Một số kiến nghị, đề xuất về xây dựng,
quản lý thương hiệu cộng đồng
Sự phát triển của thị trường nông
sản Việt Nam trong giai đoạn vừa
qua đã cho thấy vị trí, vai trò và
tiềm năng rất lớn của các sản phẩm
nông nghiệp với sự hỗ trợ của các
thương hiệu cộng đồng trong việc
đáp ứng các nhu cầu của người tiêu
dùng trong nước cũng như hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trước bối
cảnh sự phát triển của các thương
hiệu cộng đồng còn gặp nhiều khó
khăn, theo chúng tôi cần phải thực
hiện đồng bộ những giải pháp ở cấp
trung ương và địa phương để thúc
đẩy hoạt động xây dựng và quản lý
trong thời gian tới.
Ở cấp trung ương: Cục SHTT cần
tham mưu, kiến nghị Bộ KH&CN,
Chính phủ và Quốc hội để chỉnh
sửa, bổ sung, hoàn thiện khung
chính sách liên quan đến sở hữu
công nghiệp nói chung và các quy
định cụ thể về CDĐL, NHTT, NHCN
nói riêng nhằm giúp các địa phương
tổ chức hiệu quả các hoạt động xây
dựng và quản lý thương hiệu cộng
đồng.
Đối với các địa phương: cần
thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ giữa
ba ngành (KH&CN, NN&PTNT,
Công Thương) trên cơ sở Quy chế
phối hợp số 2222/QCPH-BKHCNBNNPTNT-BCT ngày 8/8/2018 về
xây dựng và quản lý CDĐL giữa Bộ
KH&CN, Bộ NN&PTNT, Bộ Công
Thương. Đặc biệt là cần có sự phối
kết hợp chặt chẽ trong việc phát
triển thương hiệu cộng đồng với
OCOP theo Quyết định số 490/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sự
phát triển các sản phẩm OCOP cần
dựa trên kết quả và có sự kế thừa,
kết nối của các hoạt động phát triển
thương hiệu cộng đồng, giải quyết
hài hòa mối quan hệ này để đảm
bảo giá trị, lợi ích của cộng đồng
đối với các thương hiệu được bảo hộ
của các chủ thể thương mại trong
cộng đồng.
Tăng cường công tác đào tạo,
nâng cao năng lực, trong đó cần xây
dựng và bổ sung các nội dung đào
tạo, tập huấn về quản trị và phát
triển thương hiệu trong các chương
trình tập huấn, nâng cao năng lực
cho các HTX, cán bộ quản lý HTX,
làng nghề, đào tạo nghề nông thôn.
Xác định năng lực quản trị và phát
triển thương hiệu nông sản là một
nội dung chính trong chương trình
đào tạo, nhằm thúc đẩy và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các HTX,
hội/hiệp hội, đặc biệt là năng lực
thương mại.
Đối với hoạt động xây dựng hồ sơ
đăng ký bảo hộ: việc lựa chọn hình
thức bảo hộ (CDĐL, NHTT, NHCN)
cần dựa trên điều kiện (quy mô, đặc
thù về sản phẩm, chất lượng.),
yêu cầu của từng hình thức bảo
hộ để quyết định. Đặc biệt là đối
với các CDĐL, sản phẩm được lựa
chọn cần có danh tiếng, chất lượng
đặc thù gắn với điều kiện của địa
phương, kỹ thuật truyền thống, dấu
hiệu được lựa chọn để bảo hộ phải
gắn với hoạt động sản xuất, thương
mại. Ưu tiên lựa chọn các HTX làm
chủ thể để đăng ký các NHTT. Hoạt
động cho phép, ủy quyền cho các
tổ chức đăng ký NHCN, NHTT cần
gắn với các điều kiện để ràng buộc
theo nguyên tắc: thu hồi quyền
đăng ký nếu không sử dụng, phát
triển thương hiệu sản phẩm, có
hành vi làm ảnh hưởng đến uy tín,
danh tiếng của sản phẩm; tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân trong
cộng đồng được sử dụng, đồng thời
nghiêm cấm các hành vi nhằm hạn
chế, ngăn chặn các tổ chức, cá
nhân được sử dụng nếu các tổ chức,
cá nhân đó đủ điều kiện.
Hoạt động quản lý, phát triển
các thương hiệu cộng đồng: xây
dựng mô hình tổ chức, hoạt động
hỗ trợ phải gắn với tăng cường năng
lực thương mại, đặc biệt là với các
NHTT, cần tập trung hỗ trợ về năng
lực tổ chức và phát triển thị trường
của các HTX. Ưu tiên hỗ trợ các
doanh nghiệp, HTX trong các dự
án, hoạt động hỗ trợ, làm nền tảng
thúc đẩy việc sử dụng thương hiệu
trên thị trường, tạo cơ sở, động lực
để nâng cao giá trị sản phẩm.
Mô hình tổ chức quản lý CDĐL:
xây dựng các quy định quản lý phù
hợp với điều kiện của từng sản
phẩm, hạn chế ban hành quá nhiều
văn bản quản lý, lồng ghép các nội
dung vào quy chế quản lý, đặc biệt
là hoạt động trao quyền và các quy
định kỹ thuật, kiểm soát. Nâng cao
quyền hạn và trách nhiệm của các
tổ chức tập thể (hội, HTX) để xây
dựng các quy định quản lý phù hợp
(quy trình kỹ thuật, tiêu chuẩn sản
phẩm, hoạt động kiểm soát.). Các
cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên
thực hiện chức năng quản lý quyền
và kiểm tra, giám sát theo kế hoạch
và khi cần thiết2 ?
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng, quản lý và phát triển thương hiệu cộng đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 9 năm 2020
thực trạng xây dựng, quản lý thương
hiệu cộng đồng của Việt nam
Tính đến 31/10/2019, Cục Sở
hữu trí tuệ (SHTT) đã cấp 1.311
Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn
địa lý (CDĐL), nhãn hiệu chứng
nhận (NHCN), nhãn hiệu tập thể
(NHTT) cho các sản phẩm nông
thôn gắn với dấu hiệu chỉ dẫn
nguồn gốc địa lý, trong đó có 70
CDĐL (5,3%), 270 NHCN (20,6%)
và 971 NHTT (74,1%). Đã có 1.096
sản phẩm nông sản (chiếm 83,6%)
và 215 sản phẩm nông thôn khác
(chiếm 16,4%) được bảo hộ (bảng
1). Đặc điểm của các sản phẩm
được đăng ký bảo hộ là: các sản
phẩm đặc sản, tiểu thủ công nghiệp
truyền thống của các địa phương,
sử dụng dấu hiệu chỉ dẫn nguồn
gốc địa lý, gắn với cộng đồng ở khu
vực nông thôn.
Thống kê trên phạm vi cả nước,
đã có 41 tỉnh/thành phố có sản
phẩm được bảo hộ CDĐL, 61 tỉnh/
thành phố có sản phẩm được bảo
hộ NHTT và 51 tỉnh/thành phố có
sản phẩm được bảo hộ NHCN. Đối
với nông sản, vùng có số lượng
nông sản được bảo hộ nhiều nhất
tính đến tháng 10/2019 là Đồng
bằng sông Cửu Long với 284 sản
phẩm (25,91%), tiếp đến là Trung
du và miền núi phía Bắc với 259
sản phẩm (23,63%), Đồng bằng
sông Hồng 218 sản phẩm (19,9%),
Duyên hải miền Trung 116 sản
phẩm (10,58%), Bắc Trung Bộ
100 sản phẩm (9,12%), Đông Nam
Bộ 64 sản phẩm (5,84%) và Tây
Nguyên là khu vực có số lượng
nông sản được bảo hộ thấp nhất với
55 sản phẩm (5,02%).
Thực tế cho thấy, hoạt động
xây dựng thương hiệu cộng đồng
được các địa phương tập trung chỉ
đạo và có nhiều chính sách hỗ trợ,
đặc biệt là các sản phẩm đặc sản
gắn liền với lợi thế về điều kiện địa
lý (tự nhiên, con người). Điển hình
như1: Hải Phòng đã bảo hộ được
60 sản phẩm (54 NHTT, 4 NHCN
và 2 CDĐL), Hà Nội bảo hộ 84 sản
phẩm (64 NHTT, 20 NHCN), Tiền
Giang với 45 sản phẩm (2 CDĐL,
39 NHTT và 4 NHCN)... Nhìn chung
hoạt động xây dựng thương hiệu
cộng đồng ở các địa phương mang
những đặc điểm sau:
Bảo hộ sản phẩm gắn với chỉ
dẫn nguồn gốc địa lý: đa số các
sản phẩm nông thôn được bảo hộ
CDĐL, NHCN và NHTT đều gắn với
chỉ dẫn nguồn gốc địa lý, bao gồm:
tên tỉnh, huyện, xã và địa danh
khác, trong đó 0,30% sản phẩm
được bảo hộ sử dụng tên quốc gia,
10,22% sản phẩm được bảo hộ sử
dụng tên tỉnh, 35,55% sử dụng tên
huyện và tương đương, 53,93% sử
dụng tên xã và tương đương. Trên
thực tế, đối với CDĐL và NHCN có
sự tương đồng khi chủ yếu sử dụng
diễn đàn khoa học và công nghệ
xây Dựng, quản Lý Và phÁt triển thương hiỆu Cộng đồng
Lưu Đức Thanh
Cục Sở hữu trí tuệ
Trong thời gian qua, việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông thôn (nông sản, thực phẩm, tiểu
thủ công nghiệp - gọi tắt là thương hiệu cộng đồng) gắn với chỉ dẫn nguồn gốc địa lý đã trở thành
một định hướng quan trọng nhằm thúc đẩy sức cạnh tranh, giá trị của các nông sản đặc sản..., góp
phần tích cực trong xây dựng nông thôn mới cũng như thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm
(OCOP) của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực, việc xây dựng, quản lý và phát
triển thương hiệu cộng đồng còn gặp không ít khó khăn, rất cần những giải pháp, chính sách cụ thể
để thúc đẩy hoạt động này trong thời gian tới.
Bảng 1. Số lượng CDĐL, NHTT, NHCN được cấp giấy chứng nhận đăng ký.
TT Hình thức bảo hộ
Số lượng
Nông sản Khác Tổng cộng
1 CDĐL* 65 5 70
2 NHCN 258 12 270
3 NHTT 773 198 971
Tổng cộng 1.096 215 1.311
(Nguồn: Cục SHTT 2019; *tính đến 31/10/2019 có 76 CDĐL được bảo hộ, trong đó có 70 CDĐL
của Việt Nam và 6 CDĐL của nước ngoài được bảo hộ tại Việt Nam).
1Số liệu tính đến tháng 10/2019.
5Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 9 năm 2020
tên tỉnh, thành phố, huyện để đăng
ký bảo hộ với tỷ lệ là hơn 76% và
xã là hơn 22%. Trong khi đó, đối với
NHTT thì đa số sử dụng tên xã để
đăng ký bảo hộ với hơn 65%, qua
đó cho thấy NHTT được sử dụng
đăng ký bảo hộ chủ yếu cho các
sản phẩm có quy mô cấp xã.
Cơ cấu sản phẩm được bảo
hộ quyền SHTT: các địa phương
đăng ký bảo hộ thương hiệu cộng
đồng chủ yếu là cho nông sản và
sản phẩm tiểu thủ công nghiệp,
trong đó nông sản chiếm tỷ lệ chủ
yếu với 81,08% (1.063 sản phẩm),
còn lại 18,92% (248 sản phẩm) là
các sản phẩm khác. Trong cơ cấu
nông sản được bảo hộ, đa phần là
nông sản tươi sống, sản phẩm thô
và nguyên liệu; sản phẩm chế biến
sâu còn hạn chế. Nhóm sản phẩm
trái cây và rau củ chiếm tỷ lệ lớn
nhất (35%), tiếp đến là nhóm thủy
sản và sản phẩm chế biến từ thủy
sản (15%). Nhóm các sản phẩm thịt
và sản phẩm chăn nuôi chiếm tỷ lệ
thấp (khoảng 8%), nhóm sản phẩm
cây công nghiệp và lâm nghiệp
cũng chỉ chiếm 10%, trong khi Việt
Nam là một quốc gia có nhiều lợi
thế về phát triển các sản phẩm cây
công nghiệp và lâm nghiệp.
Chủ sở hữu các thương hiệu cộng
đồng: các hình thức bảo hộ thương
hiệu cộng đồng được quy định khác
nhau về chủ sở hữu, theo đó đối với
CDĐL thì chủ sở hữu thuộc về Nhà
nước. Nhà nước cho phép các tổ
chức/cá nhân nộp đơn đăng ký bảo
hộ CDĐL, do vậy các CDĐL thường
sẽ do các cơ quan nhà nước nộp hồ
sơ đăng ký [Sở Khoa học và Công
nghệ (KH&CN), Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN&PTNT),
UBND tỉnh, UBND huyện/thị xã].
Đối với NHCN thì chủ sở hữu phải
là tổ chức có chức năng, năng lực
chứng nhận, tuy nhiên, trên thực tế
ít có tổ chức nào đáp ứng được điều
kiện này nên mặc nhiên coi UBND
các cấp hoặc các cơ quan chuyên
môn của UBND đủ điều kiện đăng
ký NHCN. Do đó, chủ sở hữu các
NHCN hiện nay chủ yếu là các
UBND các cấp hoặc phòng kinh tế
(hay phòng NN&PTNT) chiếm 71%,
các sở chiếm 14%, còn lại là các
chi cục, trung tâm hoặc các chủ thể
khác.
Đối với NHTT, quyền sở hữu,
quản lý và sử dụng thuộc về tổ chức
tập thể nộp đơn. Chính vì vậy, vai trò
của các tổ chức tập thể đóng vai trò
nền tảng, quyết định sự phát triển
của các NHTT này. Tùy theo đặc
điểm của từng sản phẩm, quy mô,
phạm vi sản xuất mà các tổ chức
được lựa chọn làm chủ sở hữu đăng
ký NHTT khác nhau. Trên phạm vi
cả nước, tỷ lệ hợp tác xã (HTX) làm
chủ sở hữu NHTT chiếm 40%, 34%
là các tổ chức chính trị - xã hội (hội
nông dân, hội phụ nữ), 16% là các
hội nghề nghiệp, còn lại là các đối
tượng khác (tổ hợp tác, trạm khuyến
nông).
Tác động và những khó khăn, tồn tại
trong xây dựng, quản lý và phát triển
thương hiệu cộng đồng
Thương hiệu cộng đồng đang
dần chứng minh vai trò quan trọng
trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn, góp phần bảo tồn giá trị văn
hóa truyền thống, bảo tồn đa dạng
sinh học, góp phần thúc đẩy sự phát
triển hoạt động sản xuất, thương
mại và nâng cao giá trị gia tăng cho
sản phẩm nông sản của Việt Nam.
Những tác động tích cực của các
thương hiệu cộng đồng được thể
hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, thương hiệu cộng đồng
đã tác động tích cực và rõ ràng đến
nhận thức, sự quan tâm, đầu tư về
nguồn lực của các địa phương, nhận
thức của doanh nghiệp, người dân
trong việc bảo vệ danh tiếng, giá
trị của các sản phẩm được bảo hộ.
Nhiều địa phương đã triển khai các
chính sách hỗ trợ như: Quảng Ninh,
Hải Phòng, Hà Giang, Sơn La, Hà
Tĩnh, Tiền Giang, Bến Tre...
Thứ hai, CDĐL, NHTT, NHCN
được bảo hộ đã bước đầu tác động
tích cực đến giá trị của sản phẩm
như nước mắm Phú Quốc, bưởi
Phúc Trạch, cam Cao Phong, cà
phê Sơn La, hạt điều Bình Phước,
rau an toàn Mộc Châu Giá bán của
các sản phẩm sau khi được bảo hộ
đều có xu hướng tăng, cụ thể như:
Bưởi Phúc Trạch có giá bán tăng 10-15% sau khi được bảo hộ CDĐL.
6Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 9 năm 2020
cam Cao Phong giá bán tăng gần
gấp đôi, chuối ngự Đại Hoàng tăng
100-130%, bưởi Phúc Trạch tăng
10-15%, đặc biệt như bưởi Luận
Văn giá bán tăng 3,5 lần so với
trước khi được bảo hộ..., nhiều sản
phẩm có gắn CDĐL đã được xuất
khẩu như nước mắm Phú Quốc, vải
thiều Thanh Hà, xoài cát Hòa Lộc,
vải thiều Lục Ngạn
Thứ ba, thương hiệu cộng đồng
cũng đã giúp các địa phương hình
thành được các tổ chức tập thể như
hội/hiệp hội, thúc đẩy sự phát triển
các HTX, kết nối vào các chương
trình lớn của Nhà nước như Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới, OCOP, đồng thời
góp phần giúp các chủ thể như
HTX, doanh nghiệp, hộ gia đình tổ
chức sản xuất, thương mại hóa sản
phẩm. Nhiều HTX đã phát triển hiệu
quả các thương hiệu được bảo hộ
để tổ chức sản xuất, thương mại sản
phẩm ra thị trường, điển hình như
các HTX rau an toàn ở Mộc Châu,
Sơn La (sử dụng NHCN rau an toàn
Mộc Châu), HTX cây ăn quả ở Lục
Ngạn, Bắc Giang (phát triển các
NHTT), HTX mật ong Mèo Vạc ở Hà
Giang (phát triển CDĐL), HTX gạo
nếp cái hoa vàng Kinh Môn ở Hải
Dương (phát triển NHTT)
Ngoài những tác động tích cực,
mang lại những hiệu quả nhất định,
việc xây dựng, quản lý và phát triển
các thương hiệu cộng đồng còn gặp
những tồn tại, khó khăn sau:
Về chính sách
Các quy định của pháp luật
SHTT: các quy định pháp lý của
Việt Nam đối với CDĐL, NHTT và
NHCN đã khá đầy đủ nhưng mới chỉ
dừng lại ở vấn đề đăng ký. Việc triển
khai các quy định này đang gặp
khó khăn, cụ thể: i) Về hoạt động
xác lập quyền bảo hộ SHTT đối với
CDĐL: Luật SHTT và các văn bản
dưới luật mới chỉ quy định về điều
kiện bảo hộ, chủ sở hữu, yêu cầu về
hồ sơ (đơn đăng ký), trình tự, thủ tục
thẩm định hồ sơ nhưng chưa quy
định cụ thể nội dung và cách thức
thẩm định hồ sơ. Do đó, hoạt động
thẩm định nội dung hồ sơ đăng ký
CDĐL đang gặp nhiều khó khăn, cụ
thể là thẩm định các nội dung: chất
lượng đặc thù, khu vực địa lý, lịch
sử - danh tiếng, quy trình kỹ thuật...
Đây là những lĩnh vực chuyên môn
sâu, nằm ngoài khả năng chuyên
môn của Cục SHTT. Do đó, yêu
cầu đặt ra là cần có các quy định cụ
thể để các ngành có chuyên môn
phù hợp tham gia hợp lý vào quá
trình thẩm định CDĐL; ii) Về hoạt
động quản lý và phát triển CDĐL,
NHTT và NHCN: đối với CDĐL, các
quy định pháp lý chưa đề cập chi
tiết, cụ thể là vấn đề quản lý CDĐL
được quy định tại Điểm 4, Điều 121,
Luật SHTT: Nhà nước là chủ sở hữu
CDĐL đó. Nhà nước có thể trực
tiếp thực hiện quyền quản lý CDĐL
hoặc trao quyền quản lý CDĐL cho
tổ chức đại diện quyền lợi của tất
cả các tổ chức, cá nhân được trao
quyền sử dụng CDĐL. Tuy nhiên,
vấn đề trao quyền sử dụng như thế
nào, quản lý CDĐL ra sao thì các
văn bản pháp luật nêu trên chưa đề
cập đến. Đối với NHTT và NHCN,
quyền quản lý và phát triển thuộc
về chủ thể đăng ký nhãn hiệu. Các
quy định của Luật SHTT và văn bản
hướng dẫn chưa có những quy định
cụ thể ở khía cạnh quản lý, đặc biệt
là việc quản lý các nhãn hiệu này
gắn với dấu hiệu chỉ dẫn nguồn
gốc địa lý, một tài sản gắn với cộng
đồng.
Về chính sách hỗ trợ của Nhà
nước, địa phương: bên cạnh các địa
phương như Quảng Ninh, Sơn La,
Bắc Ninh, Bến Tre có chính sách
đầu tư nhằm phát triển thương hiệu
cộng đồng thì các địa phương khác
còn tồn tại một số vấn đề: i) Tập trung
chủ yếu vào nội dung xây dựng hồ
sơ đăng ký, hoạt động hỗ trợ quản
lý và phát triển còn nhiều hạn chế,
dẫn đến các sản phẩm được bảo hộ
chưa thực sự phát huy được giá trị
như mong đợi; ii) Có nhiều nguồn
lực hỗ trợ ở các nội dung khác nhau,
tập trung ở ba ngành là: KH&CN,
NN&PTNT, Công Thương nhưng
sự phối hợp và tập trung nguồn lực
còn hạn chế, dẫn đến nguồn lực bị
phân tán, chưa phát huy được hết
hiệu quả.
Hạn chế trong xây dựng hồ sơ
đăng ký thương hiệu cộng đồng
Việc lựa chọn sản phẩm, hình
thức bảo hộ quyền SHTT hiện nay
được các địa phương rất quan tâm,
tuy nhiên trong quá trình triển khai
còn những khó khăn, bất cập.
Một là, chưa có tiêu chí hoặc
phương pháp rõ ràng trong việc
lựa chọn hình thức bảo hộ: CDĐL,
NHTT hay NHCN, đặc biệt là đối
với các CDĐL. Cụ thể, đối với việc
đăng ký CDĐL cần dựa vào điều
kiện của sản phẩm như: danh tiếng,
chất lượng đặc thù của sản phẩm
do điều kiện địa lý quyết định. Tuy
nhiên, nhiều sản phẩm lựa chọn
dấu hiệu đăng ký chưa được biết
đến rộng rãi, không phải là tên gọi
truyền thống, đã được sử dụng trong
thương mại như: cừu Phan Rang
hay cừu Ninh Thuận, gạo Séng cù
Lào Cai hay gạo Séng cù Mường
Khương, sầu riêng Cái Mơn hay sầu
riêng Bến Tre..., dẫn đến những khó
khăn trong công tác thẩm định hồ
sơ đăng ký cũng như việc sử dụng,
Vải thiều Lục Ngạn - sản phẩm đã được
bảo hộ CDĐL.
7Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 9 năm 2020
phát triển thương hiệu đối với các tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
sản phẩm.
Hai là, về chủ thể đăng ký bảo
hộ SHTT: đối với các NHTT, nhiều
địa phương lựa chọn các tổ chức
chính trị - xã hội (hội nông dân, hội
phụ nữ), hoặc các hội làm vườn...
làm chủ sở hữu, gây khó khăn trong
công tác quản lý, phát triển bởi
NHTT không gắn với mục tiêu hoạt
động, chức năng, nhiệm vụ được
giao của tổ chức. Đối với NHCN
thì chủ yếu là các cơ quan quản lý
nhà nước, đặc biệt là UBND huyện,
các phòng chuyên môn, thiếu chức
năng và năng lực về chứng nhận
sản phẩm, chưa có sự tách biệt
giữa quản lý nhà nước và mối quan
hệ dân sự theo quy định của Luật
SHTT. Đối với các CDĐL, đây là
một đối tượng đặc biệt, yêu cầu cao
về chuyên môn SHTT, do đó nhiều
địa phương giao cho UBND huyện,
Chi cục thuộc Sở NN&PTNT làm
chủ sở hữu, gây khó khăn cho các
chủ thể trong hoạt động xây dựng
hồ sơ, quy định và tổ chức bộ máy
quản lý các CDĐL.
Ba là, vấn đề lựa chọn sản phẩm
để bảo hộ chưa gắn với thực tiễn và
yêu cầu sản xuất, kinh doanh ở địa
phương cũng như nhu cầu của thị
trường. Sản phẩm bảo hộ thường là
nguyên liệu thô, rất ít sản phẩm chế
biến, hoặc những sản phẩm không
gắn với truyền thống (như tôm nuôi
công nghiệp, thâm canh) hay sản
phẩm không gắn với giống truyền
thống (như dê nhập nội hay dê
lai...). Điều này hạn chế sự gia tăng
giá trị sản phẩm tương xứng với tiềm
năng và danh tiếng của các đặc sản
địa phương.
Bốn là, việc lựa chọn các tiêu chí
bảo hộ trong CDĐL, NHCN hay điều
kiện bảo hộ NHTT còn bất cập, đặc
biệt là chưa gắn với: sử dụng các
tiêu chí phổ biến, không phải là các
tiêu chí mang đặc trưng, gắn liền với
điều kiện địa lý của sản phẩm; tiêu
chí chất lượng không có tính khả
thi trong kiểm soát (tiêu chí về vi
lượng, tiêu chí không sử dụng được
bằng phương pháp cảm quan, phải
sử dụng phân tích bằng kỹ thuật
chuyên sâu - phòng thí nghiệm...);
sử dụng các tiêu chí tự nguyện như
TCVN, VietGAP...
Năm là, quy trình kỹ thuật,
phương pháp sản xuất được lựa
chọn mang tính phổ cập, chưa quan
tâm đến các yếu tố truyền thống,
đặc trưng riêng đối với các sản
phẩm. Do đó dẫn đến những khó
khăn trong hoạt động kiểm soát,
đặc biệt là chưa đáp ứng các yêu
cầu để bảo hộ ở nước ngoài như
Nhật Bản, EU...
Khó khăn trong hoạt động
quản lý, phát triển thương hiệu
cộng đồng
Đối với hoạt động quản lý CDĐL:
sự thiếu vắng khung chính sách
chung ở cấp độ quốc gia dẫn đến
việc quản lý CDĐL được giao về
các địa phương, từ đó dẫn đến sự
không thống nhất trong việc ban
hành các văn bản quản lý giữa các
địa phương. Mặc dù Nhà nước vẫn
đóng vai trò chủ thể, nhưng các mô
hình tổ chức quản lý rất đa dạng,
65,7% số CDĐL được giao cho
Sở KH&CN quản lý, còn lại là do
các UBND huyện/thị xã/thành phố
hoặc hội quản lý. Quy định về hệ
thống kiểm soát chỉ thể hiện ở trên
văn bản, chưa được áp dụng vào
thực tiễn do chưa phù hợp với điều
kiện sản xuất của sản phẩm, thiếu
nguồn lực (tài chính, con người) để
tổ chức vận hành, thiếu sự tham gia
của các ngành, đặc biệt là ngành
nông nghiệp vào hoạt động kiểm
soát. Trong khi đó, vai trò và năng
lực của các tổ chức tập thể còn hạn
chế, chưa đủ để tham gia vào hoạt
động tổ chức, quản lý các CDĐL,
dẫn đến việc triển khai các mô hình
quản lý CDĐL ở địa phương còn
gặp nhiều khó khăn, nhiều mô hình
không thể vận hành trên thực tế,
hoặc mới chỉ triển khai được hoạt
động trao quyền sử dụng.
Đối với quản lý và phát triển các
NHTT: do đặc thù về điều kiện sản
xuất phân tán, nhỏ lẻ, nên nhiều địa
phương không xây dựng và thành
lập được các HTX, hoặc các HTX
hoạt động chưa hiệu quả, do đó việc
phát triển thương hiệu cho nông sản
không lựa chọn được HTX mà phải
giao cho các hội nghề nghiệp hoặc
tổ chức chính trị - xã hội làm chủ sở
hữu. Điều này dẫn đến những khó
khăn trong quản lý và phát triển
NHTT, đó là: i) Năng lực, vai trò tổ
chức, phát triển thương mại, tham
gia trực tiếp vào các kênh phân phối
còn hạn chế, thiếu sự liên kết trong
sản xuất, do đó ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất của cộng đồng; ii)
Các tổ chức chính trị - xã hội nghề
nghiệp thực hiện chức năng kiêm
nhiệm, thiếu nguồn lực để tổ chức,
thúc đẩy các NHTT; iii) Nếu lựa
chọn HTX thì quy mô và khả năng
mở rộng thành viên của các HTX là
yếu tố làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của các cá nhân khác trong cộng
đồng Ngoài ra, việc giải thể, sắp
xếp lại tổ chức của địa phương dẫn
đến vấn đề chuyển đổi chủ sở hữu
NHTT cũng gây ra những khó khăn
trong quản lý và phát triển bền vững
các đặc sản địa phương dưới hình
thức NHTT.
Hoạt động quản lý các NHCN:
hiện nay được giao cho các cơ
quan quản lý nhà nước, đặc biệt là
UBND cấp huyện, do đó, khó khăn
trong việc chuẩn hóa, đánh giá và
thực thi các yêu cầu trong quản lý,
kiểm soát các tiêu chí chứng nhận.
Ngoài ra, hoạt động quản lý NHCN
thường được giao theo nhiệm vụ
kiêm nhiệm, không thuộc chức
năng quản lý nhà nước, dẫn đến
phát sinh nhiều khó khăn như: các
văn bản quản lý được ban hành gặp
nhiều trở ngại về mặt pháp lý (đặc
biệt là các quy định về thủ tục hành
chính); nguồn lực để tổ chức đánh
8Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 9 năm 2020
giá, kiểm soát và thực hiện các hoạt
động quảng bá, nâng cao danh
tiếng, giá trị thương hiệu gắn với sản
phẩm còn hạn chế.
Bên cạnh đó, sự đồng hành của
các doanh nghiệp thành viên trong
các hoạt động phát triển thương hiệu
cộng đồng cùng với thương hiệu của
từng doanh nghiệp còn chưa cao,
trong khi để tiếp cận và phát triển
được thị trường thì các tổ chức tập
thể cần sự hỗ trợ, đồng hành thường
xuyên, liên tục, đặc biệt là các vấn
đề về xây dựng sản phẩm, quảng
bá và phát triển thị trường.
Một số kiến nghị, đề xuất về xây dựng,
quản lý thương hiệu cộng đồng
Sự phát triển của thị trường nông
sản Việt Nam trong giai đoạn vừa
qua đã cho thấy vị trí, vai trò và
tiềm năng rất lớn của các sản phẩm
nông nghiệp với sự hỗ trợ của các
thương hiệu cộng đồng trong việc
đáp ứng các nhu cầu của người tiêu
dùng trong nước cũng như hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trước bối
cảnh sự phát triển của các thương
hiệu cộng đồng còn gặp nhiều khó
khăn, theo chúng tôi cần phải thực
hiện đồng bộ những giải pháp ở cấp
trung ương và địa phương để thúc
đẩy hoạt động xây dựng và quản lý
trong thời gian tới.
Ở cấp trung ương: Cục SHTT cần
tham mưu, kiến nghị Bộ KH&CN,
Chính phủ và Quốc hội để chỉnh
sửa, bổ sung, hoàn thiện khung
chính sách liên quan đến sở hữu
công nghiệp nói chung và các quy
định cụ thể về CDĐL, NHTT, NHCN
nói riêng nhằm giúp các địa phương
tổ chức hiệu quả các hoạt động xây
dựng và quản lý thương hiệu cộng
đồng.
Đối với các địa phương: cần
thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ giữa
ba ngành (KH&CN, NN&PTNT,
Công Thương) trên cơ sở Quy chế
phối hợp số 2222/QCPH-BKHCN-
BNNPTNT-BCT ngày 8/8/2018 về
xây dựng và quản lý CDĐL giữa Bộ
KH&CN, Bộ NN&PTNT, Bộ Công
Thương. Đặc biệt là cần có sự phối
kết hợp chặt chẽ trong việc phát
triển thương hiệu cộng đồng với
OCOP theo Quyết định số 490/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sự
phát triển các sản phẩm OCOP cần
dựa trên kết quả và có sự kế thừa,
kết nối của các hoạt động phát triển
thương hiệu cộng đồng, giải quyết
hài hòa mối quan hệ này để đảm
bảo giá trị, lợi ích của cộng đồng
đối với các thương hiệu được bảo hộ
của các chủ thể thương mại trong
cộng đồng.
Tăng cường công tác đào tạo,
nâng cao năng lực, trong đó cần xây
dựng và bổ sung các nội dung đào
tạo, tập huấn về quản trị và phát
triển thương hiệu trong các chương
trình tập huấn, nâng cao năng lực
cho các HTX, cán bộ quản lý HTX,
làng nghề, đào tạo nghề nông thôn.
Xác định năng lực quản trị và phát
triển thương hiệu nông sản là một
nội dung chính trong chương trình
đào tạo, nhằm thúc đẩy và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các HTX,
hội/hiệp hội, đặc biệt là năng lực
thương mại.
Đối với hoạt động xây dựng hồ sơ
đăng ký bảo hộ: việc lựa chọn hình
thức bảo hộ (CDĐL, NHTT, NHCN)
cần dựa trên điều kiện (quy mô, đặc
thù về sản phẩm, chất lượng...),
yêu cầu của từng hình thức bảo
hộ để quyết định. Đặc biệt là đối
với các CDĐL, sản phẩm được lựa
chọn cần có danh tiếng, chất lượng
đặc thù gắn với điều kiện của địa
phương, kỹ thuật truyền thống, dấu
hiệu được lựa chọn để bảo hộ phải
gắn với hoạt động sản xuất, thương
mại. Ưu tiên lựa chọn các HTX làm
chủ thể để đăng ký các NHTT. Hoạt
động cho phép, ủy quyền cho các
tổ chức đăng ký NHCN, NHTT cần
gắn với các điều kiện để ràng buộc
theo nguyên tắc: thu hồi quyền
đăng ký nếu không sử dụng, phát
triển thương hiệu sản phẩm, có
hành vi làm ảnh hưởng đến uy tín,
danh tiếng của sản phẩm; tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân trong
cộng đồng được sử dụng, đồng thời
nghiêm cấm các hành vi nhằm hạn
chế, ngăn chặn các tổ chức, cá
nhân được sử dụng nếu các tổ chức,
cá nhân đó đủ điều kiện.
Hoạt động quản lý, phát triển
các thương hiệu cộng đồng: xây
dựng mô hình tổ chức, hoạt động
hỗ trợ phải gắn với tăng cường năng
lực thương mại, đặc biệt là với các
NHTT, cần tập trung hỗ trợ về năng
lực tổ chức và phát triển thị trường
của các HTX. Ưu tiên hỗ trợ các
doanh nghiệp, HTX trong các dự
án, hoạt động hỗ trợ, làm nền tảng
thúc đẩy việc sử dụng thương hiệu
trên thị trường, tạo cơ sở, động lực
để nâng cao giá trị sản phẩm.
Mô hình tổ chức quản lý CDĐL:
xây dựng các quy định quản lý phù
hợp với điều kiện của từng sản
phẩm, hạn chế ban hành quá nhiều
văn bản quản lý, lồng ghép các nội
dung vào quy chế quản lý, đặc biệt
là hoạt động trao quyền và các quy
định kỹ thuật, kiểm soát. Nâng cao
quyền hạn và trách nhiệm của các
tổ chức tập thể (hội, HTX) để xây
dựng các quy định quản lý phù hợp
(quy trình kỹ thuật, tiêu chuẩn sản
phẩm, hoạt động kiểm soát...). Các
cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên
thực hiện chức năng quản lý quyền
và kiểm tra, giám sát theo kế hoạch
và khi cần thiết2 ?
2Tham khảo các giải pháp chi tiết tại “Tài
liệu hướng dẫn về đổi mới tiếp cận trong xây
dựng và quản lý CDĐL ở Việt Nam” của Dự
án “Hỗ trợ phát triển CDĐL ở Việt Nam”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_quan_ly_va_phat_trien_thuong_hieu_cong_dong.pdf