Mối liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và
hiệu quả phục hồi.
Những BN được châm cứu theo công thức
huyệt tại chỗ có kết quả tốt 88,9% so với 66,7%
ở những BN được châm cứu theo công thức
huyệt tại chỗ + đường kinh. BN được châm
theo công thức tại chỗ thì hiệu quả phục hồi
tốt gấp 4 lần BN được châm theo công thức
huyệt tại chỗ + đường kinh. Khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05).
Kết quả này phù hợp với công trình của
Nguyễn Văn Tánh, Lưu Thị Hiệp (8). Đồng thời
cũng góp phần củng cố quan điểm “vị trí tổn
thương của khẩu nhãn oa tà hệ thống kinh cân”
khi (a) không có triệu chứng ngoại cảm toàn
thân, (b) có xuất hiện đau ở huyệt hội của kinh
cân tương ứng với tần suất đáng quan tâm, và (c)
đáp ứng tốt với điều trị kinh điển của châm cứu
cho bệnh lý kinh cân (sử dụng chỉ huyệt tại chỗ).
Tuy nhiên, phải còn tiếp tục nghiên cứu
thêm để loại bỏ yếu tố tham gia của các phương
tiện trị liệu khác (như đã bàn luận ở trên).
Các huyệt tại chỗ được sử dụng trong điều trị
Huyệt tại chỗ gồm: Toản trúc, Dương bạch,
Ấn đường, Thái dương, Nghinh hương, Địa
thương, Giáp xa, Hạ quan, Nhân trung, Thừa
tương, Quyền liêu, Đầu duy, Thính cung, là
những huyệt nằm trên các đường kinh dương ở
vùng mặt. Đây là điều thú vị rất cần nghiên cứu
thêm. Theo học thuyết kinh lạc, hệ thống kinh
cân không có huyệt riêng của chúng. Trong khi
đó những huyệt sử dụng đều là huyệt trên
đường kinh. Nhận xét này có thể do: (a) khẩu
nhãn oa tà không thực sự là bệnh của kinh Cân
(b) khẩu nhãn oa tà thực sự là bệnh của kinh cân
nhưng vì kinh cân có lộ trình đa phần sát và
trùng với kinh chính nên các thầy thuốc có hiểu
lầm a thị huyệt của kinh cân là các huyệt nói
trên. Qui trình khảo sát trong lần nghiên cứu này
chưa làm rõ được yếu tố này và sẽ được quan
tâm trong thời gian tới.
Mối liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và
hiệu quả phục hồi ở nhóm BN có TC đau ở
hội của kinh cân.
Trên 68 BN có TC đau ở hội của kinh cân,
được châm theo công thức tại chỗ có tỷ lệ tốt
98% so với 88,5% ở những BN được châm theo
công thức huyệt tại chỗ + đường kinh. Tuy
nhiên, sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý
nghĩa thống kê (Fisher’s > 0,05). Kết quả này rất
phù hợp và củng cố nhận xét của người xưa khi
tổng kết trong Linh Khu về vai trò của kỹ thuật
châm cứu và huyệt tại chỗ trong bệnh lý kinh
cân (11). Nhận định này, nếu được khẳng định
chắc chắn sau khi loại được các yếu tố gây nhiễu
ở trên đã bàn, chắc chắn sẽ góp phần rất cụ thể
trong việc chỉ định điều trị cụ thể bệnh lý kinh
cân (nói chung) và khẩu nhãn oa tà (nói riêng).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định vị trí tổn thương của chứng hậu khẩu nhãn oa tà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 30
XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ TỔN THƯƠNG CỦA CHỨNG HẬU KHẨU NHÃN OA TÀ 
Võ Thị Xuân Uyên∗, Phan Quan Chí Hiếu∗∗ 
TÓM TẮT 
Tổng quan và Mục tiêu: Khẩu nhãn oa biểu hiện trên lâm sàng với miệng mắt nhắm không kín, miệng méo 
xệch. Khẩu nhãn oa tà thường dễ gặp nhất trong liệt VII ngoại biên của Y học hiện đại. Theo kinh điển y học cổ 
truyền (YHCT), nguyên nhân bệnh gồm ngoại tà bên ngoài xâm nhập vào các kinh dương ở đầu mặt hoặc do 
thương chấn làm khí huyết ở các lạc mạch vùng đầu mặt bị cản trở, tắc lại mà thành bệnh. Nghiên cứu này được 
tiến hành nhằm trả lời câu hỏi loại kinh nào ở đầu mặt bị tổn thương trong chứng trạng khẩu nhãn oa tà. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, đa trung tâm, từ 25/9/2012 – 30/6/2013. Khảo sát 
trên BN có khẩu nhãn oa tà với các biến số: liệt VII ngoại biên, TC ngoại cảm, TC tạng phủ, TC đau ở huyệt hội 
kinh cân, công thức huyệt tại chỗ, công thức tại chỗ + đường kinh (TC+ĐK), kỹ thuật châm cứu, kết quả điều trị. 
Số liệu được xử lý bằng SPSS 16.0. 
Kết quả: 111/ 111 khẩu nhãn oa tà là liệt VII ngoại biên, 95,5% không có TC ngoại cảm, 91% BN không có 
TC tạng phủ, 61,3% có biểu hiện đau ở huyệt hội của các kinh cân dương. Công thức huyệt tại chỗ phục hồi tốt 
gấp 4 lần châm theo công thức huyệt tại chỗ + đường kinh (P<0,05). 
Kết luận: Khảo sát trên 111BN đã gợi ý cho vị trí tổn thương của chứng khẩu nhãn oa tà là ở kinh cân. Tuy 
nhiên, phải tiếp tục cho đủ cỡ mẫu và loại bỏ những yếu tố gây nhiễu. 
Từ khóa: Khẩu nhãn oa tà, triệu chứng ngoại cảm, triệu chứng tạng phủ, triệu chứng đau ở hội kinh cân, 
huyệt tại chỗ, huyệt tại chỗ + đường kinh. 
ABSTRACT 
DETERMINING THE DISEASED LOCATION BY TRADITIONAL MEDICINE 
OF KHAU NHAN OA TA 
Vo Thi Xuan Uyen, Phan Quan Chi Hieu 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 – 2014: 30 - 37 
Background and Objectives: “Khau nhan oa ta” manifested with difficulty talking, inability to express 
emotion, difficulty eating or drinking, drooling. The symptoms of “Khau nhan oa ta” are easily seen in peripheral 
facial paralysis. By traditional medicine (TM) theory, the disease is caused by invasion of external pathogens or 
trauma leading to stagnation of blood and qi of yang meridians of the head and face. This study is conducted to 
answer the question which meridian of the face are damaged in “Khau nhan oa ta”. 
Materials & Methods: Prospective cross sectional, multicentre study from 25/9/2012 – 30/6/2013, on 111 
cases of “Khau nhan oa ta”. Variables: peripheral facial paralysis, external symptoms, internal symptoms, pain 
threshold at convergence point of yang tendinous meridians, local point formula, local point formula + distant 
point (L+D), technic of acupuncture, good result of motor recovery. Data analysed by SPSS 16.0. 
Results: 111/111 “Khau nhan oa ta” are peripheral facial paralysis, 95.5% with no manifestations of 
external symptoms; 91% with no internal symptoms; 61.3% presented with low pain threshold at convergence 
point of yang tendinous meridians. Local point formula showed better motor recovery than, local point formula + 
distant point (4 fold higher) (P<0.05). 
∗Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Đồng Tháp 
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Phan Quan Chí Hiếu ĐT: 0934988644 Email: pqchihieu@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 31
Conclusion: A descriptive study on 111 patient has suggested tendinous meridians of the face are the 
diseased sites of “Khau nhan oa ta” by traditional medicine. A bigger size and confounders are needed to be in 
consideration in the next step of this investigation. 
Key words: “Khau nhan oa ta”, external symptoms, internal symptoms, pain threshold at convergence point 
of yang tendinous meridians, local point formula, local point formula + distant point (L+D). 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khẩu nhãn oa tà biểu hiện trên lâm sàng với 
miệng mắt nhắm không kín, miệng méo xệch. 
Khẩu nhãn oa tà thường dễ gặp nhất trong liệt 
VII ngoại biên của Y học hiện đại. Theo kinh 
điển y học cổ truyền (YHCT), nguyên nhân bệnh 
gồm ngoại tà bên ngoài xâm nhập vào các kinh 
dương ở đầu mặt hoặc do thương chấn làm khí 
huyết ở các lạc mạch vùng đầu mặt bị cản trở, tắc 
lại mà thành bệnh (7,14). Cũng theo lý luận YHCT, 
bình thường tại vùng đầu mặt, có nhiều kinh lạc 
tuần hành. Đó là các kinh chính dương, các kinh 
cân dương (11).Những tài liệu nói trên cũng chưa 
đề cập cụ thể đến kinh cân hay kinh chính bị ảnh 
hưởng khi có khẩu nhãn oa tà. 
Câu hỏi nghiên cứu đặt ra là loại kinh nào ở 
đầu mặt bị tổn thương trong chứng trạng khẩu 
nhãn oa tà. Giải thích được câu hỏi trên sẽ góp 
phần (a) vào sự hiểu biết những quan niệm kinh 
cân, kinh chính của châm cứu (b) vào việc chỉ 
định trị liệu bằng châm cứu chính xác hơn. Đó là 
huyệt sử dụng và kỹ thuật châm cứu trong điều 
trị bệnh kinh cân và bệnh của kinh chính rất 
khác nhau. Nghiên cứu này được tiến hành với 
các mục tiêu xác định: 
- Tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng ngoại cảm 
(biểu chứng) trên bệnh nhân (BN) có chứng 
khẩu nhãn oa tà. 
- Tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng tạng phủ 
tương ứng với cơ chế bệnh sinh YHCT của 
chứng khẩu nhãn oa tà. 
- Tỷ lệ xuất hiện dấu chứng đau ở huyệt hội 
các kinh cân dương trên BN có chứng khẩu nhãn 
oa tà. 
- Tỷ lệ phục hồi của chứng khẩu nhãn oa tà 
với 2 công thức huyệt tại chỗ và công thức huyệt 
tại chỗ + đường kinh. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang, tiền cứu. Thực hiện tại bệnh 
viện YHCT Đồng Tháp, Viện YDHDT TP. HCM, 
bệnh viện YHCT Bình Dương, Khoa YHCT bệnh 
viện đa khoa Đà Nẵng. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chí chọn bệnh nhân 
Thời gian mắc bệnh: Không giới hạn. 
Không phân biệt nam nữ, nghề nghiệp, lứa 
tuổi. 
Được chẩn đoán khẩu nhãn oa tà (theo 
YHCT) với miệng méo lệch, mắt nhắm không 
kín, mặt bị lệch về bên đối diện, mất nếp nhăn 
trên trán. 
Các biến số theo dõi và định nghĩa các biến số 
Liệt VII ngoại biên (theo YHHĐ): Mất nếp 
nhăn trán, mất nếp mũi má. Mắt nhắm không 
kín: Charles – Bell (+). Mất vị giác 2/3 trước lưỡi. 
Thời gian điều trị 
Thời gian bắt đầu được điều trị đến thời gian 
ngưng điều trị (bệnh nhân tự ý không đến hoặc 
thầy thuốc cho phép ngưng điều trị. 
Triệu chứng ngoại cảm (4,6,) 
* Triệu chứng chính: Sốt: nhiệt độ cơ thể > 37, 
5 0C 
* Triệu chứng phụ: Cảm giác sợ lạnh, nhức 
đầu, nhức mình, cổ gáy cứng đau. 
Có 2 giá trị: 
- Có: Khi BN có một triệu chứng chính và ít 
nhất một triệu chứng phụ. 
- Không: Khi BN không có đủ một triệu 
chứng chính và ít nhất một triệu chứng phụ. 
Triệu chứng tạng phủ có liên quan (của đường 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 32
kinh chính dương)(3, 12): 
- Túc Dương Minh Vị: Than đau quặn 
bụng, nôn mửa. 
- Thủ Dương Minh Đại Trường: Tiêu chảy 
(đi tiêu phân lỏng và >2 lần/ngày) hay có táo bón 
(đi tiêu phân khô cứng >2 ngày/lần). 
- Túc Thiếu Dương Đởm: Cảm giác đắng 
miệng, buồn nôn. 
- Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu: Đau cứng cơ 
vùng mu bàn tay, mặt sau cẳng tay, mặt sau 
cánh tay, vai, cổ, lan đến góc hàm (Giáp xa), 
trước tai, khóe mắt ngoài. 
- Túc Thái Dương Bàng Quang: Tiểu gắt, 
tiểu đau. 
- Thủ Thái Dương Tiểu Trường: Tiểu nhiều 
lần, sôi ruột, tiêu chảy (tiêu phân lỏng ≥ 2 
lần/ngày). 
Có 2 giá trị: 
- Có: Khi bệnh nhân có đầy đủ triệu chứng 
tạng phủ của ít nhất một đường kinh. 
- Không: Khi BN không có đủ triệu chứng 
tạng phủ của ít nhất một đường kinh. 
Triệu chứng đau ở hội của kinh Cân (9, 11, 13). 
 - Khảo sát ngưỡng đau (tính bằng Newton) 
tại huyệt Quyền liêu và Đầu duy bên lành và 
bên bệnh. Ngưỡng đau được đánh giá với dụng 
cụ khám cảm giác đau PAIN TEST – FPIX AL 
GOMETER của công ty WARNER 
INSTRUMENTS – USA. So sánh ngưỡng đau ở 
hội huyệt bên lành và bên bệnh. 
Có 2 giá trị: 
- Có: Ngưỡng đau bên bệnh thấp nhiều 
hơn 0,06 Newton∗ so với bên lành ở một trong 2 
huyệt Quyền liêu và Đầu duy. 
- Không: Ngưỡng đau bên bệnh cao hơn, 
không thay đổi hoặc thấp ít hơn 0,06 Newton∗ so 
với bên lành ở một trong 2 huyệt Quyền liêu và 
Đầu duy. 
Công thức huyệt tại chỗ (TC). 
* Những huyệt tại chỗ là những huyệt ở ½ 
vùng mặt bị bệnh gồm: Toản trúc, Dương bạch, 
Ấn đường, Thái dương, Nghinh hương, Địa 
thương, Giáp xa, Hạ quan, Nhân trung, Thừa 
tương, Quyền liêu, Đầu duy, Thính cung. 
 Có 2 giá trị: 
- Có: có từ một huyệt nêu ở trên trở lên trong 
công thức châm và không có huyệt ở nơi khác). 
- Không có huyệt tại chỗ kèm với huyệt ở tay 
hoặc chân. 
Công thức huyệt tại chỗ + huyệt theo đường 
kinh (TC + ĐK). 
Các huyệt theo đường kinh bao gồm: 
- Túc Dương Minh Vị: Phong long, Lương 
khâu, Lệ đoài, Nội đình, Hãm cốc, Giải khê, Túc 
tam lý. 
- Thủ Dương Minh Đại Trường: Thiên lịch, 
Ôn lưu, Hợp cốc, Thương dương, Nhị gian, Tam 
gian, Dương khê, Khúc trì. 
- Túc Thiếu Dương Đởm: Quang minh, 
Ngoại khâu, Khiếu âm, Hiệp khê, Lâm khấp, 
Dương phụ, Dương lăng. 
- Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu: Ngoại quan, 
Hội tông, Quan xung, Dịch môn, Trung chữ, Chi 
câu, Thiên tỉnh 
- Túc Thái Dương Bàng Quang: Phi dương, 
Kim môn, Chí âm, Thông cốc, Thúc cốt, Côn lôn, 
Uỷ trung. 
- Thủ Thái Dương Tiểu Trường: Chi chính, 
Dưỡng lão, Thiếu trạch, Tiền cốc, Hậu khê, 
Dương cốc, Tiểu hải. 
Có 2 giá trị: 
- Có: Có ít nhất một huyệt tại chỗ và ít nhất 
một huyệt thuộc danh sách trên. 
- Không: Không có huyệt thuộc danh sách 
trên. 
Kỹ thuật châm: 
Có 2 giá trị: 
- Đúng: Khi đạt đúng tất cả kỹ thuật sau: 
Mỗi lần châm không quá 10 huyệt. 
Châm kèm theo cứu nóng hoặc soi đèn hồng 
ngoại. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 33
Ngày châm 1 lần, thời gian lưu kim: 20 phút. 
- Không đúng: khi không đủ hoặc không 
đúng các kỹ thuật trên. 
Kết quả sau điều trị (5) 
Có 2 giá trị: 
- Tốt: từ 60 điểm trở lên theo xếp loại của 
bảng khám vận động MacMey cải tiến (khá, tốt). 
- Không tốt: dưới 60 điểm theo xếp loại của 
bảng khám vận động MacMey cải tiến (trung 
bình, kém). 
Phương pháp thu nhập và xử lý số liệu 
Số liệu được xử lý với SPSS 16.0 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm của bệnh nhân trong mẫu nghiên 
cứu. 
Tổng cộng có 111 trường hợp khẩu nhãn oa 
tà được theo dõi, gồm 44 nam, 67 nữ. Độ tuổi 
trung bình: 39,54 ± 1,62. Bệnh nhân trẻ nhất: 2 
tuổi. Lớn tuổi nhất: 73 tuổi. 
Tất cả 111 bệnh nhân (BN) đều có đầy đủ 
tiêu chuẩn của liệt 7 ngoại biên. 
Charles Bell (+) 111/111. 
Miệng méo lệch 111/111. 
Mất vị giác 2/3 trước lưỡi: 111/111. 
Thời gian điều trị trung bình của 111 liệt 7 
ngoại biên: 19,6 ± 0,26 ngày. 
Tất cả 111 trường hợp đều do thầy thuốc 
quyết định ngưng điều trị. Không có trường hợp 
tự ý ngừng điều trị. 
Bảng 1. Đặc điểm của bệnh nhân trong mẫu nghiên 
cứu. 
Biến số Không Có Phép kiểm 
Liệt 7 ngoại biên 
0 
0% 
111 
100% 
Triệu chứng ngoại cảm 
106 
95,5% 
5 
4,5% 
X2 = 91,9 
P = 0,000 
Triệu chứng tạng phủ 
101 
91% 
10 
9% 
X2 = 74,6 
P = 0,000 
Triệu chứng đau ở huyệt 
hội 
43 
38,7% 
68 
61,3% 
X2 = 5,63 
P = 0,018 
Công thức tại chỗ 48 63 X2 = 2,02 
Biến số Không Có Phép kiểm 
43,2% 56,8% P = 0,15 
Châm đúng kỹ thuật 
12 
10,8% 
99 
89,2% 
X2 = 68,18 
P = 0,000 
Kết quả tốt 
88 
79,3% 
23 
20,7% 
X2 = 38,06 
P = 0,000 
Nhận xét: Quan sát trên 111BN có chứng 
trạng khẩu nhãn oa tà có 100% liệt 7 ngoại biên, 
4,5% có triệu chứng (TC) ngoại cảm, 95,5% 
không có TC ngoại cảm; 9% có TC tạng phủ, 91% 
không có TC tạng phủ; 61,3% có TC đau ở huyệt 
hội kinh cân dương, 38,7% không có TC đau ở 
huyệt hội kinh cân dương; có 43,2 % được châm 
theo công thức TC + ĐK, 56,8% BN châm theo 
công thức tại chỗ; 89,2 % BN châm cứu đúng kỹ 
thuật, 10,8% châm không đúng kỹ thuật; sau 
điều trị có 79,3% đạt kết quả tốt, 20,7% đạt kết 
quả không tốt. (P <0,05). 
Khảo sát những yếu tố có liên quan đến 
hiệu quả phục hồi sau châm cứu 
Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và hiệu 
quả phục hồi. 
Bảng 2. Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và 
hiệu quả phục hồi. 
Xếp loại sau 
điều trị 
Công thức 
tại chỗ (TC) 
Công thức huyệt 
tại chỗ + đường 
kinh (TC + ĐK) 
Tổng 
Tốt 
56 
88,9% 
32 
66,7% 
88 
79,3% 
Không tốt 
7 
11,1% 
16 
33,3% 
23 
20,7% 
Tổng 
63 
100% 
48 
100% 
111 
100% 
Tỉ số số chênh 
OR (Odds ratio) 
4 
KTC 95% 
1,48-10,75 
P = 0,004 
Nhận xét: BN được điều trị bằng công thức 
huyệt tại chỗ phục hồi tốt gấp 4 lần BN được 
điều trị bằng công thức huyệt tại chỗ và huyệt 
theo đường kinh (P < 0,05). 
Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và hiệu 
quả phục hồi ở nhóm BN không có triệu chứng 
ngoại cảm. 
Ở nhóm không có TC ngoại cảm thì điều trị 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 34
bằng công thức tại chỗ phục hồi tốt gấp 3,9 lần so 
với điều trị bằng công thức khác (P < 0,05). 
Bảng 3. Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và 
hiệu quả phục hồi ở nhóm BN không có triệu chứng 
ngoại cảm. 
Xếp loại sau điều 
trị 
Công thức tại 
chỗ (TC) 
Công thức 
huyệt TC + ĐK 
Tổng 
Tốt 
56 
90,3% 
31 
70,5% 
87 
82,1% 
Không tốt 
6 
9,7% 
13 
29,5% 
19 
17,9% 
Tổng 
62 
100% 
44 
100% 
106 
100% 
Tỉ số số chênh 
OR (Odds ratio) 
3,9 
KTC 95% 
1,35 – 11,32 
P=0,009 
Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và hiệu 
quả phục hồi ở nhóm BN không có triệu chứng 
tạng phủ. 
Bảng 4. Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và 
hiệu quả phục hồi ở nhóm BN không có triệu chứng 
tạng phủ. 
Xếp loại sau 
điều trị 
Công thức 
tại chỗ (TC) 
Công thức 
huyệt TC + ĐK 
Tổng 
Tốt 56 (90,3%) 31 (79,5%) 87 (86,1%) 
Không tốt 6 (9,7%) 8 (20,5%) 14 (13,9%) 
Tổng 62(100%) 39 (100%) 101 (100%) 
Tỉ số số 
chênh OR 
 P = 0,12 
Nhận xét: Ở nhóm BN không có TC tạng 
phủ được điều trị bằng công thức tại chỗ hay 
công thức TC + ĐK thì hiệu quả phục hồi như 
nhau (P > 0,05). 
Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và hiệu 
quả phục hồi ở nhóm BN không có triệu 
chứng ngoại cảm và tạng phủ. 
Ở nhóm BN không có TC ngoại cảm và 
không có TC tạng phủ được điều trị bằng công 
thức tại chỗ hay công thức TC + ĐK thì hiệu quả 
phục hồi như nhau (Fisher’s > 0,05). 
Bảng 5. Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và 
hiệu quả phục hồi ở nhóm BN không có triệu chứng 
ngoại cảm và tạng phủ. 
Xếp loại sau Công thức tại Công thức huyệt Tổng 
điều trị chỗ (TC) TC + ĐK 
Tốt 56 (90,3%) 31 (83,8%) 87 (87,9%) 
Không tốt 6 (9,7%) 6 (16,2%) 12 (12,1%) 
Tổng 
62 
100% 
37 
100% 
99 
100% 
Tỉ số số chênh 
OR 
Fisher’s = 
0,356 
Liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và hiệu 
quả phục hồi ở nhóm BN có triệu chứng đau ở 
hội của kinh cân. 
Bảng 6. Liên quan giữa điều trị bằng công thức huyệt 
tại chỗ và hiệu quả phục hồi ở nhóm BN có triệu 
chứng đau ở hội của kinh cân. 
Xếp loại sau 
điều trị 
Công thức 
tại chỗ 
Công thức 
huyệt TC + ĐK 
Tổng 
Tốt 
48 
98% 
17 
88,5% 
65 
95,6% 
Không tốt 
1 
2% 
2 
11,5% 
3 
4,4% 
Tổng 
49 
100% 
19 
100% 
68 
100% 
Tỉ số số chênh 
OR (Odds ratio) 
Fisher’s = 
0,18 
Nhận xét: Ở nhóm BN có TC đau ở huyệt 
hội của kinh cân được điều trị bằng công thức 
tại chỗ hay công thức TC + ĐK thì hiệu quả 
phục hồi như nhau (Fisher’s > 0,05). 
BÀN LUẬN 
Sự tương đồng giữa khẩu nhãn oa tà và 
liệt 7 ngoại biên của mẫu nghiên cứu. 
Khẩu nhãn oa tà, một danh xưng trong bệnh 
lý y học cổ truyền thường được nghĩ đến liệt 7 
ngoại biên theo y học hiện đại do có biểu hiện 
tương đồng. Kết quả của nghiên cứu này đã 
củng cố nhận định trên khí tất cả 100% trường 
hợp đều có đủ tiêu chuẩn của liệt 7 ngoại biên. 
Kết quả quan sát trong nghiên cứu này cũng 
ghi nhận tất cả 111 trường hợp đều mất vị giác 
2/3 trước lưỡi, cho thấy (a) vị trí tổn thương thần 
kinh mặt của 111 trường hợp liệt 7 ngoại biên 
trong nghiên cứu này ở đoạn trong xương đá (12), 
rất nhiều khả năng là liệt 7 ngoại biên nguyên 
phát (do không ghi nhận tiền căn chấn thương 
sọ não trước đó và không có sang thương ngoài 
da vùng Ramsay Hunt) và (b) bệnh mới xuất 
hiện gần đây (do dấu mất vị giác 2/3 trước lưỡi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 35
vẫn hiện diện). 
Sự phân bố BN theo triệu chứng ngoại cảm. 
Nghiên cứu cho thấy 106/ 111 (95,5%) trường 
hợp khẩu nhãn oa tà không có TC ngoại cảm 
biểu chứng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 
0,05). Kết quả này gợi ý khẩu nhãn oa tà dù có 
nguyên nhân từ bên ngoài xâm nhập biểu phận 
nhưng không có xuất hiện TC toàn thân (biểu 
chứng) như sốt, sợ lạnh, nhức đầu, nhức mình, 
cổ gáy cứng đau (3). 
Theo học thuyết kinh lạc, hệ thống các kinh 
cân cũng thuộc phần nông bên ngoài, phần biểu 
(13,11). Khi hệ thống kinh cân này bị tổn thương 
biểu hiện của chúng (có thay đổi tùy theo kinh 
cân nào bị bệnh) chủ yếu là biểu hiện cục bộ - tại 
chỗ như đau, tê, liệt(10). 
Kết quả nghiên cứu này làm nghĩ đến khả 
năng tổn thương kinh lạc trong khẩu nhãn oa tà 
là hệ thống kinh cân vùng đầu mặt. Tuy nhiên, 
do nghiên cứu này chưa thực sự làm rõ thời gian 
mắc bệnh nên dù giả định bệnh mới phát gần 
đây (khi ghi nhận mất vị giác 2/3 trước lưỡi vẫn 
còn hiện diện), quan điểm về chứng khẩu nhãn 
oa tà không có biểu hiện của biểu chứng toàn 
thân cần được tiếp tục tìm hiểu thêm. Và có đặc 
biệt chú ý thời gian mắc bệnh. 
Sự phân bố BN theo triệu chứng tạng phủ 
Theo lý luận YHCT, chứng khẩu nhãn oa 
tà xảy ra do ngoại tà xâm nhập làm khí huyết 
tắc trở ở hệ thống kinh lạc vùng đầu mặt (1). 
Vùng đầu mặt, là vùng có các kinh chính 
dương và các kinh cân dương tuần hành.Nếu 
kinh cân bị tổn thương thì biểu hiện chỉ ở bên 
ngoài, nếu kinh chính bị tổn thương thì biểu 
hiện sẽ bao gồm bên ngoài và bên trong (tạng 
phủ), do kinh chính có nhánh ngầm liên hệ 
đến chức năng tạng phủ bên trong(10). 
Trong nghiên cứu, có 91% BN không có TC 
tạng phủ và 9% có TC tạng phủ. Sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê. Kết quả này giúp củng cố 
thêm lý thuyết YHCT về nguyên nhân bệnh. Đó 
là ngoại tà hoặc thương chấn làm khí huyết ở các 
lạc mạch vùng đầu mặt bị cản trở. 
Sự phân bố BN theo TC đau ở huyệt hội 
của kinh cân. 
Trong 111 BN được nghiên cứu, có 68 BN có 
TC đau ở huyệt hội của kinh cân (61,3%) và 43 
BN không có TC đau ở huyệt hội (38,7%). Sự 
khác biệt về phân bố BN ở 2 nhóm có ý nghĩa 
thống kê (P < 0,05). 
Theo học thuyết kinh lạc, bệnh ở kinh cân sẽ 
có biểu hiện đau ở hội của kinh cân tương ứng 
và sẽ được phát hiện qua khám kinh lạc chẩn (10). 
Trong nghiên cứu này, việc khám kinh lạc được 
hỗ trợ thêm bởi dụng cụ khám đau cảm giác 
đau PAIN TEST – FPIX AL GOMETER ở huyệt 
hội của kinh cân đã giúp khách quan hóa việc 
đánh giá triệu chứng đau tốt hơn. 
Kết quả này cho thấy (a) nếu loại bỏ được 
yếu tố nhiễu về thời gian mắc bệnh, sẽ là triệu 
chứng quan trọng củng cố quan điểm khẩu nhãn 
oa tà là bệnh lý mà kinh cân vùng đầu mặt bị tổn 
thương và (b) với tần suất xuất hiện đến 61,3% sẽ 
giúp thêm một tiêu chí chẩn đoán YHCT có tính 
khách quan. 
Kết quả điều trị và những yếu tố liên quan 
Tỷ lệ thành công sau điều trị. 
Kết quả điều trị bằng châm cứu trong nghiên 
cứu này cho thấy 79,3% có kết quả tốt có ý nghĩa 
thống kê (P<0,05). Kết quả này cũng phù hợp với 
những công trình nghiên cứu trong nước cũng 
như trên thế giới là 52,7% - 84% (1, 2). 
Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa hoàn toàn 
kiểm soát được việc bệnh nhân có phối hợp 
thêm phương cách điều trị khác nên kết quả 
cũng có tính tương đối. Chỉ một số ít (04) bệnh 
nhi trẻ em thuần túy được điều trị bằng châm 
cứu. Đa số trường hợp có sử dụng kèm thuốc y 
học cổ truyền (thuốc thang). Để có thể loại được 
yếu tố gây nhiễu này, phải tiến hành phân tầng 
nhóm chỉ điều trị châm cứu và nhóm có dùng 
thêm phương pháp khác. Do số lượng bệnh 
nhân trong đợt nghiên cứu này còn ít nên việc 
phân tầng với số lượng nhỏ cũng sẽ không 
thuyết phục. Trong thời gian tiếp tục nghiên cứu 
sắp tới, với cỡ mẫu đủ lớn, đề tài sẽ tiếp tục khảo 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 36
sát vấn đề này. 
Mối liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và 
hiệu quả phục hồi. 
Những BN được châm cứu theo công thức 
huyệt tại chỗ có kết quả tốt 88,9% so với 66,7% 
ở những BN được châm cứu theo công thức 
huyệt tại chỗ + đường kinh. BN được châm 
theo công thức tại chỗ thì hiệu quả phục hồi 
tốt gấp 4 lần BN được châm theo công thức 
huyệt tại chỗ + đường kinh. Khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Kết quả này phù hợp với công trình của 
Nguyễn Văn Tánh, Lưu Thị Hiệp (8). Đồng thời 
cũng góp phần củng cố quan điểm “vị trí tổn 
thương của khẩu nhãn oa tà hệ thống kinh cân” 
khi (a) không có triệu chứng ngoại cảm toàn 
thân, (b) có xuất hiện đau ở huyệt hội của kinh 
cân tương ứng với tần suất đáng quan tâm, và (c) 
đáp ứng tốt với điều trị kinh điển của châm cứu 
cho bệnh lý kinh cân (sử dụng chỉ huyệt tại chỗ). 
Tuy nhiên, phải còn tiếp tục nghiên cứu 
thêm để loại bỏ yếu tố tham gia của các phương 
tiện trị liệu khác (như đã bàn luận ở trên). 
Các huyệt tại chỗ được sử dụng trong điều trị 
Huyệt tại chỗ gồm: Toản trúc, Dương bạch, 
Ấn đường, Thái dương, Nghinh hương, Địa 
thương, Giáp xa, Hạ quan, Nhân trung, Thừa 
tương, Quyền liêu, Đầu duy, Thính cung, là 
những huyệt nằm trên các đường kinh dương ở 
vùng mặt. Đây là điều thú vị rất cần nghiên cứu 
thêm. Theo học thuyết kinh lạc, hệ thống kinh 
cân không có huyệt riêng của chúng. Trong khi 
đó những huyệt sử dụng đều là huyệt trên 
đường kinh. Nhận xét này có thể do: (a) khẩu 
nhãn oa tà không thực sự là bệnh của kinh Cân 
(b) khẩu nhãn oa tà thực sự là bệnh của kinh cân 
nhưng vì kinh cân có lộ trình đa phần sát và 
trùng với kinh chính nên các thầy thuốc có hiểu 
lầm a thị huyệt của kinh cân là các huyệt nói 
trên. Qui trình khảo sát trong lần nghiên cứu này 
chưa làm rõ được yếu tố này và sẽ được quan 
tâm trong thời gian tới. 
Mối liên quan giữa công thức huyệt tại chỗ và 
hiệu quả phục hồi ở nhóm BN có TC đau ở 
hội của kinh cân. 
Trên 68 BN có TC đau ở hội của kinh cân, 
được châm theo công thức tại chỗ có tỷ lệ tốt 
98% so với 88,5% ở những BN được châm theo 
công thức huyệt tại chỗ + đường kinh. Tuy 
nhiên, sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý 
nghĩa thống kê (Fisher’s > 0,05). Kết quả này rất 
phù hợp và củng cố nhận xét của người xưa khi 
tổng kết trong Linh Khu về vai trò của kỹ thuật 
châm cứu và huyệt tại chỗ trong bệnh lý kinh 
cân (11). Nhận định này, nếu được khẳng định 
chắc chắn sau khi loại được các yếu tố gây nhiễu 
ở trên đã bàn, chắc chắn sẽ góp phần rất cụ thể 
trong việc chỉ định điều trị cụ thể bệnh lý kinh 
cân (nói chung) và khẩu nhãn oa tà (nói riêng). 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu, với thiết kế nghiên cứu mô tả 
cắt ngang, khảo sát đa trung tâm trên 111 BN có 
chứng khẩu nhãn oa tà từ 25/9/2012 đến 
30/6/2013, bước đầu cho thấy: 
- 111/ 111 khẩu nhãn oa tà có biểu hiện của 
liệt 7 ngoại biên. 
- Tỷ lệ khẩu nhãn oa tà có triệu chứng ngoại 
cảm là 4,5%, không có triệu chứng ngoại cảm là 
95,5%. 
- Tỷ lệ khẩu nhãn oa tà có triệu chứng tạng 
phủ là 9%, không có triệu chứng tạng phủ là 
91%. 
- Tỷ lệ khẩu nhãn oa tà có triệu chứng đau ở 
huyệt hội của kinh cân là 61,3%, không có triệu 
chứng đau ở huyệt hội của kinh cân là 38,7%. 
- Tỷ lệ đạt kết quả tốt sau điều trị là 79,3%, 
không tốt là 20,7%. Tỷ lệ phục hồi tốt ở nhóm BN 
được châm cứu theo công thức tại chỗ là 88,9% 
và ở nhóm BN châm huyệt tại chỗ + đường kinh 
là 66,7%. BN được châm theo công thức tại chỗ 
phục hồi tốt gấp 4 lần so với BN được điều trị 
bằng công thức huyệt tại chỗ + đường kinh. 
Kết quả nghiên cứu bước đầu gợi ý về vị trí 
tổn thương của chứng khẩu nhãn oa tà là ở kinh 
cân. Tuy nhiên, cần tiếp tục với cỡ mẫu lớn và bổ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 37
sung thêm việc loại trừ các yếu tố gây nhiễu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. He L., Zhou D., Wu B., Li N., Zhou MK (2004). Acupuncture for 
Bell’s Palsy. Cochrane database of systemic reviews. Issue 1. Art. 
N0 CD002914. 
2. Jiang XQ., Wang HT., Su XZ., Jiang YN (2005). Clinical 
observation on isolated electropuncture for treatment of 
peripheral facial paralysis. Zhangguo Zhen Jiu, 25 (9): pp. 657 - 
658. 
3. Ngô Anh Dũng (2008).Y lý Y Học Cổ Truyền. Nhà xuất bản Y 
Học Hà Nội, tr. 71 - 75. 
4. Nguyễn Tài Thu, Nghiêm Hữu Thành, Nguyễn Quốc Khoa, 
Nguyễn Viết Thái, Nguyễn Bá Quang (2004). Nghiên cứu tác 
dụng của điện châm điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên. 
Bách khoa thư bệnh học, tập 4. Nhà xuất bản Y Học Hà Nội, tr. 
194 - 201. 
5. Nguyễn Tấn Phong (1997). Điều trị liệt mặt. Nhà xuất bản Y học 
TP. HCM, tr. 7 - 22, 23 - 37. 
6. Nguyễn Thị Bay (2001). Nội khoa YHCT. NXB Y học TP. HCM, 
tr. 11 – 36, 97 – 174. 
7. Nguyễn Thị Lina (1998). "Liệt mặt nguyên phát”. Bài giảng Bệnh 
học và Điều trị, tập 2. Bộ môn Y Học Cổ Truyền – Đại học Y 
Dược TP. HCM, tr. 111 – 119. 
8. Nguyễn Văn Tánh, Lưu Thị Hiệp (2008). Hiệu lực của phác đồ 
châm cứu các huyệt tại chỗ trong điều trị liệt dây thần kinh , tập 
VII ngoại biên do lạnh. Tạp chí Y học TP. HCM, phụ bản 12, số 
4, tr. 28 - 34. 
9. Phan Quan chí Hiếu (1997). Bài giảng thần kinh sinh học và 
châm cứu. Đại học Y Dược TP. HCM, tr. 1 – 14. 
10. Phan Quan Chí Hiếu (2002). Châm cứu học. Nhà xuất bản Y 
Học TP. HCM, tập 2, tr.15 - 53, 99 - 111. 
11. Phan Quan Chí Hiếu (2002).Châm cứu học. Nhà xuất bản Y Học 
TP. HCM, tập 1, tr. 84 - 94, 101 - 103. 
12. Phan Quan Chí Hiếu (2007). Bệnh học và điều trị Đông Y. Nhà 
xuất bản Y Học Hà Nội, tr. 9 – 15, 68 – 96, 118 – 215. 
13. Phan Quan Chí Hiếu (2011). Chẩn đoán và điều trị các bệnh lý 
thuộc hệ kinh Cân – bệnh của phần mềm quanh khớp. Nhà xuất 
bản Y Học Hà Nội, tr. 11 - 19, 23 - 25. 
14. Viện nghiên cứu Trung Y (2008). Chẩn đoán phân biệt chứng 
Trạng trong Đông y. Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, tr.7 – 14, 
408 – 417. 
Ngày nhận bài báo : 28/09/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 14/10/2013, 
18/10/2013 
Ngày bài báo được đăng : 02/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 xac_dinh_vi_tri_ton_thuong_cua_chung_hau_khau_nhan_oa_ta.pdf xac_dinh_vi_tri_ton_thuong_cua_chung_hau_khau_nhan_oa_ta.pdf