Nếu hợp đồng thế chấp đúng pháp
luật, hết thời hạn, nghĩa vụ trong hợp đồng
thế chấp chỉ liên quan đến người bị buộc tội,
tài sản còn giá trị sử dụng thì phát mại, chia
theo phần để xác định giá trị tài sản thuộc sở
hữu của người bị buộc tội sau đó thanh lý
hợp đồng thế chấp, nếu giá trị không đủ để
thanh lý thì hướng dẫn bên nhận thế chấp
yêu cầu giải quyết quyền lợi theo thủ tục tố
tụng dân sự. Sau thanh lý hợp đồng thế chấp,
giá trị tài sản nếu còn được tịch thu, sung
quỹ Nhà nước. Phần giá trị tài sản thuộc
quyền sở hữu của các bên khác thì thanh
toán cho các bên khác, nếu các bên khác
không đồng ý thì hướng dẫn giải quyết theo
thủ tục tố tụng dân sự.
Trường hợp hợp đồng thế chấp tài sản
đúng pháp luật, tài sản thế chấp hư hỏng,
không còn giá trị sử dụng thì hướng dẫn các
bên giải quyết quyền lợi theo thủ tục tố tụng
dân sự. Trường hợp hợp đồng thế chấp tài sản
không đúng pháp luật thì yêu cầu Toà án
tuyên hợp đồng vô hiệu, phát mại tài sản để
xác định giá trị tài sản thuộc sở hữu của người
bị buộc tội để tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Giá trị tài sản thuộc sở hữu của các bên khác
thì trả lại cho các bên khác, nếu họ không
đồng ý thì hướng dẫn họ yêu cầu giải quyết
quyền lợi theo thủ tục tố tụng dân sự
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử lý vật chứng vụ án hình sự là tài sản thế chấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 1(401) - T1/202050 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Quy định của pháp luật về xử lý vật
chứng vụ án hình sự là tài sản thế chấp
1.1. Chủ thể có thẩm quyền xử lý vật
chứng
Vật chứng trong tố tụng hình sự
(TTHS) là phương tiện quan trọng để chứng
minh tội phạm. Vật chứng là những vật thể
tồn tại ngoài thế giới khách quan có chứa
đựng dấu vết của tội phạm được các cơ quan
tiến hành tố tụng thu thập dùng làm căn cứ
để chứng minh tội phạm1. Vật chứng thu giữ
được bảo quản nguyên vẹn, không để mất
mát, lẫn lộn và hư hỏng. Việc xử lý vật
chứng được thực hiện theo quy định Bộ luật
TTHS năm 2015 (Bộ luật TTHS).
1 PGS,TS. Nguyễn Ngọc Chí - TS. Lê Lan Chi (đồng chủ biên) (2019), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.222.
XỬ LÝ VẬT CHỨNG VỤ ÁN HÌNH SỰ
LÀ TÀI SẢN THẾ CHẤP
Nguyễn Phương Anh*
ThS. Khoa Pháp luật Hình sự - Đại hoc Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Xử lý vật chứng, tài sản thế chấp,
vụ án hình sự.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/01/2020
Biên tập : 04/01/2020
Duyệt bài : 05/01/2020
Article Infomation:
Keywords: handling of exhibits; mortgaged
assets; criminal cases.
Article History:
Received : 01 Jan. 2020
Edited : 04 Jan. 2020
Approved : 05 Jan. 2020
Tóm tắt:
Để đảm bảo thực hiện tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp cho những người tham gia tố tụng và các chủ thể khác
có liên quan, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã có nhiều
quy định về việc xử lý vật chứng trong vụ án hình sự nói
chung. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về vấn đề
xử lý vật chứng của vụ án hình sự là tài sản thế chấp, gây
vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật.
Abstract:
It is to ensure well-done execution of the criminal investi
gations, prosecutions, adjudication and enforcement and to
also ensure the legal rights and interests for the participants
in legal proceedings and other relevant entities, the current
criminal procedure law has recorded several provisions on the
handling of exhibits in general criminal cases. However, at
present there are no specific provisions on the handling of
physical evidence of the criminal cases which are mortgaged
properties, causing problems in the process of the law
enforcement.
51Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Theo quy định tại khoản 1 Điều 106
Bộ luật TTHS, nếu vụ án được đình chỉ ở
giai đoạn điều tra thì thẩm quyền xử lý vật
chứng thuộc về Cơ quan điều tra, Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra. Nếu vụ án được đình chỉ ở giai
đoạn truy tố thẩm quyền xử lý vật chứng
thuộc về Viện kiểm sát. Thẩm quyền xử lý
vật chứng thuộc về Chánh án Toà án nếu vụ
án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử
và thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử
nếu vụ án đã đưa ra xét xử.
1.2. Biện pháp xử lý vật chứng
Bộ luật TTHS quy định việc xử lý vật
chứng được thực hiện như sau: vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng
trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách
nhà nước hoặc tiêu hủy; vật chứng là tiền
bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch
thu, nộp ngân sách nhà nước; vật chứng
không có giá trị hoặc không sử dụng được
thì bị tịch thu và tiêu hủy (khoản 2 Điều 106
Bộ luật TTHS). Ngoài ra, trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có
thẩm quyền cũng có thể: i) Trả lại ngay tài
sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là
vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý hợp pháp tài sản đó; ii) Trả lại ngay vật
chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến
việc xử lý vụ án và thi hành án; iii) Nếu vật
chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo
quản thì có thể được bán theo quy định của
pháp luật, trường hợp không được bán thì
tiêu huỷ; iv) Nếu vật chứng là động vật
hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau
khi có kết luận giám định phải giao cho cơ
quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền
xử lý theo quy định của pháp luật (khoản 3
Điều 106 Bộ luật TTHS). Bộ luật TTHS
cũng hướng dẫn trong trường hợp có tranh
chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì
tranh chấp này được giải quyết theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy, khi thu được vật chứng là tài
sản nói chung, tuỳ vào từng giai đoạn cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ xử
lý vật chứng theo nguyên tắc chung là tịch
thu nộp ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu
huỷ, trả lại cho chủ sở hữu/người quản lý
hợp pháp, bán hoặc giao cho cơ quan quản
lý chuyên ngành xử lý. Tuy nhiên, trong
trường hợp vật chứng thu được là tài sản thế
chấp thì hiện nay pháp luật chưa có hướng
dẫn cụ thể về phương án xử lý.
1.3. Xử lý vật chứng là tài sản thế chấp
Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015
(BLDS) về thế chấp tài sản quy định:
“1. Thế chấp tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận thế chấp).
2. Tài sản thế chấp do bên thế chấp
giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho
người thứ ba giữ tài sản thế chấp”.
Theo tinh thần của BLDS hiện hành,
các bên trong giao dịch dân sự có thể áp
dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
là thế chấp tài sản. Tức là, bên thế chấp dùng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên
nhận thế chấp và không phải chuyển giao tài
sản đó cho bên nhận thế chấp2. Nói cách
khác, khi áp dụng biện pháp bảo đảm này,
bên thế chấp không cần giao tài sản cho bên
nhận thế chấp giữ, nếu không có thoả thuận
khác thì bên thế chấp vẫn sử dụng tài sản bảo
đảm bình thường, có thể thu các hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ việc sử dụng tài sản đã dùng
để thế chấp.
2 ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải (2018), “Thế chấp tài sản – Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Cổng
thông tin điện tử Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2376,
truy cập ngày 15/ 01/2020.
Số 1(401) - T1/202052 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Điều 318 BLDS quy định, tài sản thế
chấp có thể là bất động sản hoặc động sản. Nếu
tài sản thế chấp có liên quan đến vụ án hình sự
thì tài sản này sẽ bị xử lý theo quy định.
Để phù hợp với tinh thần của Bộ luật
TTHS, hiện nay chưa có văn bản nào của cơ
quan có thẩm quyền quy định chi tiết về việc
xử lý vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản
thế chấp. Trước đây, khi Bộ luật TTHS năm
1988 còn hiệu lực, liên ngành Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đã
ban hành Thông tư liên tịch số
06/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-
BCA-BTC-BTP ngày 24/10/1998 hướng
dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý tài
sản là vật chứng, tài sản bị kê biên trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự3.
Theo đó, đối với vật chứng là kho tàng, nhà
xưởng, khách sạn, nhà, đất, cũng như các
phương tiện sản xuất, kinh doanh khác mà
trước đó bị can, bị cáo đã thế chấp để bảo
đảm nghĩa vụ thanh toán, thì cơ quan đang
thụ lý, giải quyết vụ án xử lý như sau4:
Trường hợp thứ nhất, vật chứng là tài
sản được thế chấp hợp pháp cho một hoặc
nhiều bên mà hợp đồng thế chấp tài sản vẫn
còn thời hạn, thì tuỳ trường hợp cụ thể, cơ
quan đang thụ lý, giải quyết vụ án có thể
giao cho một hoặc nhiều bên đang giữ tài sản
thế chấp (người có tài sản thế chấp, người
nhận thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản
thế chấp) tiếp tục khai thác, sử dụng tài sản
đó. Trong trường hợp, bên đang giữ tài sản
thế chấp là người có tài sản thế chấp hoặc
người nhận thế chấp không có điều kiện khai
thác, sử dụng, thì họ được tìm đối tác để khai
thác, sử dụng. Cơ quan đang thụ lý, giải
quyết vụ án có thể giao cho đối tác đó khai
thác, sử dụng tài sản sau khi có thoả thuận
bằng văn bản giữa người có tài sản thế chấp
hoặc người nhận thế chấp và đối tác nhận
khai thác, sử dụng tài sản. Nếu người đang
giữ tài sản thế chấp là người thứ ba và họ
không có điều kiện khai thác, sử dụng, thì
tuỳ từng trường hợp cụ thể theo thoả thuận
trong hợp đồng thế chấp tài sản, người đó
phải trả lại tài sản cho bên có tài sản thế chấp
hoặc bên nhận thế chấp để những người này
tìm đối tác khai thác, sử dụng. Trong trường
hợp, họ không tìm được đối tác thì cơ quan
đang thụ lý, giải quyết vụ án có thể giao tài
sản cho tổ chức hoặc cá nhân có điều kiện
khai thác, sử dụng trên cơ sở thoả thuận bằng
văn bản giữa cơ quan đang thụ lý, giải quyết
vụ án và tổ chức, cá nhân nhận khai thác, sử
dụng tài sản.
Trong trường hợp, hợp đồng thế chấp
hợp pháp đã hết thời hạn mà bên thế chấp tài
sản không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình, thì tuỳ từng trường
hợp cụ thể, tài sản thế chấp được giao cho
bên nhận thế chấp khai thác, sử dụng hoặc
xử lý để thu hồi vốn và lãi sau khi đã lập đầy
đủ hồ sơ bảo đảm giá trị chứng minh của tài
sản là vật chứng. Phương thức xử lý do các
bên trong hợp đồng thế chấp thoả thuận; nếu
không thoả thuận được, thì bên nhận thế
chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản
thế chấp, cầm cố để thanh toán nợ.
Hoa lợi, lợi tức thu được từ việc khai
thác, sử dụng tài sản thế chấp và số tiền thu
được từ việc xử lý tài sản thế chấp được dùng
để thanh toán nợ cho bên nhận thế chấp, sau
khi đã trừ các chi phí thực tế hợp lý cho việc
bảo quản, khai thác, sử dụng tài sản thế chấp
và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Người khai thác, sử dụng phải lập sổ hạch
toán, theo dõi riêng để phục vụ cho việc thi
hành bản án, quyết định của Toà án sau này.
Nếu Toà án quyết định bên nhận thế chấp
không được quyền thanh toán như trên, thì
hoa lợi, lợi tức hoặc số tiền thu được từ việc
xử lý tài sản phải trả lại cho người có quyền
3 Sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 06/1998.
4 Mục 5 Phần I Thông tư liên tịch số 06/1998.
53Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nhận hoa lợi, lợi tức hoặc số tiền đó, sau khi
trừ các chi phí hợp lý cho việc bảo quản, khai
thác, sử dụng và chi phí việc xử lý tài sản và
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Trường hợp thứ hai, hợp đồng thế
chấp không hợp pháp, thì trong thời gian
chưa có tuyên bố hợp đồng đó bị vô hiệu của
Toà án, cơ quan đang thụ lý, giải quyết vụ
án tạm giao tài sản thế chấp cho bên đang
giữ tài sản thế chấp tiếp tục khai thác, sử
dụng. Trong trường hợp, người đang giữ tài
sản là bên có tài sản thế chấp hoặc bên nhận
thế chấp không có điều kiện khai thác, sử
dụng, nhưng họ tìm được đối tác để khai
thác, sử dụng, thì cơ quan đang thụ lý, giải
quyết vụ án có thể giao cho đối tác đó khai
thác, sử dụng tài sản sau khi có thoả thuận
bằng văn bản giữa người có tài sản thế chấp
hoặc người nhận thế chấp và đối tác nhận
khai thác, sử dụng tài sản. Nếu người đang
giữ tài sản thế chấp là người thứ ba và họ
không có điều kiện khai thác, sử dụng, thì
tuỳ từng trường hợp cụ thể theo thoả thuận
trong hợp đồng thế chấp tài sản, người đó
phải trả lại tài sản cho bên có tài sản thế chấp
hoặc bên nhận thế chấp để những người này
tìm đối tác khai thác, sử dụng. Trong trường
hợp, họ không tìm được đối tác khai thác, sử
dụng, thì cơ quan đang thụ lý, giải quyết vụ
án có thể giao tài sản cho tổ chức, cá nhân
có điều kiện khai thác, sử dụng trên cơ sở
thoả thuận bằng văn bản giữa cơ quan đang
thụ lý, giải quyết vụ án và tổ chức, cá nhân
nhận khai thác, sử dụng tài sản.
Người khai thác, sử dụng tài sản có
trách nhiệm bảo quản, khai thác, sử dụng và
không được làm mất mát, hư hỏng, không
được phát mại, chuyển quyền sở hữu cho
đến khi có bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật.
Hoa lợi, lợi tức thu được tạm thời giao
cho người đang giữ tài sản hoặc người khai
thác, sử dụng quản lý cho đến khi có bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật, sau khi đã trừ các chi phí thực tế hợp
lý cho việc bảo quản, khai thác, sử dụng tài
sản thế chấp và thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước.
Trường hợp thứ ba, tài sản là vật
chứng được dùng để thế chấp cho nhiều bên,
trong đó có bên hợp pháp và có bên không
hợp pháp, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, cơ
quan đang thụ lý, giải quyết vụ án chỉ cho
phép bên có tài sản thế chấp, bên nhận thế
chấp hợp pháp hoặc người thứ ba đang giữ
tài sản của họ nhận khai thác, sử dụng. Trong
trường hợp này, tài sản được giao để bảo
quản, sử dụng, khai thác không được xử lý
để thu hồi vốn trước khi kết thúc vụ án.
Hoa lợi, lợi tức thu được được tạm
thời dùng để thanh toán nợ cho bên nhận thế
chấp hợp pháp cho đến khi có quyết định,
bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án, sau
khi đã trừ các chi phí thực tế hợp lý cho việc
bảo quản, khai thác, sử dụng tài sản thế chấp
và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
38 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày
14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật: “Văn bản
quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản
quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi
hành các điều, khoản, điểm được giao quy
định chi tiết thi hành văn bản đó đồng thời
hết hiệu lực”. Đồng thời, Mục 10 Nghị quyết
số 33/NQ-CP ngày 09/5/2016 của Chính phủ
cũng hướng dẫn: “Đối với các văn bản quy
định chi tiết của các luật, pháp lệnh đã hết
hiệu lực nhưng chưa ban hành kịp thời văn
bản thay thế, Chính phủ thống nhất tiếp tục
áp dụng nếu không trái với tinh thần của
luật, pháp lệnh mới được ban hành”. Vì
vậy, mặc dù Bộ luật TTHS năm 1988 đã hết
hiệu lực nhưng liên ngành Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp chưa
ban hành Thông tư liên tịch mới thay thế cho
Thông tư liên tịch số 06/1998, đồng thời
những nội dung được hướng dẫn trước đây
Số 1(401) - T1/202054 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
vẫn có những điểm còn phù hợp với tinh
thần của Bộ luật TTHS nên có thể sử dụng
Thông tư liên tịch số 06/1998, làm cơ sở
hướng dẫn xử lý vật chứng là tài sản thế
chấp trong vụ án hình sự.
2. Một số vướng mắc trong quá trình áp
dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
2.1 Một số vướng mắc trong quá
trình áp dụng áp luật về xử lý vật chứng
trong vụ án hình sự là tài sản thế chấp
Như đã phân tích, do chưa có văn bản
chính thức hướng dẫn cụ thể, chi tiết về vấn
đề xử lý vật chứng là tài sản thế chấp nên
trên thực tế, việc áp dụng luật trong xử lý vật
chứng gặp những vướng mắc nhất định. Ví
dụ trong vụ án hình sự5 sau:
Ngày 21/9/2018 và ngày 22/9/2018,
Phan Ngọc R điều khiển xe ôtô tải đi trộm
cắp tài sản là gỗ keo nguyên liệu. Công an
đã thu giữ xe ô tô tải. Quá trình điều tra đã
xác định được xe ô tô tải mà Phan Ngọc R
dùng làm phương tiện đi trộm cắp là tài sản
chung của vợ chồng R mua năm 2016 với số
tiền là 137.000.000 đồng. Ngày 07/3/2018,
Phan Ngọc R dùng xe ô tô tải thế chấp tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn để vay số tiền 70.000.000 đồng, đến
ngày 07/3/2019 thì hết hạn hợp đồng. Giấy
tờ gốc của xe ô tô (đăng ký, đăng kiểm,
chứng nhận bảo hiểm) do Ngân hàng quản
lý. Phan Ngọc R bị Viện kiểm sát nhân dân
huyện P truy tố về tội “trộm cắp tài sản”.
Trong vụ án này, có nhiều quan điểm
khác nhau về việc xử lý vật chứng được thu
giữ (xe ô tô tải) như:
Quan điểm thứ nhất: Xe ô tô tải là tài
sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng Phan
Ngọc R được xác định là phương tiện phạm
tội, R dùng xe ô tô tải làm phương tiện đi
trộm cắp tài sản, thì áp dụng điểm a khoản 1
Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS),
điểm a khoản 1 Điều 106 Bộ luật TTHS, tịch
thu sung vào ngân sách nhà nước (nếu vợ
Phan Ngọc R biết R dùng xe ô tô tải làm
phương tiện đi trộm cắp tài sản). Tịch thu ½
giá trị xe để sung vào ngân sách nhà nước,
trả lại cho vợ Phan Ngọc R ½ giá trị xe ô tô
tải (nếu vợ R không biết R dùng xe ô tô tải
làm phương tiện đi trộm cắp tài sản). Việc
Phan Ngọc R dùng xe ô tô tải để thế chấp tại
Ngân hàng không làm mất đi quyền sở hữu
của Phan Ngọc R khi Phan Ngọc R dùng làm
phương tiện phạm tội thì xử lý theo quy định
của pháp luật.
Quan điểm thứ hai: Xe ô tô tải là tài
sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng Phan
Ngọc R, nhưng Phan Ngọc R đã dùng xe ô
tô tải để thế chấp tại Ngân hàng vay số tiền
là 70.000.000 đồng. Vì vậy, giao lại xe cho
Ngân hàng để Ngân hàng xử lý tài sản đảm
bảo (vì đã hết thời hạn vay, nhưng Phan
Ngọc R không có khả năng trả nợ).
Quan điểm thứ ba: Xe ô tô tải là tài sản
thuộc quyền sở hữu của vợ chồng Phan
Ngọc R, nhưng Phan Ngọc R đã dùng xe ô
tô tải để thế chấp tại Ngân hàng vay số tiền
là 70.000.000 đồng. Tuy nhiên, xe ô tô tải
mua ban đầu với số tiền là 137.000.000
đồng. Do đó, áp dụng điểm a khoản 1, khoản
2 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 1 Điều 106
Bộ luật TTHS năm 2015 tịch thu xe ôtô tải,
giao cho Ngân hàng bán đấu giá để thu hồi
số tiền mà bị cáo R đã vay là 70.000.000
đồng và tiền lãi (vì đã hết thời hạn vay,
nhưng Phan Ngọc R không có khả năng trả
nợ). Số tiền bán xe ôtô tải sau khi trừ tiền
vay, lãi và chi phí bán đấu giá còn lại (nếu
còn) chia đôi, trả cho vợ Phan Ngọc R ½ số
tiền. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước
½ số tiền (phần của Phan Ngọc R).
Thực tế cũng đã có trường hợp, Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xử lý
5 Phan Thị Lan (TAND huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam) (2019), Xử lý vật chứng của vụ án là tài sản thế
chấp như thế nào cho đúng?, Tạp chí Toà án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/xu-ly-vat-
chung-cua-vu-an-la-tai-san-the-chap-nhu-the-nao-cho-dung, truy cập ngày 15 tháng 01 năm 2020.
55Số 1(401) - T1/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
vật chứng là tài sản bảo đảm hướng theo
điểm thứ nhất ở vụ án trên6:
Nguyễn Thị A (ngụ tại thành phố Vũng
Tàu) là chủ sở hữu 3 tàu đánh cá (số hiệu:
BV-9244-TS, BV-9342-TS, BV-5741-TS) và
đã thế chấp cho Ngân hàng Công thương
Việt Nam Chi nhánh Bà Rịa – Vũng Tàu
(cho 3 hợp đồng tín dụng với tổng nợ gốc
2.250.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng
và 60 tháng) theo các hợp đồng thế chấp số
0612.0278 ngày 24/11/2006, số 0612.0299
ngày 28/12/2006 và số 0744.0003 ngày
10/01/2007 (các hợp đồng thế chấp đã được
công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm
tại Trung tâm Đăng ký giao dịch bảo đảm tại
TP. Hồ Chí Minh). Tháng 4/2007, Nguyễn
Thị A cùng 4 đồng phạm khác dùng 3 tàu
trên đi biển để cắt cáp viễn thông. Khi bị
khởi tố hình sự, cơ quan điều tra đã kê biên
và giao 3 tàu cá cho gia đình A quản lý. Tại
Bản án sơ thẩm số 83/2008/HS-ST ngày
04/04/2008, Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu đã tuyên: Nguyễn Thị A và các
đồng phạm khác phạm vào tội “phá huỷ
công trình, phương tiện quan trọng về an
ninh quốc gia”, với các mức án từ 3 đến 12
năm tù; xét thấy: trước khi các bị cáo sử
dụng 3 tàu đánh cá làm phương tiện phạm
tội thì 3 tàu này đã được thế chấp hợp pháp
cho ngân hàng nên bản án đã giao cho Ngân
hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh Bà
Rịa – Vũng Tàu cùng thi hành án và gia đình
bà A thanh lý trước hạn 3 hợp đồng tín dụng,
xử lý bán 3 tài sản bảo đảm để thu hồi nợ
vay, phần giá trị còn lại, nếu có, tịch thu
sung quỹ nhà nước. Ngày 18/4/2008, Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
đã có kháng nghị số 210/VKS đề nghị Toà
phúc thẩm căn cứ Điều 41 BLHS tuyên xử
tịch thu 3 chiếc tàu để sung quỹ nhà nước
(các bị cáo cũng có kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt).
Tại phiên toà phúc thẩm ngày
19/9/2008, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tối cao giữ nguyên kháng nghị và Hội đồng
xét xử đã tuyên bác các kháng cáo và chấp
nhận kháng nghị về việc xử lý tịch thu 3 tàu
cá là vật chứng, với nhận định mặc dù 3 tàu
cá được thế chấp hợp lệ nhưng việc thế chấp
không làm mất đi quyền sở hữu (của A với 3
tàu cá) nên vẫn đủ điều kiện tịch thu.
Có thể thấy rằng, nếu hiểu và áp dụng
pháp luật như quan điểm thứ nhất sẽ làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bên nhận thế chấp hợp pháp
và cũng không đúng với tinh thần của Thông
tư liên tịch số 06/1998.
Đối với quan điểm thứ hai, nếu chỉ xử
lý vật chứng theo hướng giao tài sản cho bên
nhận thế chấp cùng những người có liên
quan phát mại, thanh lý hợp đồng thế chấp
giữa các bên trước đó sẽ không phù hợp với
quy định về hướng xử lý vật chứng theo quy
định của Bộ luật TTHS.
Tác giả cho rằng, việc xử lý vật chứng
là tài sản thế chấp như quan điểm thứ ba là
hợp lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho người tham gia tố tụng và những chủ thể
khác có liên quan, đồng thời phù hợp với quy
định của Bộ luật TTHS, BLDS. Tuy nhiên,
hướng xử lý này vẫn chỉ dừng lại ở quan
điểm cá nhân, cần thiết phải có hướng dẫn
chính thức từ cơ quan có thẩm quyền để việc
áp dụng pháp luật được thống nhất, hiệu quả.
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Để bảo đảm việc áp dụng quy định của
pháp luật về xử lý vật chứng trong vụ án
hình sự được thống nhất, hiệu quả, tác giả
cho rằng, cần ban hành văn bản mới thay thế
cho Thông tư liên tịch số 06/1998 theo
hướng đối với vật chứng của vụ án hình sự
là tài sản mà bị can, bị cáo đã thế chấp để
đảm bảo nghĩa vụ thanh toán thì Cơ quan có
6 LS. Đỗ Hồng Thái (2008), “Vấn đề xử lý vật chứng là tài sản bảo đảm tiền vay nhìn từ một vụ án”, Tạp chí
Ngân hàng, Hà Nội, số 21/2008.
Số 1(401) - T1/202056 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý,
giải quyết vụ án xử lý như sau:
a) Trường hợp thứ nhất, vật chứng là
tài sản thế chấp chỉ thuộc quyền sở hữu/sử
dụng của người bị buộc tội. Nếu hợp đồng
thế chấp đúng pháp luật, còn thời hạn, tài sản
còn giá trị sử dụng thì giao cho bên nhận thế
chấp sử dụng, khai thác cho đến khi hết hạn
hợp đồng. Hoa lợi, lợi tức thu được từ việc
sử dụng, khai thác đó được khấu trừ vào
nghĩa vụ hợp đồng thế chấp sau khi đã thanh
toán các chi phí phát sinh từ việc sử dụng,
khai thác tài sản cho đến khi bên nhận thế
chấp được thanh toán đủ giá trị hợp đồng thế
chấp. Hết thời hạn hợp đồng thế chấp mà
hoa lợi, lợi tức thu được từ việc khai thác, sử
dụng đã đủ để thanh lý hợp đồng thì tịch thu
tài sản, sung quỹ Nhà nước. Trường hợp hết
thời hạn trong hợp đồng thế chấp mà hoa lợi,
lợi tức chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ thì
phát mại tài sản để thanh lý hợp đồng thế
chấp sau khi đã thanh toán các chi phí phát
sinh từ việc sử dụng, khai thác tài sản thế
chấp. Giá trị tài sản thế chấp sau khi bán phát
mại còn lại sau khi thanh lý hợp đồng thế
chấp được tịch thu, sung quỹ Nhà nước. Nếu
bên nhận thế chấp không thể trực tiếp sử
dụng, khai thác thì có thể thoả thuận với bên
thứ ba theo quy định của BLDS để khai thác,
sử dụng.
Nếu hợp đồng thế chấp đúng pháp
luật, hết thời hạn, tài sản thế chấp còn giá trị
sử dụng: phát mại để thanh lý hợp đồng,
phần giá trị của tài sản nếu còn thì tịch thu,
sung quỹ Nhà nước. Trường hợp phát mại tài
sản thế chấp nhưng vẫn không đủ để thanh
lý hợp đồng thì hướng dẫn các bên trong hợp
đồng thế chấp giải quyết tiếp theo thủ tục tố
tụng dân sự.
Nếu hợp đồng thế chấp đúng pháp luật
nhưng tài sản thế chấp hư hỏng/không còn
giá trị sử dụng thì hướng dẫn bên nhận thế
chấp yêu cầu giải quyết quyền lợi theo thủ
tục tố tụng dân sự. Nếu hợp đồng thế chấp
không đúng pháp luật thì yêu cầu Toà án
tuyên hợp đồng vô hiệu, tịch thu tài sản,
sung quỹ Nhà nước.
b) Trường hợp thứ hai, vật chứng là tài
sản thế chấp thuộc quyền sở hữu/sử dụng
của nhiều người trong đó có người bị buộc
tội nhưng nghĩa vụ của hợp đồng thế chấp
chỉ liên quan đến người bị buộc tội. Nếu hợp
đồng thế chấp đúng pháp luật, còn thời hạn,
tài sản còn giá trị sử dụng thì giao cho những
chủ sở hữu/người sử dụng còn lại hoặc bên
nhận thế chấp tiếp tục khai thác, sử dụng. Sau
khi thanh toán chi phí cho việc khai thác, sử
dụng, phân chia quyền lợi cho đồng chủ sở
hữu/sử dụng, việc thanh lý hợp đồng thế chấp
giữa người bị buộc tội và bên nhận thế chấp
được thực hiện tương tự như đoạn 1 mục a.
Nếu hợp đồng thế chấp đúng pháp
luật, hết thời hạn, nghĩa vụ trong hợp đồng
thế chấp chỉ liên quan đến người bị buộc tội,
tài sản còn giá trị sử dụng thì phát mại, chia
theo phần để xác định giá trị tài sản thuộc sở
hữu của người bị buộc tội sau đó thanh lý
hợp đồng thế chấp, nếu giá trị không đủ để
thanh lý thì hướng dẫn bên nhận thế chấp
yêu cầu giải quyết quyền lợi theo thủ tục tố
tụng dân sự. Sau thanh lý hợp đồng thế chấp,
giá trị tài sản nếu còn được tịch thu, sung
quỹ Nhà nước. Phần giá trị tài sản thuộc
quyền sở hữu của các bên khác thì thanh
toán cho các bên khác, nếu các bên khác
không đồng ý thì hướng dẫn giải quyết theo
thủ tục tố tụng dân sự.
Trường hợp hợp đồng thế chấp tài sản
đúng pháp luật, tài sản thế chấp hư hỏng,
không còn giá trị sử dụng thì hướng dẫn các
bên giải quyết quyền lợi theo thủ tục tố tụng
dân sự. Trường hợp hợp đồng thế chấp tài sản
không đúng pháp luật thì yêu cầu Toà án
tuyên hợp đồng vô hiệu, phát mại tài sản để
xác định giá trị tài sản thuộc sở hữu của người
bị buộc tội để tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Giá trị tài sản thuộc sở hữu của các bên khác
thì trả lại cho các bên khác, nếu họ không
đồng ý thì hướng dẫn họ yêu cầu giải quyết
quyền lợi theo thủ tục tố tụng dân sự n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xu_ly_vat_chung_vu_an_hinh_su_la_tai_san_the_chap.pdf