Thứ ba: Cần có hướng dẫn thống nhất
về việc khi bán đấu giá tài sản là bất
động sản thì tiền bán được ưu tiên đóng
thuế trước hay thanh toán cho bên nhận
bảo đảm trước nhằm bảo vệ quyền lợi
của bên mua được tài sản đấu giá. Theo
tác giả cần quy định theo hướng đóng
thuế thu nhập cá nhân trước còn lại thì
thanh toán cho bên nhận bảo đảm theo
thứ tự ưu tiên mà pháp luật đã quy định.
Ngoài ra còn một số khoản tiền khác
cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể như
phí bán đấu giá, hoặc trong trường hợp
cơ quan thi hành án bán đấu giá thì liên
quan đến tiền án phí.
Thứ tư: Quy định trình tự, thủ tục bên
nhận bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm và
hệ quả của việc tự bán tài sản.
Thứ năm: Các bên có thỏa thuận về
việc bên nhận bảo đảm (thế chấp) nhận
chính tài sản bảo đảm thì bên nhận bảo
đảm có quyền nhận tất cả các tài sản bảo
đảm (thế chấp) kể cả trường hợp họ
không đủ điều kiện là chủ sở hữu nhưng
buộc họ phải bán, chuyển nhượng cho
chủ thể đủ điều kiện trong một thời hạn
nhất định. Có như vậy mới bảo đảm
tuyệt đối quyền của bên nhận thế chấp
và giải quyết dứt điểm quan hệ dân sự đã
đến hạn thực hiện và hạn chế tranh chấp
kéo dài.
Thứ sáu: Trường hợp bên nhận thế
chấp đã thông báo về việc thu giữ tài
sản, thực tế đã tiến hành thu giữ tài sản
bảo đảm nhưng bên bảo đảm không hợp
tác, không giao tài sản thì bên thế chấp
khởi kiện ra Tòa án thì áp dụng thủ tục
tố tụng rút gọn để giải quyết nhằn tránh
tình trạng bên bảo đảm gây khó khăn
kéo dài vụ việc.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 517 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử lý tài sản thế chấp theo quy định của bộ luật dân sự 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
16
XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
Nguyễn Xuân Quang1 và Nguyễn Phước Quý Quang2*
1Trường Đại học Luật TP. HCM
2Trường Đại học Công nghệ Miền Đông
(Email: nguyenphuocquyquang@gmail.com)
Ngày nhận: 25/9/2019
Ngày phản biện: 25/10/2019
Ngày duyệt đăng: 03/11/2019
TÓM TẮT
Trong điều kiện của nền kinh tế hiện nay khi mà các giao dịch dân sự, thương mại được
xác lập ngày càng nhiều thì các tranh chấp, kiện tụng cũng theo đó ngày một gia tăng. Thế
chấp tài sản được coi là một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu để hạn chế những rủi
ro có thể nảy sinh từ các giao dịch vay vốn, tín dụng. Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế
chấp là yếu tố cốt lõi của quan hệ thế chấp, xuyên suốt toàn bộ quá trình xác lập và thực
hiện hợp đồng thế chấp, đảm bảo quyền lợi cho các bên trong quan hệ. Trong bài viết này,
tác giả sẽ phân tích, bình luận về quá trình xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật dân sự
Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước.
Từ khóa: Thế chấp tài sản, xử lý, nghĩa vụ, bồi thường.
Trích dẫn: Nguyễn Xuân Quang và Nguyễn Phước Quý Quang, 2019. Xử lý tài sản thế
chấp theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và
Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 07: 16-27.
*TS. Nguyễn Phước Quý Quang - Chủ tịch Hội đồng Trường, Trường ĐH Công nghệ Miền Đông
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
17
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế chấp tài sản là một biện pháp bảo
đảm được cá nhân, tổ chức sử dụng khá
phổ biến để bảo đảm nghĩa vụ. Bởi tính
hữu ích của nó mà theo đó chủ thể thế
chấp vẫn giữ tài sản và khai thác công
dụng, người nhận thế chấp yên tâm vì
quyền lợi của mình được bảo đảm1.
Trong trường hợp bên thế chấp vi phạm
nghĩa vụ hoặc vì một lý do nào đó theo
thỏa thuận hoặc luật quy định thì tài sản
thế chấp sẽ được xử lý. Vấn đề xử lý tài
sản bảo đảm nói chung và xử lý tài sản
thế chấp nói riêng là một vấn đề quan
trọng, nhằm đảm bảo nguyên tắc bảo vệ
quyền lợi của bên nhận bảo đảm, cụ thể
bên nhận bảo đảm thu hồi lại những lợi
ích hợp pháp của mình và để đảm bảo
cho việc thu hồi lại lợi ích, Bộ luật dân
sự quy định bên nhận bảo đảm được truy
đòi tài sản từ người đang giữ tài sản bảo
đảm2, nhưng cũng phải bảo đảm quyền
lợi của bên bảo đảm, do đó việc xử lý tài
sản phải tuân theo quy định cụ thể, chặt
chẽ về trình tự, thủ tục cũng như phương
pháp định giá tài sản, có như vậy mới
không gây thiệt hại cho bên bảo đảm,
đồng thời bảo vệ trật tự xã hội, thúc đẩy
phát triển kinh tế. Theo quy định của
pháp luật khi có căn cứ xử lý tài sản thế
chấp thì bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm
có quyền thỏa thuận một trong các
phương thức xử lý sau đây: Bán đấu giá
tài sản; Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản;
Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để
thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của
1Điều 317 bộ luật dân sự 2015.
2Điều 297 Bộ luật dân sự 2015.
bên bảo đảm hoặc phương thức khác.
Trường hợp không có thỏa thuận về
phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài
sản được đem bán đấu giá3.
Có thể nói quy định này trong Bộ luật
dân sự 2015 đã tôn trọng triệt để quyền
tự do, tự nguyện và tự quyết của chủ thể
trong quan hệ dân sự nói chung và trong
xử lý tài sản bảo đảm nói riêng. Bộ luật
dân sự 2015 đã tạo cơ chế thông thoáng
trong việc xử lý tài sản bảo đảm, phù
hợp với yêu cầu của thực tế4 cụ thể ở
đây các bên có quyền thỏa thuận về biện
pháp xử lý tài sản, trong đó Bộ luật đã
dự liệu nhiều phương thức xử lý để các
bên lựa chọn sao cho thuận lợi nhất cho
các bên, đây là một điểm tiến bộ so với
Bộ luật dân sự 2005 trong việc xử lý tài
sản thế chấp5. Như đã trình bày ở trên,
Bộ luật dân sự 2015 đã bảo đảm triệt để
hơn quyền của bên nhận bảo đảm đó là
có quyền truy đòi tài sản bảo đảm từ
người đang chiếm giữ tài sản, có thể nói
đây là một quy định rất quan trọng để
bên nhận bảo đảm yên tâm thực hiện các
giao dịch vì quyền lợi của mình được
pháp luật bảo vệ triệt để hơn, được
quyền truy đòi tài sản bảo đảm trong
trường hợp bên bảo đảm không hợp tác
hoặc tẩu tán tài sản bảo đảm. Việc truy
đòi tài sản này đã nâng vị thế của người
nhận bảo đảm lên, họ có quyền mạnh mẽ
3Điều 303 Bộ luật dân sự 2015.
4Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, 2017, tr. 282.
5Điều 355 Bộ luật dân sự 2005.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
18
để xử lý thu hồi nợ khi bên có nghĩa vụ
vi phạm nghĩa vụ của mình.
2. CƠ SỞ PHÁP LÝ
Theo quy định tại Điều 303 Bộ luật
Dân sự 2015 bên bảo đảm và bên nhận
bảo đảm có quyền thỏa thuận xử lý tài
sản thế chấp theo một trong các phương
thức sau đây: Bán đấu giá tài sản; Bên
nhận bảo đảm tự bán tài sản; Bên nhận
bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo
đảm hoặc phương thức khác. Trường
hợp không có thỏa thuận về phương thức
xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản được
đem bán đấu giá. Để thuận tiện cho việc
xử lý tài sản bảo đảm, Bộ luật dân sự
2015 đã quy định bên nhận bảo đảm có
quyền thu giữ tài sản để xử lý tài sản bảo
đảm6. Thực tế quyền thu giữ tài sản đã
được ghi nhận trước khi có Bộ luật dân
sự 2015 tại Điều 63 Nghị định
163/2006/NĐ – CP. Tuy nhiên đây là
quy định trong văn bản dưới luật vì vậy
tính hiệu lực không cao. Kế thừa quy
định này, Bộ luật dân sự 2015 tiếp tục
quy định thu giữ tài sản để xử lý tài sản
bảo đảm là phù hợp và thiết thực, nhằm
bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên
nhận bảo đảm thu hồi lại lợi ích của
mình bị xâm phạm. Với biện pháp này
chủ thể nhận bảo đảm được chủ động
tiến hành thu giữ tài sản mà không cần
thông qua thủ tục tố tụng dân sự, qua đó
tiết kiệm thời gian, chi phí tố tụng đồng
thời giảm bớt thiệt hại cho bên bảo đảm
như tiền lãi, góp phần làm giảm hao phí
xã hội.
6Khoản 1 Điều 307 Bộ luật dân sự 2015.
3. THẢO LUẬN
Quy định thu giữ tài sản này mới chỉ
được quy định với tư cách là một quyền
của bên nhận bảo đảm, còn thực hiện
quyền này như thế nào, trình tự, thủ tục
ra sao thì Bộ luật dân sự 2015 chưa quy
định cụ thể cũng như chưa có văn bản
hướng dẫn nên trong thực tế việc thực
hiện quyền này rất khó khăn. Việc chưa
có quy định cụ thể gây khó khăn cho bên
bảo đảm trong việc thu giữ, bởi lẽ nếu
bên nhận bảo đảm tự thực hiện việc thu
giữ theo quy định này, thì hành vi của họ
rất mong manh với ranh giới của tội
cướp tài sản hay cưỡng đoạt tài sản, mà
thực tế đã xảy ra rất nhiều vụ việc bị
khởi tố và truy tố hình sự. Đồng thời bên
nhận thế chấp cũng có thể lợi dụng quy
định này để cưỡng chế tài sản của bên
bảo đảm, có thể gây mất trật tự, an toàn
xã hội. Tuy nhiên tác giả cho rằng quy
định này là một cơ chế tốt, tạo cơ chế
thuận lợi cho việc bên nhận bảo đảm
tăng có cơ hội hơn trong việc xử lý tài
sản bảo đảm.
Bên cạnh việc đảm bảo cho bên nhận
bảo đảm thu hồi nợ thì việc xử lý tài sản
bảo đảm cũng phải đảm bảo lợi ích của
bên bảo đảm, theo đó trước khi xử lý tài
sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải
thông báo bằng văn bản trong thời hạn
hợp lý về việc xử lý tài sản bảo đảm và
các bên cùng nhận bảo đảm khác, nếu
không thông báo mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường. Trừ trường hợp tài sản
bảo đảm có nguy cơ hư hỏng dẫn đến
giảm sút giá trị hoặc mất toàn bộ giá trị
thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý
ngay, đồng thời phải thông báo cho bên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
19
nhận bảo đảm biết7. Quy định này xuất
phát từ nguyên tắc trung thực, thiện chí
và hợp tác trong quan hệ dân sự, nhưng
cũng nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bảo
đảm, tránh tình trạng bên nhận bảo đảm
lợi dụng việc xử lý tài sản để trục lợi,
gây thiệt hại cho bên bảo đảm.
Việc xử lý tài sản bảo đảm được thực
hiện theo các phương thức tại Điều 303
Bộ luật dân sự 2015 theo đó các bên có
thể thỏa thuận về việc bán đấu giá tài
sản. Nếu các bên lựa chọn phương thức
này thì một ưu điểm là pháp luật về bán
đấu giá tài sản hiện tại quy định khá đầy
đủ8. Đây là phương thức xử lý tài sản mà
theo đó tài sản bán đấu giá sẽ có cơ hội
bán được giá cao nhất, đồng thời cũng
đảm bảo được tính công khai minh bạch
bởi việc bán đấu giá được thực hiện
thông qua tổ chức đấu giá được thành
lập theo quy định của pháp luật, đấu giá
viên là người có trình độ, có chứng chỉ
hành nghề, việc tham gia đấu giá về
nguyên tắc là có nhiều người tham gia
trả giá Tuy nhiên biện pháp này cũng
có hạn chế là việc đấu giá phải thông
qua những trình tự, thủ tục nhất định dẫn
đến mất thời gian, bên bán đấu giá là tổ
chức thực hiện dịch vụ, do đó bên bảo
đảm sẽ mất một khoản chi phí.
Một vấn đề vướng mắc hiện nay trong
việc bán đấu giá bất động sản là đóng
thuế thu nhập bán, chuyển nhượng bất
động sản trước hay thanh toán cho bên
nhận bảo đảm trước. Theo quy định của
pháp luật về thuế thì đối với trường hợp
7Điều 300 Bộ luật dân sự 2015.
8Xem thêm Luật bán đấu giá tài sản 2017.
bán, chuyển nhượng bất động sản thì bên
bán phải nộp thuế thu nhập là 2% trên
giá trị của hợp đồng9, còn theo Điều 308
Bộ luật dân sự 2015, Điều 12 Nghị quyết
thí điểm về xử lý nợ xấu của các tổ chức
tín dụng của Quốc hội ngày 21-6-2017
thì ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo
đảm. Vấn đề sẽ không có gì xảy ra nếu
số tiến bán đấu giá bất động sản để đảm
bảo nghĩa vụ đủ để nộp thuế và thanh
toán nghĩa vụ của bên bảo đảm. Thực tế
cho thấy thì tiền bán đấu giá tài sản để
đảm bảo thi hành nghĩa vụ của bên bảo
đảm thường thấp hơn so với nghĩa vụ
phải thực hiện vì trong quá trình thế
chấp tài sản này bị hư hỏng hao mòn
hoặc mất giá, trong khi đó nghĩa vụ phải
thực hiện thì tăng lên, không những giá
trị tài sản thế chấp ban đầu mà còn tiền
lãi, tiền phạt hay tiền bồi thườngviệc
không rõ ràng trong quy định của các
luật đã gây khó khăn cho người mua
được tài sản đấu giá đã trả đủ tiền nhưng
không làm thủ tục sang tên chuyển
quyền sở hữu được, tài sản không thể
khai thác công dụng được dẫn đến thiệt
hại cho bên mua được tài sản và dẫn đến
khiếu nại kéo dài gây bất ổn cho quản lý
nhà nước và quản lý kinh tế. Hoặc
trường hợp bên phải xử lý tài sản bảo
đảm là bất động sản để thanh toán nghĩa
vụ còn nợ tiền thuế tiền sử dụng đất, khi
bán được tài sản thì có dùng tiền đó để
nộp thuế trước không hay thanh toán
trước cho bên nhận bảo đảm cũng là một
vướng mắc hiện nay.
9Khoản 7 Điều 14 Luật sửa đổi bổ sung các luật
thuế ngày 26-11-2014.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
20
Các bên có thể thỏa thuận bên nhận
bảo đảm tự bán bán tài sản, đây là một
biện pháp xử lý tài sản có ưu điểm là
bên nhân bảo đảm sẽ bán tài sản trên cơ
sở giá bán hai bên thỏa thuận vì vậy có
thể thực được thực hiện nhanh chóng và
không tốn kém chi phí như trường hợp
bán đấu giá. Tiền bán tài sản sẽ dùng để
thanh toán cho nghĩa vụ bảo đảm và
những chi phí phát sinh, nếu thừa thì trả
lại cho bên bảo đảm, nếu thiếu bên nhận
bảo đảm có quyền yêu cầu bên bảo đảm
thanh toán tiếp. Tuy nhiên vấn đề trên
chỉ thực hiện được nếu bên bảo đảm
thiện chí, hợp tác với bên nhận bảo đảm
trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Trường
hợp bên bảo đảm không hợp tác, các bên
không thỏa thuận được giá thì có thể
thông qua thủ tục tổ chức định giá10,
nhưng ai là người yêu cầu, trình tự thủ
tục như thế nào thì chưa có văn bản
hướng dẫn vì vậy việc định giá tài sản
bảo đảm thông qua tổ chức định giá còn
lúng túng.
Thực ra vấn đề này không phải là mới
mà trước đây trong thông tư liên tịch số
16/2014/ TTLT-BTP-BTNMT-NHNN
ngày 06 tháng 06 năm 2014 đã hướng
dẫn Nghị định 163/2006/NĐ-CP và
Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm
2006 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm và các quy định khác có liên
quan.Theo đó, nếu các bên không xác
định được giá bán thì bên bảo đảm có
quyền chỉ định cơ quan tổ chức có chức
năng thẩm định giá xác định tài sản
10Điều 306 Bộ luật dân sự 2015.
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày không
thỏa thuận được giá. Sau thời hạn 15
ngày bên bảo đảm không chỉ định được
cơ quan tổ chức thẩm định giá thì bên
nhận bảo đảm có quyền chỉ định cơ
quan, tổ chức có chức năng xác định
giá11. Tác giả cho rằng thông tư này vẫn
còn nguyên giá trị trong việc bên nhận
bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm, vì vậy
cần có một hướng dẫn tiếp nhận tư
tưởng của thông tư này hoặc có thông tư
thay thế, tạo điều kiện pháp lý cho bên
nhận bảo đảm bán tài sản bảo đảm được
thuận lợi. Đồng thời thông tư này cũng
quy định trong trường hợp không bán
được tài sản bảo đảm như giá đã xác
định thì bên nhận bảo đảm có quyền
giảm giá theo một tỷ lệ nhất định, nếu
qua ba lần giảm giá vẫn không bán được
thì tài sản đó sẽ thuộc bên nhận bảo đảm
và giá được xác định là mức giá của lần
hạ giá cuối cùng. Nếu tài sản này là
động sản hoặc bất động sản phải đăng ký
thì bên bảo đảm phải hợp tác với bên
nhận bảo đảm làm các thủ tục pháp lý
chuyển quyền sở hữu tài sản bảo đảm
theo quy định của pháp luật.
Xử lý tài sản bảo đảm bằng cách thức
bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản đó.
Việc Bộ luật dân sự 2015 thừa nhận một
cách cụ thể rõ ràng cách thức xử lý này
trong bộ luật là một sự tiến bộ, là một
bước phát triển trong quá trình lập pháp
và pháp điển hóa pháp luật. Quy định
này cũng tương đồng với pháp luật dân
11Điểm a khoản 1 Điều 10 thông tư liên tịch của
Bộ tư pháp, Bộ tài nguyên và môi trường, Ngân
hàng nhà nước ngày 6-6-2014 hướng dẫn xử lý
tài sản bảo đảm.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
21
sự của Cộng hòa Pháp12. Biện pháp xử
lý này cũng trở nên đơn giản, thuận tiện
nếu bên bảo đảm hợp tác, thiện chí với
bên nhận bảo đảm, các bên sẽ thỏa thuận
định giá để xác định giá tài sản bảo đảm
và thực hiện việc bù trừ nghĩa vụ. Nếu
không thỏa thuận được về giá trị của tài
sản bảo đảm thì các bên có thể yêu cầu
định giá thông qua tổ chức định giá. Bên
bảo đảm chuyển giao quyền sở hữu cho
bên nhận bảo đảm theo quy định của
pháp luật. Nếu biện pháp này được các
bên tự nguyện thực hiện sẽ đỡ tốn kém
chi phí, tiết kiện thời gian hơn trong biện
pháp bán đấu giá. Vấn đề nếu các bên
không thỏa thuận được trong việc xác
định giá trị tài sản bảo đảm thì áp dụng
cách tính giá tương tự như trường hợp
xác định giá trong trường hợp bên nhận
bảo đảm tự bán tài sản. Tuy nhiên biện
pháp này cũng có điểm hạn chế là bên
nhận thế chấp sẽ không được nhận tài
sản thế chấp nếu người nhận thế chấp tài
sản không đủ điều kiện là người sở hữu
loại tài sản đó. Ví dụ người nhận thế
chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp sẽ
không được nhận quyền sử dụng đất đó
nếu không là người trực tiếp canh tác
sinh sống bằng nghề nông nghiệp theo
quy định của pháp luật đất đai. Hay ngân
hàng thương mại khi nhận thế chấp dự
án nhà ở thương mại sẽ không thể nhận
chính tài sản thế chấp là dự án nhà ở
thương mại vì ngân hàng không có chức
năng kinh doanh nhà ở.
12Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt Nam – Bản án
và bình luận bản án – Tập 2, Nxb. Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam, 2017, tr. 235.
Các bên cũng có thể thỏa thuận các
biện pháp xử lý khác, đây là quy định
mở tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các
bên trong việc xử lý tài sản phù hợp với
điều kiện của mình. Đây cũng thể hiện
sự tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của
các bên nếu thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không
trái với đạo đức xã hội. Ví dụ các bên có
thể thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm
sẽ đưa tài sản bảo đảm vào khai thác và
các bên thỏa thuận việc cấn trừ việc khai
thác vào khoản nợ, tuy nhiên việc thỏa
thuận này cần được lập bằng văn bản và
quy định cụ thể việc đưa tài sản này vào
khai thác như thế nào? Trong thời hạn
bao nhiêu lâu? Giá trị của việc khai thác
và vấn đề cấn trừ nợ? Những thiệt hại
(nếu có) xảy ra khi bên bảo đảm khai
thác tài sản?...
Đồng thời các bên cũng có thể thỏa
thuận về việc đưa tài sản bảo đảm vào
việc cho thuê và tiền thu được từ hoạt
động cho thuê này, sẽ được chuyển cho
bên nhận bảo đảm để cấn trừ nợ. Có thể
nói đây là thỏa thuận ba bên giữa bên
bảo đảm, bên nhận bảo đảm và bên thuê
tài sản đang dùng để bảo đảm, theo đó
các bên cũng phải ghi nhận rõ ràng
quyền nghĩa vụ của các bên trong đó có
việc chuyển khoản tiền thuê cho bên
nhận bảo đảm để cấn trừ nợ.
Như vậy Bộ luật dân sự 2015 đã quy
định phương thức xử lý tài sản bảo đảm
nói chung, thế chấp nói riêng trên cơ sở
tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Nếu
các bên không có thỏa thuận về phương
thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản bảo
đảm được bán đấu giá theo quy định của
luật đấu giá tài sản. Việc thanh toán theo
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
22
thứ tự ưu tiên, nếu giao dịch bảo đảm
phát sinh hiệu lực đối kháng thì thanh
toán cho những nghĩa vụ phát sinh hiệu
lực đối kháng trước, nếu nghĩa vụ không
phát sinh hiệu lực đối kháng thì thanh
toán theo thứ tự xác lập biện pháp bảo
đảm13.
Ngoài việc quy định phương thức
chung xử lý tài sản bảo đảm Bộ luật dân
sự 2015 còn quy định cách thức xử lý tài
sản thế chấp là quyền sử dụng đất hoặc
tài sản liên quan đến quyền sử dụng đất.
Theo đó nếu chủ thể thế chấp quyền sử
dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn
liền với đất và người sử dụng đất đồng
thời là chủ sở hữu tài sản thì tài sản được
xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất, nếu không có
thỏa thuận khác. Nếu thế chấp quyền sử
dụng đất mà người sử dụng đất không
đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền
với đất, thì khi xử lý quyền sử dụng đất,
chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được
tiếp tục sử dụng quyền sử dụng đất trong
phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình,
quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp
trong mối liên hệ với chủ sở hữu tài sản
gắn liền với đất, được chuyển giao cho
người nhận chuyển quyền sử dụng đất,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác14
Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn
liền với đất mà không thế chấp quyền sử
dụng đất và chủ sở hữu tài sản thế chấp
đồng thời là người sử dụng đất thì khi xử
lý tài sản thế chấp, xử lý luôn quyền sử
dụng đất. Nếu chủ sở hữu tài sản không
13Điều 308 Bộ luật dân sự 2015.
14Điều 325 Bộ luật dân sự 2015.
đồng thời là người sử dụng đất thì khi xử
lý tài sản gắn liền với đất, người nhận
chuyển quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm
vi quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu tài
sản gắn liền với đất được chuyển giao,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác15.
Có thể nói đây là điểm mới, khai
thông những bế tắc trong quá trình xử lý
tài sản bảo đảm liên quan đến quyền sử
dụng đất trong suốt thời gian qua, khi
thế chấp quyền sử dụng đất mà không
thế chấp tài sản gắn liền với đất và
ngược lại và trường hợp chủ sở hữu
quyền sử dụng đất đồng thời là chủ sở
hữu tài sản gắn liền với đất và trường
hợp chủ sở hữu quyền sử dụng đất
không đồng thời là chủ sở hữu tài sản
gắn liền với đất. Quy định này đã tạo ra
cơ chế pháp lý thuận lợi trong việc xử lý
tài sản bảo đảm liên quan đến quyền sử
dụng đất. Trong đó vừa bảo đảm quyền
lợi của người nhận thế chấp, quyền lợi
của người có tài sản liên quan qua đó
góp phần ổn định các quan hệ xã hội,
thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.
Như đã phân tích ở trên, việc xử lý tài
sản bảo đảm nói chung và tài sản thế
chấp nói riêng chỉ thực hiện được thuận
lợi, nhanh chóng nếu bên bảo đảm thiện
chí, hợp tác trong việc xử lý tài sản bảo
đảm. Nhưng cũng có trường hợp bên
bảo đảm chậm không giao tài sản bảo
đảm cho bên nhận bảo đảm, mặc dù bên
nhận bảo đảm đã thông báo, đã thực hiện
quyền truy đòi hay thông báo và thực
hiện quyền thu giữ tài sản. Trong trường
15Điều 326 Bộ luật dân sự 2015.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
23
hợp này bên nhận bảo đảm không còn
cách nào khác ngoài khởi kiện ra Tòa án
để yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình
mà thủ tục tố tụng dân sự thường kéo
dài, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm
trong việc thu hồi nợ. Tác giả cho rằng,
trong trường hợp các bên đã có thỏa
thuận về việc xử lý tài sản bảo đảm
trong hợp đồng thế chấp, nếu tài sản bảo
đảm phải xử lý để thu hồi nợ cho bên
nhận bảo đảm mà bên bảo đảm không
thiện chí hợp tác trong việc giao tài sản,
buộc phải khởi kiện ra Tòa án thì nên áp
dụng thủ tục rút gọn, buộc bên bảo đảm
giao tài sản bảo đảm, có như vậy mới
bảo đảm quyền lợi của bên nhận bảo
đảm và thúc đẩy giao lưu dân sự phát
triển.
Quy định của một vài nước về xử lý
tài sản thế chấp:
Theo quy định của Bộ luật Dân sựcủa
Cộng hòa Pháp thì thế chấp tài sản bao
gồm thế chấp theo luật định, thế chấp tư
pháp và thế chấp theo thỏa thuận. Quy
trình xử lý tài sản thế chấp dựa trên các
quy tắc chung tại Bộ luật Dân sự và Luật
Tố tụng dân sự thi hành án.
Thủ tục áp dụng đối với tài sản bảo
đảm là động sản và bất động sản về cơ
bản là giống nhau, nghĩa là cần có sự
can thiệp của Tòa án. Đối với biện pháp
cầm cố động sản16 thì khi thanh toán
khoản nợ có bảo đảm không được thực
16Điều 2346 Bộ luật Dân sự Pháp 2006, tác giả
dịch từ:
https://www.legifrance.gouv.fr/affichCodeArticl
e.do?cidTexte=LEGITEXT000006070721&idA
rticle=LEGIARTI000006448813&dateTexte=&
categorieLien=cid.
hiện thì chủ nợ có quyền yêu cầu tư
pháp bán thanh lý tài sản bảo đảm, bên
cạnh đó cũng cấm chủ nợ được bán tài
sản theo cách thỏa thuận do lo sợ việc
chủ nợ sẽ bán với giá thấp hơn giá trị
thực của tài sản đó. Ngoài ra, chủ nợ sẽ
thành chủ sở hữu của tài sản bảo đảm
khi nghĩa vụ bảo đảm không thực hiện
nghĩa vụ với sự định giá tài sản bởi
chuyên gia định giá tài sản do tòa án chỉ
định hoặc do các bên lựa chọn17.
Đối với biện pháp cầm cố bất động
sản hay thế chấp bất động sản thì chủ nợ
có quyền tịch biên khi bên nợ không
thực hiện được nghĩa vụ thanh toán để
bán thanh lý sau đó chia trên giá trị
thanh lý của bất động sản. Tuy nhiên, để
thực hiện được quy trình này, chủ nợ
phải gửi thông báo cho bên nợ yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ thanh toán và đăng
yêu cầu này trên Trung tâm thế chấp,
sau đó, bất động sản thế chấp sẽ bị đóng
băng, bên nợ không thể cho thuê, bán và
thủ tục xử lý tài sản phải được bán tại
Tòa án. Tài sản sau khi bị tịch biên sẽ
được bán theo thỏa thuận dưới sự đồng ý
của Tòa án hoặc sẽ được bán theo thủ
tục đấu giá.
Đối với pháp luật Thái Lan:
Trước đây, việc yêu cầu xử lý tài sản
thế chấp phải thực hiện theo thủ tục tố
17 Điều 2348 Bộ luật Dân sự Pháp 2006, tác giả
dịch từ:
https://www.legifrance.gouv.fr/affichCodeArticl
e.do;jsessionid=FC13B5B481DDF781176F6EE
4674A5FE6.tplgfr41s_3?idArticle=LEGIARTI0
00006448832&cidTexte=LEGITEXT00000607
0721&dateTexte=20190902&categorieLien=id
&oldAction=&nbResultRech=.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
24
tụng dân sự tại Tòa án. Kể từ ngày
01/07/2016 sau khi Luật Biện pháp bảo
đảm trong kinh doanh (Business
Collateral Act 2015) có hiệu lực thi
hành, trong một số trường hợp chủ nợ có
quyền tự xử lý tài sản thế chấp. Ngoài
ra, luật này cho phép các bên thỏa thuận
lựa chọn cơ chế thực thi ngoài Tòa án,
trong đó bao gồm cả việc chỉ định người
xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp
tài sản bảo đảm là tài sản đồng kinh
doanh hoặc một dự án18. Với quy định
này, pháp luật Thái Lan cho phép các
bên có nhiều lựa chọn để xử lý tài sản
thế chấp khi bên bảo đảm không thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình, việc cho
phép các bên chỉ định người xử lý tài
sản thế chấp trong trường hợp tài sản
đồng kinh doanh hoặc một dự án sẽ giúp
cho bên nhận bảo đảm nhanh chóng tiếp
quản, triển khai hoạt động kinh doanh
khi bên bảo đảm không thực hiện nghĩa
vụ của mình mà không thông qua nhiều
thủ tục phức tạp.
Đối với pháp luật của Anh, thì Luật
Ngân hàng Anh (Banking Act 2009) cho
phép một bên được quyền thực hiện các
hành vi được các quy định trong văn bản
thỏa thuận về biện pháp bảo đảm mà các
bên đã thống nhất việc cần hoặc không
cần đến phán quyết của Tòa án để xử tài
sản thế chấp19. Như vậy, ngoài việc xử
18Mục 5 Luật Biện pháp bảo đảm trong kinh
doanh: Cưỡng chế tài sản thế chấp, tác giả dịch
từ:
https://library2.parliament.go.th/giventake/conte
nt_nla2557/law104-051158-1.pdf
19 Điểm f khoản 4 Điều 255 Luật Ngân hàng
Anh năm 2009, tác giả dịch từ:
lý tài sản bảo đảm theo phán quyết của
Tòa án, các bên có thể thỏa thuận tự
mình xử lý tài sản bảo đảm mà không
cần thực hiện thủ tục khởi kiện tại Tòa.
Khác với pháp luật của Pháp cấm chủ nợ
được bán tài sản theo cách thỏa thuận do
lo sợ việc chủ nợ sẽ bán với giá thấp hơn
giá trị thực của tài sản đó thì pháp luật
của Anh cho phép bên nhận bảo đảm tự
mình thực hiện việc xử lý tài sản bảo
đảm khi các bên đã có thỏa thuận ban
đầu.
Bộ luật thương mại thống nhất Hoa
Kỳ (UCC) quy định về sử lý tài sản thế
chấp sau khi không trả nợ đúng kỳ
hạn20:Sau khi tuyên bố không trả được
nợ, bên nhận bảo đảm có thể bán, cho
thuê, cấp phép hoặc xử lý bất kỳ hoặc tất
cả các tài sản thế chấp trong điều kiện
hiện tại của mình hoặc theo bất kỳ sự
chuẩn bị hoặc xử lý hợp lý về mặt
thương mại nào.Mọi khía cạnh của việc
xử lý tài sản thế chấp, bao gồm phương
pháp, cách thức, thời gian, địa điểm và
các điều khoản khác, phải hợp lý về mặt
thương mại. Nếu hợp lý về mặt thương
mại, bên nhận bảo đảm có thể xử lý tài
sản thế chấp bằng thủ tục tố tụng công
khai hoặc riêng tư, bằng một hoặc nhiều
hợp đồng, tại bất kỳ thời điểm và địa
điểm nào và theo bất kỳ điều khoản nào.
Như vậy, tài sản thế chấp sau khi bên
bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ đúng
hạn thì bên nhận bảo đảm có thể khởi
kiện tại Tòa, nhận mua từ bên bảo đảm
https://www.legislation.gov.uk/ukpga/2009/1/se
ction/255
20Mục 9, Điều 610 UCC, tác giả dịch từ:
https://www.law.cornell.edu/ucc/9/9-610
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
25
hoặc bên nhận bảo đảm định đoạt như
cho thuê, cấp phép hoặc định đoạt khác
bao gồm các bảo đảm liên quan đến
quyền sở hữu, hưởng thụ và các hoạt
động tương tự của pháp luật đi kèm với
việc định đoạt tài sản thuộc loại hợp
đồng.
4. KIẾN NGHỊ
Từ những phân tích trên đây và qua
nghiên cứu pháp luật của Anh, Pháp,
Thái Lan và Hoa Kỳ tác giả kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền ban hành, sửa đối,
hướng dẫn những quy định liên quan
đến xử lý tài sản bảo đảm nói chung và
tài sản thế chấp nói riêng.
Thứ nhất: Cần ban hành quy trình, thủ
tục, trình tự về việc thu giữ tài sản của
bên nhận thế chấp nhằm tạo ra hành lang
an pháp lý an toàn cho bên bảo đảm, bên
nhận bảo đảm và đảm bảo trật tự an toàn
xã hội.
Thứ hai: Cần ban hành văn bản quy
định trình tự thủ tục (Ai có quyền yêu
cầu? Thời gian yêu cầu? Hệ quả của việc
yêu cầu?...) việc thẩm định giá tài sản
bảo đảm thông qua tổ chức định giá tài
sản.
Thứ ba: Cần có hướng dẫn thống nhất
về việc khi bán đấu giá tài sản là bất
động sản thì tiền bán được ưu tiên đóng
thuế trước hay thanh toán cho bên nhận
bảo đảm trước nhằm bảo vệ quyền lợi
của bên mua được tài sản đấu giá. Theo
tác giả cần quy định theo hướng đóng
thuế thu nhập cá nhân trước còn lại thì
thanh toán cho bên nhận bảo đảm theo
thứ tự ưu tiên mà pháp luật đã quy định.
Ngoài ra còn một số khoản tiền khác
cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể như
phí bán đấu giá, hoặc trong trường hợp
cơ quan thi hành án bán đấu giá thì liên
quan đến tiền án phí.
Thứ tư: Quy định trình tự, thủ tục bên
nhận bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm và
hệ quả của việc tự bán tài sản.
Thứ năm: Các bên có thỏa thuận về
việc bên nhận bảo đảm (thế chấp) nhận
chính tài sản bảo đảm thì bên nhận bảo
đảm có quyền nhận tất cả các tài sản bảo
đảm (thế chấp) kể cả trường hợp họ
không đủ điều kiện là chủ sở hữu nhưng
buộc họ phải bán, chuyển nhượng cho
chủ thể đủ điều kiện trong một thời hạn
nhất định. Có như vậy mới bảo đảm
tuyệt đối quyền của bên nhận thế chấp
và giải quyết dứt điểm quan hệ dân sự đã
đến hạn thực hiện và hạn chế tranh chấp
kéo dài.
Thứ sáu: Trường hợp bên nhận thế
chấp đã thông báo về việc thu giữ tài
sản, thực tế đã tiến hành thu giữ tài sản
bảo đảm nhưng bên bảo đảm không hợp
tác, không giao tài sản thì bên thế chấp
khởi kiện ra Tòa án thì áp dụng thủ tục
tố tụng rút gọn để giải quyết nhằn tránh
tình trạng bên bảo đảm gây khó khăn
kéo dài vụ việc.
5. KẾT LUẬN
Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế
chấp là yếu tố cốt lõi của quan hệ thế
chấp, xuyên suốt toàn bộ quá trình xác
lập và thực hiện hợp đồng thế chấp, đảm
bảo quyền lợi cho các bên trong quan hệ.
Xử lý tài sản thế chấp nói riêng và tài
sản bảo đảm nói chung được Đảng và
Nhà nước rất quan tâm, đã ban hành
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
26
nhiều chính sách, những quy định để
việc xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng
hiệu quả bảo đảm lợi ích của bên nhận
bảo đảm và lợi ích của các bên liên
quan, bảo đảm trật tự xã hội. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện vẫn còn những
bất cập khó khăn cần phải sửa đổi bổ
sung hoàn thiện pháp luật về xử lý tài
sản bảo đảm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự Pháp.
2. Bộ luật thương mại thống nhất
Hoa Kỳ (UCC)
3. Bộ tư pháp –Bộ Tài nguyên và
Môi trường –Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Thông tư liên tich số 16/2014/
TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày
06/06/2014 hướng dẫn một số vấn đề về
xử lý tài sản bảo đảm. Truy cập ngày
15/8/2015. Địa chỉ truy
cập:https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/tien-te-ngan-hang/Thong-tu-lien-
tich-16-2014-TTLT-BTP-BTNMT-
NHNN-huong-dan-xu-ly-tai-san-bao-
dam-235905.aspx.
4. Chính phủ, 2006, Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về
giao dịch bảo đảm. Truy cập ngày
15/8/2015. Địa chỉ truy
cập:https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Quyen-dan-su/Nghi-dinh-163-2006-
ND-CP-giao-dich-bao-dam-16240.aspx.
5. Luật Biện pháp bảo đảm trong
kinh doanh (Business Collateral Act
2015) của Thái Lan.
6. Luật Ngân hàng Anh (Banking
Act 2009).
7. Quốc hội, 2014, Luật số
71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 sử đổi,
bổ sung một số điều của các luật về thuế.
Truy cập ngày 15/8/2015. Địa chỉ truy
cập: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Thue-Phi-Le-Phi/Luat-sua-doi-cac-
Luat-ve-thue-2014-259208.aspx.
8. Quốc hội, 2015, Bộ luật Dân sự
2015 ngày 24/11/2015 có hiệu lực ngày
01/01/2017. Truy cập ngày 15/8/2015.
Địa chỉ truy cập:
https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015-
296215.aspx.
9. Quốc hội, 2017, Nghị quyết số
42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí
điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín
dụng. Truy cập ngày 15/8/2015. Địa chỉ
truy cập: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Tien-te-Ngan-hang/Nghi-quyet-42-
2017-QH14-thi-diem-xu-ly-no-xau-cac-
to-chuc-tin-dung-353638.aspx.
Sách, tạp chí, tài liệu hội thỏa, trích
từ website
1. Ban truyền thông, 2018. Quy định
về xử lý tài sản bảo đảm. xem tại:
dinh-ve-xu-ly-tai-san-bao-dam.html.
Truy cập ngày 25/8/2019.
2. Bùi Đức Giang, 2017. Xử lý tài
sản bảo đảm theo Bộ luật Dân sự 2015,
Tạp chí Ngân hàng, số 1-2/2017.
3. Đỗ Văn Đại, 2017. Luật nghĩa vụ
dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự Việt Nam – Bản án và bình luận
bản án – Tập 2, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
27
4. Đoàn Thị Ngọc Hải, 2018. Thế
chấp tài sản - biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự. xem tại:
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghie
n-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2376. Truy
cập ngày 25/8/2019.
5. Đinh Hải Sơn, 2018. Trình tự, thủ
tục, quy trình phát mại tài sản thu hồi nợ
thông qua hình thức đấu giá tài sảN. xem
tại:
nt.aspx?contentId=14089&lang=1&strM
onth=07&strYear=2018. Truy cập ngày
25/8/2019.
6. Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh, 2017. Giáo trình pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Nxb Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam.
HANDLING PROPERTY MORTGAGES ACCORDING TO
VIETNAMESE CIVIL LAW 2015
Nguyen Xuan Quang1 and Nguyen Phuoc Quy Quang
1Ho Chi Minh University of Law, 2Mien Dong University
(Email: nguyenphuocquyquang@gmail.com)
ABSTRACT
In the context of the current economy when civil and commercial transactions are
increasingly established, disputes and litigation are also increasing. Property mortgages
are considered as one of the most effective legal instruments to limit the risks that may
arise from loan and credit transactions. Collateral and collateral handling are the core
elements of mortgage relations, throughout the entire process of establishing and
implementing mortgage contracts, ensuring the interests of parties in the relationship. In
this article, the author will analyze and comment on the process of handling collateral
according to Vietnamese civil law and the experience of some countries.
Keywords: Property mortgage, handling, obligation, compensation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xu_ly_tai_san_the_chap_theo_quy_dinh_cua_bo_luat_dan_su_2015.pdf