ăn thích hợp nhất với tỉ lệ sống 99,3%
(Alves et al., 2006), nghiên cứu của Hart and Purser
(1996) trên cá bơn, RhombosoZea tapirina cho thấy
122
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
rằng ngày tuổi tập ăn thích hợp từ 23 đến 50 ngày.
Trên ấu trùng cá tuyết, Melanogrammus aeglefinus
khi tập ăn ở giai đoạn sớm (14, 21, 28 và 35 ngày
sau nở) cho tỉ lệ sống rất thấp (2,5 - 6,3%), tập ăn ở
giai đoạn muộn hơn (42 ngày sau nở) cải thiện tỉ lệ
sống đáng kể 64,5% (Hamlin and Kling, 2001). Tập
ăn TĂCB cho cá lóc bông giai đoạn 40 ngày tuổi cho
tỉ lệ sống (80,8%) và tăng trưởng ngày (1,07g/ngày)
tốt nhất với phương thức thay thế 10% TĂCB/3 ngày
(Hien et al., 2017).
Bảng 2. Tăng trưởng và tỉ lệ sống của lươn giống khi tập ăn bằng TĂCB
Thời gian bắt đầu
tập ăn bằng TĂCB
Chiều dài thân Khối lượng thân
SR (%)
Lf (cm) SGRL (%/ngày) Wf (g) SGRW (%/ngày)
Ngày thứ 20 5,5 ± 0,36e 1,8 ± 0,11e 0,14 ± 0,03d 3,5 ± 0,34e 46,2 ± 8,3c
Ngày thứ 25 6,3 ± 0,16d 1,9 ± 0,04d 0,18 ± 0,02d 4,0 ± 0,23de 61,8 ± 21,7bc
Ngày thứ 30 6,4 ± 0,19d 2,0 ± 0,05d 0,22 ± 0,05cd 4,3 ± 0,40d 67,8 ± 5,8b
Ngày thứ 35 7,3 ± 0,40c 2,2 ± 0,09c 0,32 ± 0,04cd 4,9 ± 0,21c 75,6 ± 9,5ab
Ngày thứ 40 8,6 ± 0,22b 2,5 ± 0,04b 0,56 ± 0,07b 5,8 ± 0,22b 82,0 ± 7,2ab
Đối chứng 9,8 ± 0,38a 2,7 ± 0,06a 0,91 ± 0,14a 6,7 ± 0,24a 90,4 ± 2,7a
Ghi chú: Lf: chiều dài cuối; SGRL: tăng trưởng tương đối về chiều dài; Wf: khối lượng cuối; SGRw: tăng trưởng tương
đối về khối lượng; SR: tỉ lệ sống. Số liệu thể hiện giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; Số liệu trong cùng một cột mang chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P <0,05).
Thời điểm tập ăn TĂCB tùy thuộc vào thời gian
hoàn chỉnh ống tiêu hóa. Các nghiệm thức tập ăn
sớm cho tỉ lệ sống thấp quan sát thấy lươn bắt mồi
chậm không đồng đều, có cá thể không ăn, vào thời
điểm này lươn mới hình thành dạ dày. Việc không
sử dụng tốt TĂCB ở giai đoạn này có thể hoạt tính
của enzyme tiêu hóa chưa phát triển hoàn thiện
dẫn đến tỉ lệ sống ở các nghiệm thức này thấp. Theo
Cahu và Infante (2001) cho rằng ống tiêu hóa ở giai
đoạn cá nhỏ thiếu chức năng dạ dày, thiếu enzyme
tiêu hóa, có thể đó là nguyên nhân cá không thể tiêu
hóa được TĂCB. Sự phát triển hoàn chỉnh của hệ
tiêu hóa, loại và hoạt tính của enzyme tiêu hóa tăng
dần trong suốt giai đoạn sau của sự phát triển ấu
trùng giúp cá tiêu hóa TĂCB tốt hơn (Stroband and
Dabrowski, 1981; Walford and Lam, 1993).
Tăng trọng và tốc độ tăng trưởng theo ngày của
lươn có xu hướng tăng dần khi thời gian bắt đầu tập
ăn TĂCB tăng dần. Nghiệm thức 20 ngày tuổi có tỉ lệ
sống thấp, quá trình theo dõi cá chết hàng ngày cho
thấy lươn chết vào những ngày đầu thí nghiệm, mật
độ thưa làm giảm sự cạnh tranh thức ăn. Thêm vào
đó, dựa trên kết quả về tỉ lệ không chấp nhận TĂCB
trong thí nghiệm này cho thấy rằng ở giai đoạn
20 ngày tuổi cá lươn không sử dụng tốt TĂCB.
Nghiệm thức 40 ngày tuổi có khối lượng cuối đạt
0,56 g và SGR 5,8%/ngày cao nhất và khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm nhóm
tuổi tập ăn sớm hơn, do khi bắt đầu thay thế TĂCB,
lươn đã lớn (40 ngày tuổi), có thể hấp thu tốt chất
dinh dưỡng trong thức ăn đồng thời với phương
thức thay thế chậm dần tạo điều kiện tốt cho lươn
quen dần với TĂCB. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
xu hướng tăng trọng lươn tăng khi thời điểm tập ăn
càng trễ như nghiên cứu trên cá còm, Chitala chitala
tăng trưởng theo ngày tăng (1,8 - 20,5 mg/ngày)
ứng với thời gian tập ăn tăng từ 10 đến 25 ngày tuổi
(Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy,
2008). Trên cá tuyết, Melanogrammus aeglefinus tăng
trọng cá tăng 1,384-2,246 mg khi tập ăn với các giai
đoạn ngày tuổi tăng dần 14 - 35 ngày tuổi (Hamlin
and kling, 2001).
Hình 1. Mức độ phân đàn của lươn giống
khi tập ăn bằng thức ăn viên chế biến.
123
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Trong số nhiều loài động vật làm thức ăn, moina
và trùn chỉ được sử dụng phổ biến nhất vì chúng
không làm mất dưỡng chất trong nước như TĂCB
và kích thước phù hợp với cỡ miệng của hầu hết các
loài cá (Verreth et al., 1993). Tuy nhiên, một số loài
cá nước ngọt có thể được ương hoàn toàn bằng thức
ăn nhân tạo như cá Clarias gariepinus, Coregonus sp.,
Cyprinus carpio, Heterobranchus longifilis (Appelbaum
et al., 1988; Bergot et al., 1986; Charlon et al., 1986;
Legendre et al., 1995). Trong nghiên cứu cũng như
ngoài thực tế, việc chuyển từ TĂTS sang thức ăn
nhân tạo được thực hiện càng sớm càng tốt nếu nó
không ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của
cá bột. Nếu cá sử dụng tốt thức ăn nhân tạo thì sẽ
hạn chế được bệnh lây nhiễm qua thức ăn tươi sống
và chủ động được nguồn thức ăn trong ương nuôi.
Hình 1 cho thấy mức độ phân đàn của lươn khi tập
ăn bằng TĂCB phụ thuộc rất lớn vào thời điểm tập
ăn càng sớm (20 - 30 ngày tuổi) thì lươn có khối
lượng trung bình nhỏ hơn ở thời điểm tập ăn trễ
hơn (35 - 40 ngày tuổi).
Kết quả thí nghiệm cho thấy mặc dù sinh trưởng
của lươn ở nghiệm thức tập ăn TĂCB chậm hơn so
với TĂTS nhưng từ ngày thứ 35 tập ăn tỉ lệ sống của
lươn khác biệt không có ý nghĩa so với TĂTS. Vì vậy,
trong ương lươn có thể bắt đầu tập ăn cho lươn từ
ngày tuổi thứ 35.
3.2. So sánh hiệu quả khi chuyển đổi thức ăn cá
biển xay và thức ăn chế biến ương lươn đồng
3.2.1. Yếu tố môi trường nước ương
Kết quả theo dõi yếu tố môi trường nước trong
giai đoạn chuyển đổi thức ăn ở hai nghiệm thức thức
ăn CBX và TĂCB (Bảng 3) cho thấy nhiệt độ trung
bình dao động 25,8 - 30,8oC; pH 7,1 - 8,0; Oxy hòa
tan 5,4 - 6,3 mg/L bảo đảm duy trì phù hợp cho sự
phát triển của lươn. TAN và N-NO2- là 2 yếu tố môi
trường có sự khác biệt giữa 2 nghiệm thức, đặc biệt
là hàm lượng N-NO2-. Từ tuần ương nuôi thứ 3 thì
hàm lượng N-NO2- ở nghiệm thức thức ăn CBX tăng
rõ rệt và khác biệt với nghiệm thức TĂCB và duy trì
ở mức cao suốt thời gian ương mặc dù nước được
thay 100% mỗi ngày. Kết quả này thể hiện việc sử
dụng TĂCB duy trì môi trường nước ươn lươn giống
tốt hơn.
3.2.2. Tăng trưởng và tỉ lệ sống
Sau 50 ngày thí nghiệm, lươn ở nghiệm thức
cho ăn cá biển xay có tỉ lệ sống đạt 92,2%, thấp hơn
nghiệm thức TĂCB 94,8% (Hình 2). Kết quả này
khẳng định việc chuyển đổi TĂCB cho lươn từ ngày
tuổi thứ 35 thì tỉ lệ sống của lươn đạt rất tốt.
Quan sát lươn sử dụng TĂCB trong thời gian thí
nghiệm cho thấy thức ăn chế biến dạng viên nổi có
kích thước nhỏ 0,4 mm đều nhau nên khi cho ăn
thức ăn phân bố đều trong nước tạo điều kiện cho
lươn có cơ hội bắt mồi tốt. Kết quả nghiên cứu này
tương tự như kết quả nghiên cứu của Lê Ngọc Diện
và cộng tác viên (2004) khi ương cá thát lát giống
công thức kết hợp thức ăn viên và thức ăn tươi sống
cho tỉ lệ sống và sinh trưởng tốt hơn. Đối với cá lóc
bông khi sử dụng thức ăn cá tạp cũng cho tỉ lệ sống
thấp hơn so với nghiệm thức sử dụng thức ăn chế
biến (Hien et al., 2017).
Hình 2. Tỉ lệ sống (%) của lươn ương
bằng thức ăn cá biển xay và thức ăn chế biến
3.2.3. Tăng trưởng
Kết quả thí nghiệm (Bảng 4) cho thấy nghiệm
thức TĂCB cho tăng trưởng chiều dài (12,4 cm)
tương đương với nghiệm thức thức ăn CBX, trong
khi khối lượng đạt 1,85 g ở nghiệm thức TĂCB nhỏ
hơn so với nghiệm thức thức ăn CBX 2,06 g. Tốc
độ tăng trưởng ở nghiệm thức TĂCB chậm hơn so
với thức ăn CBX chỉ 10 % về khối lượng và tương
đương về chiều dài cho thấy lươn đồng sử dụng tốt
thức ăn chế biến ở ngày tuổi thứ 35. Kết quả cho
thấy FCR (1,03) thấp nhất ghi nhận được ở nghiệm
thức cho ăn hoàn toàn TĂCB; khẳng định rằng việc
sử dụng TĂCB để ương lươn giống mang lại hiệu
quả và ổn định, trong khi sử dụng thức ăn CBX thì
FCR (3,02) cao (tính theo giá trị tươi). Như vậy khả
năng chuyển hóa thức ăn của lươn tốt ở nghiệm thức
sử dụng TĂCB. Tuy nhiên, vẫn còn có một ít lươn
chưa chấp nhận TĂCB, đây còn là hạn chế cần tiếp
tục nghiên cứu bổ sung một số chất cần thiết để làm
tăng khả năng sử dụng TĂCB cho ương lươn giống.
124
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Bả
ng
3
. M
ột
số
y
ếu
tố
m
ôi
tr
ườ
ng
n
ướ
c ư
ơn
g
lư
ơn
b
ằn
g
th
ức
ăn
cá
cá
b
iể
n
xa
y
và
th
ức
ăn
ch
ế b
iế
n
N
gh
iệ
m
th
ức
Yế
u
tố
m
ôi
tr
ườ
ng
Th
ời
g
ia
n
ươ
ng
Tu
ần
1
Tu
ần
2
Tu
ần
3
Tu
ần
4
Tu
ần
5
Tu
ần
6
Tu
ần
7
Tu
ần
8
Th
ức
ăn
]c
á
bi
ển
x
ay
N
hi
ệt
đ
ộ
(°
C)
Sá
ng
(7
h
)
27
,7
±
0
,1
3
26
,9
±
0
,2
0
25
,9
±
0
,1
8
27
,1
±
0
,3
0
27
,4
±
0
,1
0
26
,9
±
0
,2
0
26
,9
±
0
,2
3
27
,0
±
0
,0
7
Ch
iề
u
(1
5
h)
30
,4
±
0
,0
6
29
,8
±
0
,0
6
28
,5
±
0
,2
0
29
,9
±
0
,1
6
29
,9
±
0
,1
2
29
,8
±
0
,0
6
29
,9
±
0
,1
2
30
,1
±
0
,0
9
pH
Sá
ng
(7
h
)
7,
8
±
0,
06
7,
9
±
0,
03
7,
8
±
0,
03
7,
6
±
0,
10
7,
3
±
0,
08
7,
1
±
0,
03
7,
1
±
0,
05
7,
1
±
0,
02
Ch
iề
u
(1
5
h)
8,
0
±
0,
03
8,
0
±
0,
05
7,
9
±
0,
06
7,
8
±
0,
11
7,
7
±
0,
05
7,
6
±
0,
04
7,
5
±
0,
05
7,
4
±
0,
01
O
xy
(m
g/
L)
Sá
ng
(7
h
)
6,
2
±
0,
42
6,
3
±
0,
42
6,
4
±
0,
29
6,
3
±
0,
58
6,
2
±
0,
56
6,
1
±
0,
50
5,
8
±
0,
32
5,
6
±
0,
28
Ch
iề
u
(1
5
h)
6,
1
±
0,
34
6,
2
±
0,
33
6,
2
±
0,
38
6,
1
±
0,
53
6,
1
±
0,
55
5,
9
±
0,
37
5,
8
±
0,
34
5,
4
±
0,
20
TA
N
(m
g/
L)
0,
76
±
0
,4
0
0,
01
±
0
,0
0
0,
01
±
0
,0
0
0,
01
±
0
,0
0
0,
01
±
0
,0
0
0,
01
±
0
,0
0
0,
01
±
0
,0
0
0,
01
±
0
,0
0
N
-N
O
2-
(m
g/
L)
0,
63
±
0
,4
0
0,
70
±
0
,0
7
0,
77
±
0
,0
9
0,
90
±
0
,0
9
0,
83
±
0
,2
0,
90
±
0
,1
5
0,
97
±
0
,0
7
0,
94
±
0
,0
9
Th
ức
ăn
ch
ế b
iế
n
N
hi
ệt
đ
ộ
(°
C)
Sá
ng
(7
h
)
27
,6
±
0
,1
6
27
,5
±
0
,1
6
25
,8
±
0
,1
3
27
,4
±
0
,0
2
27
,3
±
0
,2
27
,0
±
0
,1
5
26
,8
±
0
,1
8
27
,0
±
0
,0
8
Ch
iề
u
(1
5
h)
30
,8
±
1
,2
9
30
,1
±
0
,2
4
28
,4
±
0
,1
5
30
,0
±
0
,0
9
29
,9
±
0
,1
29
,7
±
0
,1
3
29
,7
±
0
,0
7
29
,9
±
0
,0
5
pH
Sá
ng
(7
h
)
7,
6
±
0,
28
7,
3
±
0,
38
7,
3
±
0,
25
7,
2
±
0,
17
7,
2
±
0,
12
7,
1
±
0,
09
7,
1
±
0,
08
7,
0
±
0,
04
Ch
iề
u
(1
5
h)
7,
8
±
0,
19
7,
6
±
0,
23
7,
6
±
0,
20
7,
6
±
0,
14
7,
6
±
0,
16
7,
6
±
0,
12
7,
5
±
0,
03
7,
4
±
0,
02
O
xy
(m
g/
L)
Sá
ng
(7
h
)
6,
1
±
0,
37
6,
1
±
0,
36
6,
1
±
0,
38
6,
0
±
0,
48
5,
9
±
0,
42
5,
9
±
0,
48
5,
8
±
0,
38
5,
6
±
0,
32
Ch
iề
u
(1
5
h)
6,
0
±
0,
57
6,
1
±
0,
58
6,
2
±
0,
42
6,
2
±
0,
40
6,
2
±
0,
38
6,
0
±
0,
32
5,
9
±
0,
25
5,
8
±
0,
30
TA
N
(m
g/
L)
0,
75
±
0
,3
9
0,
00
7
±
0,
00
0,
00
3
±
0,
00
0,
00
3
±
0,
00
0,
00
7
±
0,
00
0,
00
4
±
0,
00
0,
00
7
±
0,
01
0,
05
±
0
,0
1
N
-N
O
2-
(m
g/
L)
0,
20
±
0
,4
8
0,
50
±
0
,0
0
0,
50
±
0
,0
0
0,
53
±
0
,0
7
0,
53
±
0
,0
7
0,
53
±
0
,0
7
0,
53
±
0
,0
7
0,
56
±
0
,1
3
125
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Bảng 4. Tăng trưởng của lươn ương
bằng thức ăn CBX và TĂCB
Tăng trưởng Thức ăn cá biển xay
Thức ăn
chế biến
Li (cm) 7,55 ± 0,00a 7,55 ± 0,00a
Lf (cm) 12,4 ± 0,21a 12,4 ± 0,46a
Lg (cm) 4,84 ± 0,21a 4,80 ± 0,46a
Wi (g/con) 0,42 ± 0,00a 0,42 ± 0,00a
Wf (g/con) 2,47 ± 0,03a 2,26 ± 0,09b
Wg (g/con) 2,06 ± 0,03a 1,85 ± 0,08b
SGRw (%/ngày) 3,24 ± 0,03a 3,04 ± 0,06b
FI (%/ngày)* 12,3 ± 0,42 3,95 ± 0,25
FCR* 3,02 ± 0,14 1,03 ± 0,07
Số lươn giống
thu hoạch (con) 109,2 ± 2,86
b 113,8 ± 1,64a
Ghi chú: Li: chiều dài đầu; Lf: chiều dài cuối; Lg: tăng
chiều dài; Wi: khối lượng đầu; Wf: khối lượng cuối; Wg:
tăng khối lượng; SGRw: tăng trưởng tương đối về khối
lượng; FI: lượng thức ăn ăn vào; FCR: hệ số tiêu tốn thức
ăn; *: không so sánh thống kê.
Số liệu thể hiện giá trị trung bình ± độ lệch
chuẩn; Số liệu trong cùng một hàng mang chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05).
3.2.4. Tỉ lệ phân đàn của lươn
Kết quả phân đàn (Hình 3) cho thấy tỉ lệ lươn
giống có kích thước lớn > 3 g và trung bình 1,5 - 3 g ở
nghiệm thức TĂCB đạt 87,2%, thể hiện tăng trưởng
lươn giống rất tốt khi sử dụng TĂCB. Tuy nhiên tỉ
lệ lươn giống có kích cỡ nhỏ hơn 1,5 g ở nghiệm
thức TĂCB chiếm 12,8% và nghiệm thức thức ăn
CBX 8,5%, cho thấy khi chuyển đổi TĂCB vẫn còn
một tỉ lệ nhất định lươn chưa tiêu hóa tốt TĂCB,
mặc dù không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống nhưng sinh
trưởng chậm. Kết quả này cũng được ghi nhận khi
chuyển đổi TĂCB ở cá lóc bông (Hien et al., 2017),
cá thát lát còm (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn
Hương Thùy, 2008), cá lóc đen (Ngô Minh Dung,
2010). Nghiên cứu của Abol-Munafi và cộng tác viên
(2004) khi sử dụng các loại thức ăn khác nhau ương
cá lóc, mặc dù TĂCB có hàm lượng đạm thích hợp
và các chất khoáng thiết yếu, nhưng ấu trùng cá lóc
sinh trưởng chậm, tác giả cho rằng thói quen ăn mồi
sống của loài là nguyên nhân chính dẫn đến một số
con không sử dụng được TĂCB trong giai đoạn đầu.
Hình 3. Tỉ lệ (%) phân đàn của lươn ương từ 25 đến 75 ngày tuổi
bằng thức ăn cá biển xay và thức ăn chế biến
3.2.5. Chi phí thức ăn
Chi phí thức ăn ương lươn giống từ 25 đến 75
ngày tuổi bằng TĂCB là 54,5 đồng/lươn giống, rẻ
hơn gấp 7 lần so với thức ăn CBX là 344,5 đồng/lươn
giống (Hình 4). Việc sử dụng TĂCB trong quá trình
ương nuôi nhiều loài cá đã được chứng minh như
nghiên cứu trên cá lóc (Nguyễn Hoàng Hùy, 2011),
cá thát lát còm (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2014),
TĂCB không chỉ giảm giá thành mà còn chủ động
về nguồn thức ăn và ổn định; bên cạnh đó vấn đề về
môi trường nước, mầm bệnh trong quá trình ương
khi sử dụng thức ăn CBX luôn tiềm ẩn rủi ro.
Hình 4. Chi phí thức ăn (đồng/lươn giống)
ương lươn giống từ 25 đến 75 ngày tuổi
bằng thức ăn cá biển xay và thức ăn chế biến
126
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
IV. KẾT LUẬN
Lươn giai đoạn bột có khả năng sử dụng TĂCB
trong quá trình ương; thời điểm thích hợp để bắt đầu
tập ăn TĂCB là 35 ngày sau khi nở; việc chuyển đổi
TĂCB cho tỉ lệ sống cao, giảm ô nhiễm môi trường
nước và giảm chi phí thức ăn.
LỜI CẢM ƠN
Đây là kết quả thực hiện đề tài cấp Bộ, mã số đề
tài B2017-TCT-23ĐT. Nhóm tác giả xin chân thành
cảm ơn sự hỗ trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cảm
ơn các em sinh viên lớp Nuôi trồng thủy sản khóa 40
đã hỗ trợ chăm sóc thí nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Ngọc Diện, Phan Văn Thành, Mai Bá Trường Sơn
và Trịnh Thu Phương, 2006. Nghiên cứu ương
giống và nuôi thương phẩm cá thát lát (Notopterus
notopterus Pallas). Tạp chí Khoa học, Trường Đại học
Cần Thơ, 79-85.
Ngô Minh Dung, 2010. Nghiên cứu phương thức thay
thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa
striata). Luận văn Cao học. Khoa Thủy sản. Đại học
Cần Thơ.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008.
Khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá còm
(Chitala chitala) giai đoạn bột lên giống. Tạp chí
Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 1: 134-140.
Trần Thị Thanh Hiền, Lam Mỹ Lan, Trần Lê Cẩm Tú,
2014. Nghiên cứu xây dựng công thức thức ăn cho
cá thát lát còm (Chitala chitala) trong giai đoạn nuôi
thương phẩm. Đề tài cấp Bộ GD và ĐT. 109 trang.
Nguyễn Hoàng Huy, 2011. Đánh giá khả năng sử dụng
thức ăn chế biến nuôi cá lóc (Channa striata) thương
phẩm. Luận văn cao học. Ngành Nuôi trồng thủy
sản. Đi học Cần Thơ.
Nguyễn Văn Triều, Dương Nhật Long và Nguyễn
Anh Tuấn, 2008. Nghiên cứu ương giống cá kết
(Micronema bleekeri) bằng các loại thức ăn khác
nhau. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 2:
67-75.
Abol-Munafi, B.A., T.M. Bui, M.A. Ambak and P.
Ismail, 2004. Effect of different diets on growth and
survival rates of snakehead (channa striata Bloch,
1797) larvae.
Alves Jr, T.T., V.R. Cerqueira and J.A. Brown, 2006.
Early weaning of fat snook.
Appelbaum, S. and P. Van Damme, 1988. The feasibility
of using exclusively artificial dry feed for the rearing
of Israeli Clarias gariepinus (Burchell, 1822) larvae
and fry. J. Appl. Ichthyol., 4: 105-110.
Bergot P., N. Charlon, H. Durante, 1986. The effect of
compound diets feeding on growth and survival of
coregonid larvae. Arch. Hydrobiol. Beich., 22: 265-272.
Cahu, C.L. and J.Z. Infante, 2001. Substitution of
live food by formulated diets in marine fish larvae.
Aquaculture, 200: 161-18 (Centropomus parallelus
Poey 1864) larvae. Aquaculture, 253: 334-342.
Charlon N., H. Durante, A. M. Escaffre, P. Bergot,
1986. Alimentation artificielle des larves de carpe
(Cyprinus carpio L.). Aquaculture, 54: 83-88.
Cuvier-Peres, A. and P. Kestemont, 2002. Development
of some digestive enzymes in Eurasian perch larvae
Perca fluviatilis. Fish physiology & biochemistry, 24(4):
279-285.
De Silvar, S.N. and T.A. Anderson, 1997. Fish nutrition
in aquaculture.
Hamlin, H.J. and L.J. Kling, 2001. The culture and
early weaning of larval haddock (Melanogrammus
aeglefinus) using a microparticulate diet.
Aquaculture, 201: 61-72.
Hart, P.R. and G.J. Purser, 1996. Weaning of hatchery-
reared greenback lounder (Rhombosolea tapirina
Gunther) from live to artificial diets: Effects of age
and duration of the changeover period. Aquaculture,
145: 171-181.
Hien, T.T.T, T.L.C. Tu, B.M. Tam, D.A. Bengston,
2017. Weaning methods using formulated feeds for
snakehead (Channa striata and Channa micropeltes)
larvae. Aquaculture research, 48: 4774-4782.
Legendre, M., Kerdchuen, N., Corraze, G. and P.
Bergot, 1995. Larval rearing of an African catfish
heterobranchus longifilis (Teleostei, Clariidae):
Effect of dietary lipids on growth, survival and fatty
acid composition of fry. Aquatic living resources,
8(40): 355-363.
Ostaszewska, T., K. Dabrowski, K. Czuminska,
W. Olech and M. Olejniczak, 2005. Rearing of
pike-perch larvae using formulated diets, first
success with starter feeds. Aquaculture Research, 36:
1167-1176.
Stroband, H.W.J and K. Dabrowski, 1981.
Morphological and physiological aspects of the
digestive system and feeding in freshwater fish larvae,
in nutrition des poisons (ed. Fontaine), CNRS, Paris,
pp. 355-378.
Verreth, E.H. Eding, 1993. A Review of Feeding
Practices, Growth and Nutritional Physiology
in Larvae of the Catfishes Clarias gariepinus and
Clarias batrachus. Journal of the world aquaculture
society, 24(2): 135-144.
Walford, J and T. J. Lam, 1993. Development of digestive
tract and proteolic enzyme activity in seabass
(Lates calcarifer) larvae and juveniles. Aquaculture,
109: 187-205.
127
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019
Determination of weaning time for effective use
of formulated feed in rearing Asian swamp eel larvae
Tran Thi Thanh Hien, Pham Thanh Liem,
Pham Minh Duc, Nguyen Thanh Hieu, Lam My Lan
Abstract
This study was conducted to determine the time for effective use of formulated feed in rearing Asian swamp
eel (Monopterus albus) larvae. The experiment 1 consisted of 5 different times (20, 25, 30, 35 and 40 days
post-hatched) of using formulated feed and 1 control treatment (Moina, worm and marine-fish meat) with
3 replications. 1-day-old eel was allocated on 18 plastic trays (20L of water) with stocking density of 150 individuals/tray;
the experiment lasted for 60-days. The results showed that the growth of eel in the formulated feed treatments
were lower than that in the control treatment; however, the survival rate in the treatment of weaning at the
35 days, the difference was not statistically significant compared to the control (p>0.05). The experiment 2 was
set up to compare the weaning of marine-fish meat to formulated feed on 35th day. The results showed that the
survival rate of marine-fish meat treatment and formulated feed treatment was 92 and 94%, respectively. The
growth was 10% lower than that of formulated feed treatment; however, the cost of feed for breeding eel breeds by
formulated feed (54.5 VND/individual) was 7 times lower and was statistically significant (P<0.05) compared to
marine-fish meat (344.5 VND/individual).
Keywords: Eel, Monopterus albus, weaning, formulated feed
Ngày nhận bài: 15/1/2019
Ngày phản biện: 21/1/2019
Người phản biện: TS. Trần Thị Bé
Ngày duyệt đăng: 14/2/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
xac_dinh_thoi_diem_chuyen_doi_thuc_an_che_bien_phu_hop_trong.pdf