Curcumin PEG hóa dạng VI-a, VI-b, VI-c
(hình 13) được Wichitnithad và cộng sự tổng
hợp năm 2011. VI-a, VI-b, VI-c là các hợp
chất bền vững do tạo khoảng cách aliphatic
khác nhau bằng acid succinic, acid glutaric,
axit methylcarboxylic và PEG (trọng lượng
phân tử 2000 Da) [18]. VI-a, VI-b, VI-c được
đánh giá khả năng ức chế đối với các dòng tế
bào ung thư người: Caco-2 (đại tràng), KB
(khoang miệng), MCF7 (vú) và NCI-H187
(phổi) và có giá trị IC50 trong phạm khoảng 1 -
6 µM [18]. Các curcumin PEG hóa VI-a và
VI-b có giá trị IC50 thấp hơn trên dòng tế
bào ung thư biểu mô (KB) so với curcumin
tự do [18]
11 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 597 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Y khoa, dược - Curcumin PEG hóa và triển vọng ứng dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11
1
Curcumin PEG hóa và triển vọng ứng dụng
Bùi Thanh Tùng1,*, Phan Kế Sơn1, Phạm Thị Minh Huệ2, Nguyễn Thanh Hải1
1Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Đại học Dược Hà Nội, 15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Curcumin là một hợp chất tự nhiên có tác dụng sinh học đa dạng, dùng để phòng ngừa và hỗ trợ điều trị một
số bệnh. Hạn chế của curcumin là sinh khả dụng thấp, nên hiện nay vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong lâm
sàng. Đã có nhiều kỹ thuật bào chế được áp dụng để nâng cao sinh khả dụng của curcumin như tăng độ hòa tan,
độ ổn định và tính thấm qua màng tế bào. Một kỹ thuật được áp dụng mới đây, hứa hẹn có thể phát triển thành
công thuốc có giá trị từ curcumin, là tạo dẫn chất curcumin PEG hóa. PEG hóa là một kỹ thuật mới, có hiệu quả
trong việc phát triển các thuốc giải phóng tại đích và làm tăng sinh khả dụng của nhiều dược chất, đặc biệt các
thuốc chống ung thư. Trong bài tổng quan này, chúng tôi giới thiệu một số dạng curcumin PEG hóa đã được
tổng hợp thành công, giúp cải thiện sinh khả dụng và tăng hoạt tính sinh học so với curcumin tự do. Dẫn chất
này giúp tăng khả năng thấm vào tế bào và khả năng ức chế tế bào ung thư; tăng khả năng hướng đích khối u và
vì vậy tăng hiệu quả kháng ung thư trên in vitro và in vivo.
Nhận ngày 26 tháng 9 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 07 tháng 11 năm 2015, Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 6 năm 2016
Từ khóa: PEG hóa, Curcumin, Sinh khả dụng.
1. Đặt vấn đề *
Curcumin - một hợp chất thiên nhiên,
diphenolic, có nhiều trong rễ củ cây Nghệ
(Curcuma longa L.). Curcumin có tác dụng
sinh học phong phú, được sử dụng hỗ trợ điều
trị và phòng ngừa nhiều bệnh như: bệnh tim
mạch, tiểu đường, viêm khớp, bệnh thần kinh,
bệnh Corhn và đặc biệt trong hỗ trợ điều trị
ung thư [1]. Tuy nhiên, curcumin có tính kỵ
nước cao, tính thấm và độ hoà tan kém nên
sinh khả dụng rất thấp, do đó hiệu quả điều trị
bệnh còn hạn chế. Nhằm cải thiện sinh khả
dụng của curcumin, gần đây, các nhà khoa học
đã tìm ra nhiều kỹ thuật như bào chế dưới
dạng phytosome, tạo dẫn chất PEG hóa. Dẫn
chất curcumin PEG hóa (hay PEGylated
*
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-904429676
Email: tungasia82@yahoo.es
curcumin) là dẫn chất của curcumin liên kết
với phân tử PEG, làm thay đổi dược tính của
phân tử ban đầu. Curcumin PEG hóa có nhiều
đặc tính hoá lý và dược lý ưu việt, khắc phục
được các nhược điểm của curcumin. Trong bài
tổng quan này chúng tôi giới thiệu về kỹ thuật
PEG hóa, một số dạng curcumin PEG hóa đã
được tổng hợp thành công và triển vọng ứng
dụng trong phát triển các sản phẩm có tác
dụng sinh học.
2. Giới thiệu về curcumin
Cây Nghệ là một thành viên của họ gừng,
phát triển mạnh ở vùng khí hậu nhiệt đới. Củ
nghệ được sử dụng rộng rãi như một gia vị và
để phát triển các chế phẩm thực phẩm chức
năng, đặc biệt là ở Châu Á. Curcumin (1,7-
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11
2
bis(4-hydroxy-3- methoxyphenyl)-1,6-
heptadiene-3,5-dione) (Hình 1) là một chất có
tác dụng sinh học chính của củ nghệ. Về cấu
trúc hóa học, curcumin là diferuloylmethan,
có hai vòng aryl với một nhóm methoxy và
một nhóm hydroxyl trên mỗi vòng. Tương tự
khung cấu trúc này, có một số thay đổi của
nhóm methoxy hoặc hydroxyl trên một hoặc
cả hai vòng thơm được gọi là curcuminoid.
Curcumin (77%), demethoxycurcumin (17%)
và bis-demethoxycurcumin (3%) là các
curcuminoid chính có trong củ nghệ.
Curcumin có khả năng hòa tan tốt trong
aceton, ethanol và dimethyl sulfoxid, nhưng
thực tế không tan trong nước.
Curcumin (77%)
Demethoxycurcumin (17%)
bis- Demethoxycurcumin (3%)
Hình 1. Curcumin và các dẫn chất chính
trong củ nghệ.
3. Tác dụng sinh học của curcumin
Các nghiên cứu in vitro, in vivo và trên
lâm sàng đã chứng minh các đặc điểm dược
động học, tính an toàn và khả năng cho hiệu
quả điều trị với nhiều loại bệnh của curcumin.
Curcumin đã được nghiên cứu ứng dụng nhiều
trong lĩnh vực y sinh học với các định hướng
tác dụng như: chống oxy hoá, ức chế con
đường truyền tín hiệu tế bào, ảnh hưởng đến
hoạt động của các enzym trong tế bào, khả
năng thay đổi quá trình phiên mã gen và kích
hoạt cơ chế làm tế bào chết theo chương trình
(apoptosis). Một số khả năng tác dụng khác
cũng được nghiên cứu nhiều như: chống
viêm, kháng khuẩn, chống bệnh sốt rét, chống
ung thư, bảo vệ gan, thận, chống huyết khối,
bảo vệ thành tim, chống thấp khớp [2],[3]. Tác
dụng chống oxy hóa mạnh của curcumin có
thể được giải thích là do sự có mặt của các
nhóm phenolic trong cấu trúc [4], [5]. Trên in
vitro, curcumin có hiệu quả ức chế tăng sinh
của các tế bào ung thư buồng trứng, vú, cổ,
tuyến tiền liệt, kết tràng, gan, tuyến tuỵ và
xương [5-7].
Curcumin có tác dụng sinh học đa dạng
nhờ tác dụng lên nhiều đích, bao gồm: hoạt
hoá các yếu tố phiên mã (như yếu tố nhân-
kappa B, peroxisome proliferator-activated
receptor-gamma và điều hòa các enzym
kinase), các cytokine và các yếu tố tăng
trưởng.
Về ứng dụng trong thực tiễn, curcumin đã
được sử dụng nhiều để hỗ trợ điều trị các bệnh
khác nhau như: đục thủy tinh thể, vết thương
khó liền, sỏi mật, dị ứng, viêm tụy, viêm loét
dạ dày, viêm ruột, sốt, hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải, bệnh vẩy nến, bệnh
Alzheimer, xơ cứng bì, suy giáp, xơ nang, xơ
vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, loãng
xương, bệnh phổi, sốt rét, viêm khớp, bệnh
Leishmania, đái tháo đường, bệnh đa xơ cứng,
bệnh động kinh, bệnh Parkinson và bệnh ung
thư... [8].
4. Hạn chế của curcumin
Tính chất dược động học và dược lực học
của curcumin có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả điều trị. Curcumin có những đặc điểm
dược động học không thuận lợi như: hấp thu
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11 3
kém, chuyển hoá và thải trừ khỏi cơ thể nhanh
nên sinh khả dụng rất thấp [9]. Curcumin là
một hợp chất kỵ nước, độ hoà tan ở pH sinh lý
rất thấp (khoảng 11 ng/mL). Curcumin có tốc
độ chuyển hoá và thải trừ nhanh, bị thuỷ phân
trong môi trường kiềm và phân huỷ khi gặp
ánh sáng, nhiệt độ cao và điều kiện oxi hoá
[10]. Khả năng hấp thu curcumin kém ở ruột
có thể do độ tan thấp, ngoài ra còn bị phân
huỷ ở pH trung tính hoặc kiềm và bị ảnh
hưởng chuyển hóa của các enzym. Nghiên cứu
đánh dấu phóng xạ đã cho thấy hầu hết liều
uống được bài tiết trong phân và một phần ba
curcumin vẫn không thay đổi cấu trúc [9].
Rất nhiều phương pháp đã được ứng dụng
để làm tăng sinh khả dụng của curcumin thông
qua làm tăng độ tan, độ ổn định và tính thấm
qua màng tế bào bằng các kỹ thuật hoá học,
kỹ thuật bào chế phân tử [3]. Một số kỹ thuật
bào chế chính làm tăng sinh khả dụng của
curcumin như: tạo phức hợp dạng lồng phân
tử curcumin-cyclodextrin; bào chế dưới dạng
liposome, tạo micell với các chất diện hoạt;
bào chế phức hợp phytosome; tạo tiểu phân
nano curcumin với các chất mang polymer. Sử
dụng kết hợp cùng với các chất tăng sinh khả
dụng cũng đã được ứng dụng (kết hợp với
piperine để ức chế glucuronid hoá). Một số
nghiên cứu còn tổng hợp các cấu trúc tương tự
curcumin nhằm tạo ra các chất có nhiều ưu
điểm hơn. Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn chưa
phát triển thành công được một loại thuốc nào
từ curcumin có tác dụng như mong đợi trong
điều trị lâm sàng. Các nghiên cứu gần đây chú
ý nhiều tới việc tạo dẫn chất PEG hóa
curcumin. Theo hướng này, có nhiều hứa hẹn
để tăng tính ứng dụng của curcumin trong
thực tiễn điều trị.
5. Kỹ thuật PEG hóa
Poly(ethylene glycol), PEG, (Hình 2) là
một polymer tổng hợp, được tạo thành từ các
monomer ethylene oxyd. PEG là một polymer
không độc, không thể hiện đặc tính kháng
nguyên, có hệ số phân bố dầu nước thích hợp.
PEG đã được dược điển các nước công nhận
làm tá dược cho nhiều dạng thuốc dùng cho
các đường dùng khác nhau: đường uống,
đường tiêm truyền và dùng trên da [11].
Hình 2. Cấu trúc của polyethylene glycol.
PEG hóa là kỹ thuật gắn đồng hoá trị PEG
với các tác nhân trị liệu, là một trong những
kỹ thuật đầy triển vọng để cải thiện hiệu quả
điều trị của thuốc. Ban đầu, kỹ thuật này được
ứng dụng chủ yếu với các dược chất có cấu
trúc đại phân tử (peptid, enzym) bằng cách tạo
các liên kết giữa dược chất với một hoặc nhiều
chuỗi PEG có khối lượng phân tử khác nhau.
Khi sử dụng, các dẫn chất này sẽ có thời gian
bán thải dài hơn, làm cho sinh khả dụng của
thuốc được tăng cường đáng kể. PEG hóa
được Davies và Abuchowsky nghiên cứu lần
đầu tiên bằng việc tạo dẫn chất PEG với
albumin và catalase [12]. Do nhiều ưu điểm
về dược học do kỹ thuật này mang lại, nên nó
đã được ứng dụng nghiên cứu nhiều với các
dược chất phân tử nhỏ, nhằm các mục tiêu cải
thiện độ tan, giảm độc tính và một số tác dụng
không mong muốn của thuốc [1]. Dược chất
được PEG hóa mang lại nhiều ưu điểm: chậm
bị đào thải khỏi cơ thể, làm giảm quá trình
chuyển hóa của thuốc bởi các enzym. Liên kết
giữa PEG với các dược chất phân tử nhỏ có
thể là các liên kết hóa học bền vững và cũng
có thể là các liên kết tạo dạng phức không
bền. Do PEG hóa có thể bảo vệ dược chất
tránh bị thuỷ phân bởi các enzyme và tăng
thời gian bán thải, tăng độ tan tan trong nước
nên được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu
và phát triển thuốc mới. Các ứng dụng chính
như PEG hóa các dược chất có cấu trúc
protein, peptid, oligonucleotide, các phân tử
nhỏ, bề mặt các cấu trúc nano như liposome,
phytosome ....
6. Dạng curcumin PEG hóa
Curcumin PEG hóa là kỹ thuật gắn các
phân tử PEG vào curcumin để cải thiện sự ổn
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11
4
định của curcumin trong cơ thể, tăng độ hòa
tan, kéo dài thời gian tồn tại trong huyết tương
và bảo vệ khỏi sự phân huỷ của các enzyme.
Sơ đồ quá trình tổng hợp curcumin PEG hóa
được mô tả trong hình 3.
Poly(ethylene glycol)
+
Curcumin
Curcumin PEG hóa
Hình 3. Sơ đồ tổng hợp curcumin PEG hóa.
Một số dạng curcumin PEG hóa đã được
tổng hợp thành công
Để làm tăng sinh khả dụng của curcumin,
một loạt các hợp chất curcumin –
poly(ethylene glycol) đã được Li và cộng sự
tổng hợp [13], trong đó curcumin liên kết
cộng hoá trị với PEG. Tác giả đã tổng hợp
được các dạng curcumin PEG hóa tan trong
nước, sử dụng các liên kết thioester của
curcumin, với các chuỗi PEG có khối lượng
phân tử thấp. Các nhóm nghiên cứu khác nhau
đã tổng hợp thành công và phát triển các phân
tử curcumin PEG hóa khác dựa trên các
phương pháp tổng hợp khác nhau. Các loại
curcumin PEG hóa đã tổng hợp được đến nay
bao gồm curcumin PEG hóa dạng I-a, I-b, I-
c, I-d (hình 4), II-a, II-b (hình 5), III (hình
6), IV (hình 7), V-a,V-b,V-c, V-d,V-e, V-f,
V-g (hình 8, 9, 10, 11, 12 ), VI-a, VI-b, VI-c
(hình 13).
Curcumin PEG hóa dạng I-a, I-b, I-c, I-d
Pandey và cộng sự (2011) đã tổng hợp
thành công curcumin PEG hóa I-a, I-b, I-c, I-
d (hình 4) và chứng minh nó có khả năng kích
hoạt yếu tố nhân erythroid 2–related factor 2
(Nrf2) trong các tế bào biểu mô phế quản ở
người (Beas2B-ARE). Nrf2 là một yếu tố
phiên mã trung tâm điều khiển các hệ thống
bảo vệ chống oxy hóa và hệ thống chống viêm
của cơ thể [14]. Trong số các chất tổng hợp
curcumin PEG hóa dạng I (a-d) độ tan trong
nước và khả năng kích hoạt Nrf2 của hợp chất
I-a là cao nhất [14]. So với curcumin tự do, I-
a kích hoạt NQO1, HO1, và gen GLCM cao
hơn tương ứng 3, 6 và 8 lần. Trong khi đó, I-b
kích hoạt gen HO1 và GLCM cao hơn 3 lần
và gen NQO1 cao hơn 1,5 lần so với curcumin
tự do. Các chất I-c, I-d chỉ có khả năng kích
hoạt Nrf2 tương đương hoặc cao hơn một chút
so với curcumin tự do [18]. Sự khác biệt trong
các đặc tính hóa lý của các chất tương tự có
thể được giải thích bởi kích thước của các
PEG khác nhau. Các chất I-c, I-d có kích
thước của chuỗi PEG lớn hơn (1500, 2000 Da)
nên hàm lượng curcumin trong phân tử nhỏ do
đó tác dụng sinh học thấp. Các hợp chất I-a và
I-b được cấu tạo từ PEG có trọng lượng phân
tử trung bình tương ứng 600 và 1000 Da và do
đó có hàm lượng curcumin cao hơn so với I-c,
I-d [14].
Các tác dụng sinh học được tăng cường
của curcumin PEG hóa dạng I-a, I-b có thể
giải thích nhờ độ tan cao và cải thiện tính
thấm quan màng tế bào, tăng thời gian tồn tại
trong máu và như vậy làm tăng sinh khả dụng.
Ngoài ra nhóm tác giả cũng lưu ý rằng nồng
độ PEG trong phản ứng tổng hợp curcumin
PEG hóa I-a, I-b cũng cần được kiểm soát
nhằm đạt tỷ lệ curcumin/PEG tối ưu để có tác
dụng dược lý cao nhất [14].
Curcumin PEG hóa dạng II-a, II-b
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11 5
Hai curcumin PEG hóa II-a, II-b (hình 5)
được Safavy và cộng sự tổng hợp vào năm
2007 bằng cách sử dụng PEG 3500 và 750 Da.
và tạo liên kết qua nhóm chức ester và ether
[15]. Cả hai phân tử thu được đều tan trong
nước tốt hơn. Đặc biệt, qua nghiên cứu tác
dụng sinh học thì II-b có tác dụng trên một số
dòng tế bào ung thư người: tuyến tiền liệt
(PC-3), kết tràng (LS-174T) và tuyến tụy
(MIA PACA-2 & BxPC-3) [16]. Chất II-a chỉ
có tác dụng chống lại các dòng tế bào ung thư
tuyến tiền liệt (PC-3) và có giá trị IC50 thấp
hơn 2,4 lần so với curcumin [15]. Nguyên
nhân có thể do hợp chất II-a có phần PEG có
kích thước phân tử lớn (3500 Da), nên tỷ lệ
curcumin/PEG thấp [15]. Ngược lại II-b có
giá trị IC50 thấp hơn 2,1; 1,6; 3,4 và 1,3 lần so
với curcumin tương ứng đối với các dòng tế
bào tuyến tiền liệt (PC-3), kết tràng (LS-
174T), tuyến tụy (MIA PACA-2 và BxPC-3).
Nghiên cứu đánh giá mối liên quan giữa tỷ lệ
curcumin/PEG và tốc độ giải phóng curcumin
cũng được tiến hành. Hai dạng curcumin PEG
hóa II-a, II-b được ủ trong dung dịch đệm
phosphat (PBS, pH 7.4) ở 37oC và đo nồng độ
bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao
tại bước sóng 280 nm [16]. Kết quả cho thấy
quá trình giải phóng curcumin có tốc độ khác
nhau khi các phân tử curcumin PEG hóa có
kích thước khác nhau. Ngoài ra, hai hợp chất
II-a và II-b còn có thời gian bán thải tương
ứng là 60 và 200 phút. Nguyên nhân hai hợp
chất này có thời gian bán thải khác nhau là do
khác biệt về kích thước PEG (3500 so với 750
Da.) và khác biệt trong liên kết nhóm chức
(ester so với ether) hoặc cũng có thể do kết
hợp của cả hai yếu tố. Tác dụng ưu việt của
II-a, II-b so với curcumin tự do là nhờ khả
năng hòa tan trong nước và khả năng xâm
nhập vào tế bào tốt hơn [16]. Khi độ tan được
cải thiện, thì nồng độ hợp chất tiếp xúc với tế
bào cao hơn và thuận lợi hơn để thấm qua
màng, làm tăng khả năng xâm nhập vào trong
tế bào.
Curcumin PEG hóa dạng III
Curcumin PEG hóa dạng III (hình 6) đã
được Li và cộng sự tổng hợp vào năm 2009,
có khả năng ức chế mạnh quá trình tăng sinh
của tế bào ung thư tuyến tụy bằng cách bất
hoạt protein Jab1 (Jun activation domain
binding protein 1) [13]. Jab 1 làm mất tính bền
vững của protein khối u, điều hòa chu kỳ phát
triển tế bào, là một đích phân tử tiềm năng
mới trong điều trị ung thư [13]. Curcumin
PEG hóa dạng III được tổng hợp bằng cách sử
dụng dẫn chất diaxit của poly(ethylene glycol)
(phân tử trọng lượng 35 KDa) và kết hợp với
DCC (N,N′-dicyclohexylcarbodiimide) để tạo
thành hợp chất PEG – curcumin35 KD [13]. Hợp
chất PEG – curcumin35 KD III được đánh giá
trên dòng tế bào ung thư tuyến tụy cho thấy,
tác dụng rõ rệt ở giai đoạn phân bào với sự
hình thành của các tế bào đa nhân bất thường,
dẫn đến ức chế tăng sinh tế bào. Hợp chất III
chủ yếu ức chế hoạt động của Jab1- kinase và
làm mất sự bền vững của protein đích Jab1
[13]. Tác dụng ức chế tăng sinh tế bào của
hợp chất III không thể hiện trong các tế bào
đã bị bất hoạt gen Jab1, và phụ thuộc vào
nồng độ. Với nồng độ nhỏ hơn 1 µM hợp chất
III không còn tác dụng và với nồng độ lớn
hơn 5 µM thì tác dụng mạnh [13]. Tác dụng
ức chế tăng sinh tế bào của hợp chất III chỉ
đạt được sau 24 giờ khi sử dụng. Đặc biệt, khi
so sánh tác dụng ức chế tăng sinh tế bào của
curcumin và hợp chất III cho thấy curcumin
với nồng độ 20 µM thì có tác dụng tương
đương như hợp chất III ở nồng độ 5 µM. Điều
này cho thấy ưu điểm của hợp chất III so với
curcumin tự do [13].
Curcumin PEG hóa dạng IV
Curcumin PEG hóa dạng IV (hình 7)
được Tang và cộng sự tổng hợp vào năm
2010, có tác dụng như là một tiền thuốc, có
khả năng chống ung thư và là có thể đóng vai
trò như một phân tử vận chuyển thuốc [17].
Để tổng hợp curcumin PEG hóa dạng IV, axit
mercaptopropionic được sử dụng là chất xúc
tác, gắn vào PEG (350 Da) để tạo liên kết với
curcumin. Axit mercaptopropionic được liên
kết với β-thioester, tạo ra liên kết ổn định
trong môi trường trung tính và giúp giải
phóng hợp chất [17]. Curcumin PEG hóa dạng
IV tương đối bền vững trong dung dịch đệm
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11
6
phosphate tại pH 7.4 hoặc pH 5.0. Để đánh giá
tác dụng ức chế tăng sinh tế bào của curcumin
PEG hóa dạng IV, ba gen (Cyclin D1, CDK4
và CDK6) đã được lựa chọn để nghiên cứu, vì
là các gen liên quan trực tiếp đến chu kỳ tế
bào từ giai đoạn G1 đến pha S. Biểu hiện của
ba gen này bị giảm đáng kể khi bị tác động
của hợp chất IV. Với nồng độ 20µg/ml, hợp
chất IV ức chế hoàn toàn biểu hiện của gen
cyclin D1 và CDK4 [17].
s
O
O
O
O
O
O
O O
O OH
H
m
nOMe OMe
I-a: n = 13 ( PEG 600), m = 8
I-b: n = 22 (PEG 1000), m = 5
I-c: n = 34 (PEG 1500), m = 4
I-d: n = 45 (PEG 2000), m = 3
Hình 4. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng I-a, I-b, I-c, I-d.
II-a: n = 79 (PEG 3500), R = COOCH3
II-b: n = 17 (PEG 750), R = OCH3
Hình 5. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng II-a, II-b.
n = 795 (PEG 35KD)
Hình 6. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng III.
n = 7 (PEG 350)
Hình 7. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng IV.
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11 7
Curcumin PEG hóa dạng V-a, V-b, V-c, V-d,V-e, V-f, V-g
V-a: n = 25 (PEG 1150), R = -PhCOOH
V-b: n = 25 (PEG 1150), R = -Cyclobutane-COOH
V-c: n = 25 (PEG 1150), R = -Pentetic acid backbone
Hình 8. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng V-a, V-b, V-c.
Hình 9. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng V-d: n = 45 (PEG 2000).
Hình 10. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng V-e: n = 9 (PEG 450).
Hình 11. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng V-f.
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11
8
Hình 12. Cấu trúc phân tử của Curcumin PEG hóa dạng V-g.
Curcumin PEG hóa dạng V-a, V-b, V-c,
V-d,V-e, V-f, V-g (hình 8, 9, 10, 11, 12) được
Tang và cộng sự tổng hợp năm 2010 [17].
Hợp chất V-a, V-b, V-c có một khung cấu
trúc kỵ nước gồm curcumin và hai
pyromellitic dianhydride (V-a), cyclobutan-
1,2,3,4-tetra axit cacboxylic (V-b) hoặc
diethylenetriamine pentaacetic dianhydride
(V-c) và một phần ưa nước gồm PEG có trọng
lượng phân tử 1100 Da [17]. Hợp chất V-d
gồm curcumin, axit 3,3'-dithiodipropionic và
PEG (trọng lượng 2000 Da). Polymer V-d tan
trong nước nhưng không tạo thành các micel;
hợp chất V-e tan một phần và hợp chất V-f
không tan trong nước [17]. Hợp chất V-f
không tan trong nước vì trong cấu trúc có quá
ít đơn vị PEG. Hợp chất V-g gồm PEG (trọng
lượng phân tử 200 Da) và hai đơn vị
triethylene glycol ether divinyl (150 Da), do
đó V-g có khả năng tan trong nước. Trong số
các hợp chất V-a, V-b, V-c, V-d, V-e, V-f, V-
g, chỉ V-a, V-b, V-c, V-d và V-g được chứng
minh có tác dụng ức chế tế bào ung thư buồng
trứng (SKOV-3). V-e, V-f không được đánh
giá do tan ít hoặc không trong nước. Hợp chất
V-a, V-b, V-c, V-d có tác dụng không khác
biệt rõ rệt so với curcumin trong ức chế dòng
tế bào ung thư buồng trứng [17].
Curcumin PEG hóa VI-a, VI-b, VI-c
VI-a:
R =
VI-b:
R =
VI-c:
R =
Hình 13. Cấu trúc phân tử của các biến thể curcumin PEG hóa dạng VI-a, VI-b, VI-c.
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11 9
Curcumin PEG hóa dạng VI-a, VI-b, VI-c
(hình 13) được Wichitnithad và cộng sự tổng
hợp năm 2011. VI-a, VI-b, VI-c là các hợp
chất bền vững do tạo khoảng cách aliphatic
khác nhau bằng acid succinic, acid glutaric,
axit methylcarboxylic và PEG (trọng lượng
phân tử 2000 Da) [18]. VI-a, VI-b, VI-c được
đánh giá khả năng ức chế đối với các dòng tế
bào ung thư người: Caco-2 (đại tràng), KB
(khoang miệng), MCF7 (vú) và NCI-H187
(phổi) và có giá trị IC50 trong phạm khoảng 1 -
6 µM [18]. Các curcumin PEG hóa VI-a và
VI-b có giá trị IC50 thấp hơn trên dòng tế
bào ung thư biểu mô (KB) so với curcumin
tự do [18].
Tác dụng sinh học của curcumin PEG hóa
Như đã trình bày ở trên, curcumin PEG
hóa có độ tan tốt hơn curcumin và có tác dụng
ức chế hoàn toàn sự sinh trưởng của các tế bào
ung thư tuyến tuỵ ở nồng độ khoảng 5µM,
trong khi curcumin cần nồng độ 20 µM mới
có tác dụng tương đương [13]. Curcumin PEG
hóa dạng III cũng có tác dụng hiệp đồng với
gemitabine trong quá trình ức chế tăng sinh tế
bào và kích hoạt quá trình chết theo chương
trình (apoptosis) của dòng tế bào PANC-1 và
AsPC-1 [13]. Đặc biệt, curcumin PEG hóa có
tác động mạnh, ức chế tăng sinh tế bào ung
thư tuyến tụy, ngăn chặn giai đoạn phân bào
và sự hình thành của các tế bào đa nhân bất
thường. Kết quả thí nghiệm của Murphy và
cộng sự đã chứng minh hiệu quả của curcumin
PEG hóa dạng V-a, V-b, V-c, V-d và V-g ức
chế sự phát triển khối u buồng trứng trên mô
hình chuột thông qua ức chế giai đoạn phân
bào [19, 20]. Tuy nhiên curcumin PEG hóa
cũng có tác dụng phụ như ảnh hưởng đến
chức năng sinh sản do có tính chất giống như
estrogen và đối kháng androgen của curcumin.
Thử nghiệm in vivo cho thấy curcumin PEG
hóa có thể gây ra phì đại tử cung. Curcumin
PEG hóa có khả năng điều chỉnh làm giảm
17β-hydroxysteroid dehydrogenase (chuyển
hoá androstenedione thành testosterone), 5α-
reductase (chuyển hoá testosterone thành
dihydrotestosterone) và thụ thể androgen
trong các cơ quan sinh dục và tuyến sinh dục
phụ nam. Cơ chế điều chỉnh chức năng các
tuyến sinh dục của curcumin PEG hóa là
thông qua cơ chế điều hoà âm tính ngược
(negative feedback) trục dưới đồi – tuyến yên
[17-19; 21].
7. Kết luận
Curcumin, một hợp chất tự nhiên, có tiềm
năng ứng dụng phát triển thuốc và thực phẩm
chức năng dùng hỗ trợ điều trị và phòng ngừa
nhiều bệnh, tác động tới nhiều quá trình sinh
hoá quan trọng trong tế bào và có phổ tác
dụng sinh học rộng. Tuy nhiên, hạn chế của
curcumin là sinh khả dụng thấp, chuyển hóa
và thải trừ nhanh. Việc sử dụng kỹ thuật PEG
hóa, tạo ra dẫn chất mới, curcumin PEG hóa,
là một trong những phương pháp có nhiều ưu
điểm để cải thiện khả năng hoà tan, sinh khả
dụng, bảo vệ tránh bị chuyển hoá ở đường
ruột và gan, tăng cường nồng độ tại các đích
tác dụng (đặc biệt trên tế bào ung thư). Việc
nghiên cứu tổng hợp curcumin PEG hóa và
các đặc tính dược học của chúng hứa hẹn
phát triển thành công các chế phẩm có giá
trị cao từ curcumin.
Tài liệu tham khảo
[1] Chattopadhyay I, Biswas K, Bandyopadhyay U,
Banerjee RK. Turmeric and curcumin: Biological
actions and medicinal applications. Current
science 87(1) (2004) 44.
[2] Li W, Zhan P, De Clercq E, Lou H, Liu X.
Current drug research on PEGylation with small
molecular agents. Progress in Polymer Science
38(3) (2013) 421.
[3] Jantarat C. Bioavailability enhancement
techniques of herbal medicine: A case example of
curcumin. International J Pharmacy and
Pharmaceutical Sci 5((2013) 493.
[4] Suzuki M, Nakamura T, Iyoki S, Fujiwara A,
Watanabe Y, Mohri K, et al. Elucidation of anti-
allergic activities of curcumin-related compounds
with a special reference to their anti-oxidative
activities. Biological and Pharmaceutical Bulletin
28(8) (2005) 1438.
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11
10
[5] Anand P, Thomas SG, Kunnumakkara AB,
Sundaram C, Harikumar KB, Sung B, et al.
Biological activities of curcumin and its
analogues (Congeners) made by man and Mother
Nature. Biochemical pharmacology 76(11)
(2008) 1590.
[6] Singh S, Khar A. Biological effects of curcumin
and its role in cancer chemoprevention and
therapy. Anti-Cancer Agents in Medicinal
Chemistry (Formerly Current Medicinal
Chemistry-Anti-Cancer Agents) 6(3) (2006) 259.
[7] Sa G, Das T. Anti cancer effects of
curcumin: cycle of life and death. Cell
Division 3(1) (2008) 14.
[8] Moorthi C, Krishnan K, Manavalan R,
Kathiresan K. Preparation and characterization of
curcumin–piperine dual drug loaded
nanoparticles. Asian Pacific journal of tropical
biomedicine 2(11) (2012) 841.
[9] Pandey MK, Kumar S, Thimmulappa RK,
Parmar VS, Biswal S, Watterson AC. Design,
synthesis and evaluation of novel PEGylated
curcumin analogs as potent Nrf2 activators in
human bronchial epithelial cells. European
Journal of Pharmaceutical Sciences 43(1) (2011)
16.
[10] Beevers CS, Chen L, Liu L, Luo Y, Webster NJ,
Huang S. Curcumin disrupts the Mammalian
target of rapamycin-raptor complex. Cancer
research 69(3) (2009) 1000.
[11] Pasut G, Sergi M, Veronese FM. Anti-cancer
PEG-enzymes: 30 years old, but still a current
approach. Advanced drug delivery reviews 60(1)
(2008) 69.
[12] Abuchowski A, McCoy JR, Palczuk NC, van Es
T, Davis FF. Effect of covalent attachment of
polyethylene glycol on immunogenicity and
circulating life of bovine liver catalase. Journal of
Biological Chemistry 252(11) (1977) 3582.
[13] Li J, Wang Y, Yang C, Wang P, Oelschlager DK,
Zheng Y, et al. Polyethylene glycosylated
curcumin conjugate inhibits pancreatic cancer
cell growth through inactivation of Jab1.
Molecular pharmacology 76(1) (2009) 81.
[14] Pandey MK, Yang K, Pei C, Sharma PK,
Viola J, Stromberg R, et al. Design and
biocatalytic synthesis of Pluronics-based
nanomicellar self-assembly systems for drug
encapsulation applications. Journal of
Macromolecular Science, Part A: Pure and
Applied Chemistry 47(8) (2010) 788.
[15] Baker DP, Lin EY, Lin K, Pellegrini M, Petter
RC, Chen LL, et al. N-Terminally PEGylated
Human Interferon-β-1a with Improved
Pharmacokinetic Properties and in Vivo Efficacy
in a Melanoma Angiogenesis Model §.
Bioconjugate chemistry 17(1) (2006) 179.
[16] Safavy A, Raisch KP, Mantena S, Sanford
LL, Sham SW, Krishna NR, et al. Design
and Development of Water-Soluble
Curcumin Conjugates as Potential
Anticancer Agents. Journal of medicinal
chemistry 50(24) (2007) 6284.
[17] Tang H, Murphy CJ, Zhang B, Shen Y, Sui M,
Van Kirk EA, et al. Amphiphilic curcumin
conjugate-forming nanoparticles as anticancer
prodrug and drug carriers: in vitro and in vivo
effects. Nanomedicine 5(6) (2010) 855.
[18] Murphy CJ, Tang H, Van Kirk EA, Shen Y,
Murdoch WJ. Reproductive effects of a
pegylated curcumin. Reproductive
Toxicology 34(1) (2012) 120.
[19] Agarwal R, Kaye SB. Ovarian cancer: strategies
for overcoming resistance to chemotherapy.
Nature Reviews Cancer 3(7) (2003) 502.
[20] Maher D, Yallapu MM, Sundram V, Bell MC,
Jaggi M, Chauhan SC. Curcumin induces
chemo/radio-sensitization in ovarian cancer cells
and curcumin nanoparticles inhibit ovarian cancer
cell growth. Cancer Research 70(8 Supplement)
(2010) 5381.
[21] Wichitnithad W, Nimmannit U, Callery PS,
Rojsitthisak P. Effects of different carboxylic
ester spacers on chemical stability, release
characteristics, and anticancer activity of
mono‐PEGylated curcumin conjugates. Journal
of pharmaceutical sciences 100(12) (2011) 5206.
u
B.T. Tùng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 1-11 11
PEGylation of Curcumin and Prospect of Application
Bui Thanh Tung1, Phan Ke Son1, Pham Thi Minh Hue2, Nguyen Thanh Hai1
1VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy St., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam
2Hanoi University of Pharmacy, 15 Le Thanh Tong St., Hoan Kiem Dist., Hanoi, Vietnam
Abstract: Curcumin is an excellent molecule amongst many natural compounds in treatment and
prevention of various ailments and diseases. However, currcumin exhibits a very low degree of
bioavailability. Hence it has not been so far widely used in clinical treatment. There are numerous
preparation techniques reported to enhance curcumin bioavailability including its solubility, stability
and permeability. One of the most promising techniques is PEGylation. This technology was novelly
found to be efficient drug delivery system which increases the bioavailability of many herbal extracts.
This review presents some PEGylated-curcumin forms which have been formulized sucessfully to
improve curcumin bioavailability and biological activity as compared to the free (control) form.
PEGylated-curcumin exerted higher permeability and longer half-life. Thus, the PEGylated-curcumin
is probably superior to the curcumin free forms in terms of cell internalization, cytotoxicity, tumor
targeting and antitumor efficacy either in vitro or in vivo.
Keywords: PEGlation, curcumin, bioavailability.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1294_1_2526_1_10_20160711_6854.pdf