Thứ tư, cần có những giải pháp thúc đẩy
quá trình phát triển thị trường vốn, tạo điều
kiện cho nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận vốn.
Đồng thời, có quy phạm bắt buộc các tổ chức
tài chính bảo đảm độ an toàn khi cấp vốn trong
những điều kiện ràng buộc chặt chẽ, song hành
với quá trình hoàn thiện các quy định về các
hoạt động dịch vụ bảo lãnh nợ.
Thứ năm, xây dựng chế tài pháp luật đủ
mạnh để răn đe và ngăn ngừa hiện tượng vi
phạm các quy định nêu trên. Điều quan trọng
là từ kết quả của quá trình hậu kiểm chặt chẽ,
chúng ta phải triệt tiêu được số lượng các
doanh nghiệp ma đang tồn tại. Luật Doanh
nghiệp tuy đã có quy định về thu hồi giấy phép
kinh doanh trong trường hợp doanh nghiệp
không hoạt động sau đăng ký, nhưng trên thực
tế, điều này vẫn chưa được thực hiện tốt.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý nghĩa của vốn và lý do tháo bỏ quy định về vốn pháp định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4912
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
1. Đối với doanh nghiệp sở hữu vốn
Ở vị trí của doanh nghiệp, để định vị nội
dung quy định của pháp luật về vốn điều lệ, ý
nghĩa của vốn cần được nhìn nhận thông qua
một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần có cơ chế để doanh nghiệp tự
xác định quy mô vốn theo nhu cầu và quy mô
kinh doanh.
Trước hết, cần phân định rõ các khái niệm:
vốn điều lệ - vốn gốc - vốn chủ sở hữu, vốn
pháp định - vốn tối thiểu, vốn kinh doanh và
tài sản của doanh nghiệp. Trong đó, khái niệm
vốn kinh doanh và tài sản của doanh nghiệp
cần được xác định lại vì tuy có sự khác biệt về
mặt ngữ nghĩa nhưng lại có sự đồng nhất.
Nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp là để
tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Muốn vậy, nhà đầu tư cần phải có vốn và vốn
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là toàn bộ tài
sản của doanh nghiệp, kể cả tài sản cố định hay
tài sản lưu động. Trong những giai đoạn hoạt
động tiếp sau của doanh nghiệp, khi giá trị tài
sản của doanh nghiệp có tăng lên, thì vốn điều
lệ của chủ sở hữu vẫn giữ ở mức cũ. Vì vậy,
nhà đầu tư cần phải xác định rõ nhu cầu sử
dụng vốn của mình khi bắt đầu tiến hành hoạt
động kinh doanh để từ đó thiết lập quy mô vốn
cũng như quy mô doanh nghiệp thích hợp. Nếu
không làm được như vậy, có thể doanh nghiệp
Sau một thời gian ứng dụng Luật Doanh nghiệp (từ Luật Doanh nghiệp năm 1999 cho đến Luật Doanh
nghiệp năm 2005 hiện hành), có nhiều ý kiến cho rằng cần xem xét lại một số nội dung quy định trong các văn
bản này1. Trong đó, dựa trên cơ sở các chức năng của vốn, nhất là chức năng bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ2,
có ý kiến cho rằng, nên lặp lại quy định về điều kiện mức vốn tối thiểu khi thành lập doanh nghiệp đối với tất
cả các trường hợp đầu tư kinh doanh. Cách thức tiếp cận này là hợp lý, cần được tham khảo. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, vấn đề cần được nhìn nhận từ vai trò, ý nghĩa của vốn ở từng vị trí của tất cả các bên có liên quan.
Trước hết là vai trò của vốn đối với chính doanh nghiệp; thứ hai là ý nghĩa của vốn đối với các đối tác của doanh
nghiệp - chủ nợ. Ngoài ra, cũng được nhìn nhận từ phía Nhà nước - với tư cách là chủ nợ lớn nhất và với chức
năng điều hòa mối quan hệ giữa hai bên nói trên.
TRƯơNG TRọNG HIểU *
(*) ThS. Khoa Luật, ĐH Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
(1) Xem: ThS. Trần Huỳnh Thanh Nghị, Quy định về vốn pháp định trong thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 01/2005; TS. Dương Anh Sơn, Có cần thiết phải có cơ chế giám sát vốn điều lệ hay không? Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, số 10/2006; TS. Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006
(2) TS. Dương Anh Sơn, Có cần thiết phải có cơ chế giám sát vốn điều lệ hay không? Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10/2006.
VÀ LÝ DO THÁO BỎ QUY ĐịNH VỀ VốN PHÁP ĐịNH
Ý NGHĨA CỦA VốN
50 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
sau khi ra đời sẽ không có đủ vốn để hoạt động
hoặc ngược lại, doanh nghiệp không sử dụng
hết tài sản của mình cho hoạt động sản xuất thì
sẽ lãng phí và chi phí làm ra sản phẩm sẽ rất
cao do các khoản hạch toán chi phí, khấu hao
tài sản không trực tiếp tham gia vào quy trình
sản xuất.
Do đó, việc đặt ra yêu cầu về mức tối thiểu
khi thành lập doanh nghiệp là không đi theo
quy luật hiển nhiên của cuộc sống. Bởi vì, (i)
Nhà nước đã ấn định quy mô vốn và quy mô
doanh nghiệp cho nhà đầu tư trong khi chính
họ mới biết được nhu cầu về vốn của mình
là tới đâu. Không những thế, (ii) quan điểm
pháp lý của chúng ta khi xây dựng Luật Doanh
nghiệp là nhằm mở rộng quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể, trong đó có quyền tự
do lựa chọn mô hình và xác định quy mô kinh
doanh3. Việc ấn định mức vốn pháp định vô
hình trung đã khống chế quyền tự do này của
doanh nghiệp. Ngoài ra, với quy định về mức
vốn pháp định trước đây, chúng ta còn thấy,
mức vốn pháp định đặt ra với doanh nghiệp
tư nhân thường thấp hơn các loại hình doanh
nghiệp khác. Thực tế, đâu có phải cứ là doanh
nghiệp tư nhân thì phải quy mô nhỏ, cứ là công
ty thì quy mô và nhu cầu vốn lớn. Và như đã
nói, (iii) việc pháp luật đưa ra mức vốn điều lệ
bắt buộc, nhưng sau đó có thể doanh nghiệp sẽ
không sử dụng hết nguồn vốn này, dẫn đến sự
lãng phí, mà hậu quả chính doanh nghiệp phải
gánh trong khi lỗi không thuộc về họ.
Thứ hai, bản thân doanh nghiệp có thể huy
động vốn để thực hiện mục tiêu kinh doanh.
Như đã nói, vốn kinh doanh của doanh
nghiệp là toàn bộ tài sản của doanh nghiệp,
vì vậy, khối tài sản được sử dụng trong kinh
doanh có thể là vốn của chủ sở hữu và cũng
có thể là vốn vay. Để tìm kiếm lợi nhuận,
doanh nghiệp sẽ tìm mọi cách để huy động
vốn và sử dụng vốn hiệu quả, ví dụ: khi triển
khai dự án mới, mở rộng quy mô kinh doanh,
doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng những
phương thức hợp pháp. Chính vì vậy, không
cần thiết phải bắt doanh nghiệp có một lượng
vốn lớn khi thành lập.
Bằng các công cụ phân tích của mình, lý
thuyết tài chính hiện đại khẳng định rằng, các
trường hợp hiệu quả kinh doanh và giá trị của
doanh nghiệp tăng cao sẽ không thuộc về các
doanh nghiệp chỉ biết sử dụng nguồn vốn tự
có. Tùy theo tỷ lệ vốn vay được sử dụng để tạo
ra hiệu quả kinh doanh mà giá trị của doanh
nghiệp sẽ tăng lên nhiều hay ít. Đương nhiên,
lý thuyết này cũng chỉ ra mức tỷ lệ vốn vay
nhất định trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp
để đảm bảo được hiệu quả trong sử dụng vốn
từ việc giảm thiểu chi phí sử dụng vốn và hạn
chế những rủi ro mặc định khi sử dụng vốn vay.
Điều đó một phần tùy thuộc vào tiềm lực nội
tại của chính doanh nghiệp, phần lớn còn lại
phụ thuộc ở chiến lược phát triển kinh doanh,
mức độ thành công của phương án sản xuất
kinh doanh và sự mạo hiểm khi đối diện với
rủi ro trước một tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng. Vì
vậy, từ cấu trúc vốn tối ưu, kết quả phân tích
sẽ giúp doanh nghiệp xác định được cấu trúc
vốn mục tiêu cho riêng mình cho tỷ lệ vốn chủ
sở hữu và vốn vay. Trên thực tế, vẫn có doanh
nghiệp nâng mức vốn vay lên trên 50% mà
vẫn đạt được hiệu quả sử dụng vốn như mong
đợi. Nhưng từ cấu trúc vốn tối ưu được xác
định ứng với những điều kiện riêng của doanh
nghiệp, cấu trúc vốn mục tiêu thường được các
doanh nghiệp duy trì mức tỷ lệ vốn vay trong
độ an toàn mà đa phần doanh nghiệp ứng dụng
thấp hơn tỷ lệ vốn sở hữu, có thể là 60% vốn
chủ sở hữu và 40% vốn vay4. Điều đáng chú ý
khác là không phải trong trường hợp nào mức
chi phí sử dụng vốn vay thấp cũng mang lại
hiệu quả nếu doanh nghiệp vẫn để vốn tự có
nhàn rỗi hay chưa tối đa hóa được hiệu dụng
của đồng vốn đó.
Không riêng gì với các nhà tài chính, việc
cắt giảm chi phí sử dụng vốn mà nâng cao giá
trị cho từng đồng vốn được sử dụng cũng được
(3) Khoản 1, Điều 8 Luật Doanh nghiệp năm 2005.
(4) Xem: Eugene F. Brigham, Joel F. Houston, Quản trị tài chính (Bản dịch của tập thể tác giả Khoa Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM), NXB
Văn hóa Sài Gòn, năm 2009, tr. 714 - 773.
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5112
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
các nhà kinh tế học lưu ý.
Những phân tích của họ
về tính kinh tế theo phạm
vi trong xác định quy mô
và phương án sản xuất
giúp chúng ta biết điều
này.
Nhìn chung, việc sử
dụng nợ trong kinh doanh
có thể làm gia tăng rủi ro
tài chính cho doanh nghiệp
do cộng thêm áp lực rủi ro
lên đồng vốn của chủ sở
hữu, hay có thể làm mất
đi cơ hội khả năng vay nợ
sau đó khi có nhu cầu thật
sự về vốn, nhưng bù lại, doanh nghiệp có thể
giảm nhẹ gánh nặng rủi ro kinh doanh lên tài
sản của doanh nghiệp. Không những thế, việc
sử dụng vốn vay sẽ tạo đòn bẩy hoạt động cao
do chi phí vốn cố định sẽ được sử dụng nhiều
hơn; đồng thời sẽ tạo áp lực cho nhà quản lý
điều hành hoạt động doanh nghiệp sao cho
việc sử dụng vốn thật hiệu quả, ít nhất là để có
đủ khả năng thanh toán nợ.
Các kết quả phân tích này cho thấy, việc
yêu cầu nhà đầu tư chuẩn bị một mức vốn nhất
định khi mới thành lập doanh nghiệp có thể sẽ
tước bỏ đi cơ hội sử dụng vốn vay và tái cấu
trúc vốn để tối đa hóa lợi nhuận trên từng đồng
vốn kinh doanh.
Thứ ba, xuất phát từ tính nhân văn của
pháp luật.
Lấy lý do nhằm ngăn cản sự xuất hiện của
các công ty ma và các chủ thể tìm cách thành
lập doanh nghiệp để thực hiện những hành
vi xảo trá, có đề nghị phải đòi hỏi về số vốn
cần thiết nếu muốn tiến hành hoạt động kinh
doanh, thay vì phải đặt ra trọng trách của các
thiết chế kiểm soát xã hội và kiềm tỏa hành
vi lệch lạc. Làm như vậy sẽ thật sự không
công bằng với những người ham thích kinh
doanh và có thể kinh doanh tốt từ hai bàn tay
trắng nhưng sở hữu khối óc thông minh và
đầy mẫn cán.
Trước đây, mặc dù pháp luật đã đặt ra mức
vốn tối thiểu phải có để được thành lập doanh
nghiệp, nhưng các doanh nghiệp ma vẫn mọc
như nấm và tung hoành ngang dọc, chứ không
cần đợi đến lúc các quy định này được tháo bỏ.
Rõ ràng là, nếu ai đó có ý định lường gạt thì dù
pháp luật có quy định mức vốn pháp định cũng
khó lòng triệt tiêu những mưu toan của họ. Bù
lại, họ sẽ tìm mọi cách để thỏa mãn các ràng
buộc như là một khoản đầu tư chi phí để tìm
kiếm những khoản lợi lộc phi pháp sau đó. Vì
vậy, quy định của pháp luật - trong trường hợp
này - chỉ mang tính hình thức và có thể tạo ra
những chi phí không đáng có cho phần còn lại
của xã hội.
Thời gian qua chúng ta đã thấy, có nhiều
doanh nghiệp nhà nước với số vốn điều lệ lớn
hơn nhiều mức vốn pháp định nhưng làm ăn
không hiệu quả, phải trông chờ vào sự “che
chở” của Nhà nước, trong khi đó, dù không
nhiều, nhưng sự đóng góp của các thương nhân
“tay không gây dựng cơ đồ” cho nền kinh tế
và xã hội là không nhỏ. Đặc biệt, với một đất
nước đang nghèo như chúng ta thì sự vươn lên
từ nghịch cảnh càng đáng được ghi nhận, trân
trọng và biểu dương.
Do đó, pháp luật doanh nghiệp cần bảo đảm
tính nhân văn bằng cách không được tước bỏ
đi những cơ hội quý giá và lợi ích hoàn toàn
chính đáng cho một đội ngũ thương nhân mới,
52 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
chỉ vì với một lý do giản đơn là để đề phòng
cho những rủi ro dự cảm. Bằng không, việc
làm của chúng ta chỉ mang lại cơ hội cho
những người giàu có, và như nhiều người đã
nói, Luật Doanh nghiệp lúc ấy chỉ là đạo luật
dành cho những người giàu có kinh doanh.
Ba nội dung trên đây đã được phân tích
xuất phát từ quyền tự do kinh doanh và việc
tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các chủ
thể - một đòi hỏi cần thiết trong tiến trình thúc
đẩy tự do hóa thị trường và phát triển kinh tế
thị trường. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên lý
biện chứng của sự tự do là tự do trong giới hạn,
có ý kiến cho rằng việc ghi nhận quyền tự do
kinh doanh của các chủ thể cần tính đến khía
cạnh đảm bảo độ an toàn nhất định cho các
đối tác - thường là chủ nợ - cũng như toàn nền
kinh tế. Liệu việc loại bỏ quy định về mức vốn
pháp định để trao quyền tự do cho các nhà đầu
tư vốn có bảo đảm được điều này?
2. Đối với doanh nghiệp đối tác - chủ nợ
Thứ nhất, cần xác định thời điểm hình thành
chức năng bảo đảm nợ của vốn.
Bình thường, không có nhà đầu tư nào khi
chưa tiến hành kinh doanh mà đã nghĩ đến
chuyện phải lo chuẩn bị tài sản để trả nợ. Vì
một là, nếu có nợ thì nợ đó chỉ có thể phát sinh
sau khi doanh nghiệp đã đi vào hoạt động, hay
nói cách khác là sau khi số tài sản - vốn đó của
doanh nghiệp đã được sử dụng cho các hoạt
động của doanh nghiệp. Cho nên, chức năng
nguyên thủy của vốn ngay từ khi thành lập
doanh nghiệp phải là chức năng phục vụ cho
hoạt động kinh doanh. Hai là, có thể sau quá
trình hoạt động, doanh nghiệp chưa tạo ra nợ
hoặc có thể tạo ra nợ nhưng chưa đến mức phải
sử dụng nguồn vốn của chủ sở hữu để thanh
toán nợ. Chính vì vậy, việc xác định chức năng
bảo đảm nợ của vốn khi doanh nghiệp vừa
thành lập là không khoa học, tạo áp lực bất hợp
lý cho nhà đầu tư. Và càng không thuyết phục
khi cho rằng, chức năng bảo đảm nợ là chức
năng quan trọng nhất của vốn kinh doanh.
Thứ hai, cần xác định khối lượng tài sản
bảo đảm nợ của doanh nghiệp.
Nếu như doanh nghiệp sử dụng toàn bộ tài
sản của mình cho hoạt động kinh doanh, thì
toàn bộ khối tài sản đó sẽ được dùng để bảo
đảm nợ đối với khách hàng, chứ không riêng gì
vốn của chủ sở hữu (tài sản của doanh nghiệp
bao gồm cả tài sản tự có, tài sản tạo lập thêm
và cả tiền vay). Vì vậy, có thể khi cần thanh
toán nợ, doanh nghiệp chưa cần thiết phải sử
dụng đến vốn gốc - vốn điều lệ - của mình. Vì
vậy, đòi hỏi về một mức vốn điều lệ đủ lớn để
bảo đảm nợ là không thật sự thuyết phục và xa
rời thực tiễn hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, chính các chủ nợ phải là người gánh
chịu rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Một đối tác của doanh nghiệp trở thành
chủ nợ khi họ trực tiếp cho doanh nghiệp
vay nợ hay cho doanh nghiệp nợ tiền hàng
hoặc những khả năng tương tự như thế. Dù là
trường hợp nào thì đó cũng là hoạt động đầu
tư, kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận của chủ
nợ, còn nếu không thì lợi ích cũng được “đắp
đổi” qua lại. Như vậy, chủ nợ phải chịu những
rủi ro trong kinh doanh như một nguyên lý
bình thường của hoạt động kinh doanh. Mục
đích điều chỉnh của pháp luật không thể đè
gánh nặng lên vai của một phía. Cho nên, để
đảm bảo độ an toàn cho hoạt động kinh doanh
của mình, chủ nợ cần phải đánh giá kỹ lưỡng
năng lực của doanh nghiệp mà mình cấp vốn.
Doanh nghiệp chỉ có nghĩa vụ cung cấp thông
tin xác thực, không cung cấp khống thông tin
so với năng lực thật sự của mình. Nếu đánh
giá không chính xác thì chủ nợ phải tự chịu
hậu quả. Cho nên, Luật Doanh nghiệp mới quy
định các doanh nghiệp có thể phát hành trái
phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính mà
không chịu sự hạn chế như khi phát hành trái
phiếu cho các đối tượng khác5. Tương tự, hoạt
động bảo lãnh ngân hàng, bao thanh toán,
cũng có điều kiện xuất hiện, nhằm đáp ứng yêu
cầu bảo toàn cho chủ nợ.
Thứ tư, khẳng định phạm vi trách nhiệm
(5) Khoản 2 Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5312
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
trong phạm vi hưởng lợi của doanh nghiệp.
Chúng ta đã bàn nhiều về ý nghĩa của quy
định về tính chịu trách nhiệm hữu hạn của
người góp vốn vào công ty. Có một điều cần
lưu ý thêm là khi doanh nghiệp được thành
lập, với số vốn điều lệ bao nhiêu, khi hoạt
động và gây nợ, doanh nghiệp đó sẽ chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ số tài sản đó. Bởi lẽ, trước
khi buộc phải thanh toán nợ, các thành viên
của công ty cũng chỉ tiến hành hoạt động kinh
doanh trong phạm vi phần vốn đó và cũng chỉ
được hưởng lợi từ những phần lợi nhuận được
tạo ra từ phần vốn đó mà thôi.
Cho nên, vốn nhiều họ có thể được lợi
nhiều, vốn ít họ có thể hưởng lợi ít, không có
lý do buộc doanh nghiệp phải đảm bảo mức
vốn nhất định để lo chịu trách nhiệm tài sản
trong tương lai trong khi bản thân không có
nhu cầu hưởng lợi từ nguồn vốn lớn. Thực tế,
nếu doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận ở
mức cao từ nguồn vốn thấp thì cũng nhờ tài
năng của họ, và đương nhiên chủ nợ không vì
thế mà đòi hỏi. Trong khi, như nói ở trên, việc
giới hạn trách nhiệm như vậy sẽ góp phần làm
tăng thêm tính cẩn trọng cho chủ nợ, người
bảo lãnh6, để từ đó góp phần gìn giữ sự an
toàn cho thị trường, ngăn cản những mối nguy
cơ dẫn đến khủng hoảng tài chính - kinh tế như
sự dễ dãi của các ngân hàng Mỹ vừa qua.
Thứ năm, đòi hỏi khả năng bảo đảm nợ có
thể đánh mất bản chất của vốn pháp định.
Xuất phát từ sự ghi nhận quyền tự do kinh
doanh, Luật Doanh nghiệp cho phép nhà đầu
tư và doanh nghiệp được tiến hành hoạt động
kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Quy
định này tạo thuận lợi để doanh nghiệp thực
hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm cũng
như tăng cường hiệu quả kinh doanh trên cơ sở
tính kinh tế theo phạm vi. Đây là những chiến
lược nhằm tối đa hóa hiệu quả sử dụng đồng
vốn của doanh nghiệp. Nếu pháp luật đặt ra
mức vốn pháp định, trong trường hợp doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh ở nhiều lĩnh vực
khác nhau thì mức vốn tối thiểu này được xác
định như thế nào? Nếu mỗi lĩnh vực hoạt động
cần đảm bảo một số vốn riêng thì tổng vốn của
doanh nghiệp sẽ rất đồ sộ, đồng thời mục tiêu
tối đa hóa hiệu quả sử dụng đồng vốn như trên
không xảy ra. Nhưng nếu xác định mức vốn
cao nhất làm vốn pháp định để sử dụng chung
cho hoạt động kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực
thì có thể, những mong mỏi về khả năng bảo
đảm nợ của vốn điều lệ như lúc đầu sẽ không
được đáp ứng.
3. Đối với Nhà nước
Từ vị trí của Nhà nước, rõ ràng nghĩa vụ
bảo hộ cho các chủ thể kinh doanh hợp pháp
cần phải được nêu ra. Trong mối quan hệ giữa
hai bên doanh nghiệp và chủ nợ, khi chưa biết
ai tốt ai xấu, Nhà nước phải bảo toàn quyền lợi
cho cả hai. Trong khi đó, việc quy định mức
vốn pháp định với mục đích bảo đảm nợ chỉ
cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đối với
các chủ nợ, ngược lại tạo ra gánh nặng về tài
chính cho phía còn lại. Ở góc nhìn đối lập, việc
để doanh nghiệp tự xác định số vốn điều lệ
không làm mất đi quyền tự định đoạt, lựa chọn
khách hàng và cơ hội kinh doanh của chủ nợ.
Để Nhà nước hoàn thành trách nhiệm bảo
hộ công bằng cho cả hai phía, chính các doanh
nghiệp và chủ nợ đã “trả tiền công” cho Nhà
nước - đó là tiền thuế. Cả doanh nghiệp và chủ
nợ trong quá trình hoạt động đều phải thực hiện
đầy đủ những nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
Như đã trình bày, nếu doanh nghiệp biết sử
dụng hiệu quả nguồn vốn vay thì sẽ mang lại
nhiều giá trị cho doanh nghiệp. Được như vậy
là do doanh nghiệp đã có được “lá chắn thuế”.
Thay vì phải nộp thuế thu nhập cho Nhà nước
với một tỷ suất thuế cao khi sử dụng nguồn
vốn sẵn có thì doanh nghiệp chỉ phải trả tiền
lãi vay với mức tỷ suất thấp hơn7. Không phải
trong trường hợp này Nhà nước không thu
được thuế, bởi doanh nghiệp đã trả tiền lãi như
một khoản chi phí “thuê tài sản” thì chính chủ
(6) TS. Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật kinh tế, Nxb. ĐHQG Hà Nội, năm 2004, tr. 260.
(7) Cũng có trường hợp lãi suất sẽ rất cao như hiện nay, lúc đó doanh nghiệp nếu muốn có lợi thì sẽ chọn phương án tăng vốn điều lệ.
Cho nên, cơ chế tự điều chỉnh hành vi sẽ hướng dẫn doanh nghiệp có hành động hợp lý.
54 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
nợ phải là người nộp thuế cho Nhà nước trên
cơ sở doanh thu có được từ hoạt động kinh
doanh của mình - hoạt động cấp vốn. Nghĩa vụ
nộp thuế của các ngân hàng thương mại là điển
hình cho tình huống này. Nguồn thu ngân sách
vẫn được bảo toàn, trong khi nền kinh tế và xã
hội xuất hiện thêm nhiều giá trị tăng thêm do
doanh nghiệp sử dụng hiệu quả vốn vay tạo ra.
Như vậy, nếu buộc doanh nghiệp đóng thêm
thuế thì sẽ dẫn đến tình trạng Nhà nước thu hai
lần thuế cho một đối tượng chịu thuế. Chính vì
lẽ đó, “lá chắn thuế” như là một công cụ luôn
được các doanh nghiệp khai thác và pháp luật
của các nước đều không thể loại trừ.
4. Kiến nghị
Từ những khía cạnh phân tích về bản chất
và ý nghĩa của vốn, chúng tôi cho rằng, việc
bắt buộc phải có vốn điều lệ để bảo đảm cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là
cần thiết, nhưng duy trì quy định về mức vốn
tối thiểu là việc làm không mang lại nhiều
ích lợi. Tốt hơn hết là để cho những quy luật
và đòi hỏi của thị trường về nhu cầu vốn và
quyền tự quyết của nhà đầu tư quyết định.
Việc còn lại của Nhà nước là phải xây dựng
khung pháp lý và tổ chức thực thi hiệu quả để
những quy định cởi mở nêu trên không bị lợi
dụng, tác động xấu đến hoạt động kinh doanh
chung của thị trường.
Việc Luật Doanh nghiệp năm 2005 tiếp tục
duy trì quy định về mức vốn pháp định đối
với một số lĩnh vực kinh doanh minh chứng
cho nỗ lực này. Có hai lý do để nói như vậy
(và cũng là hai tiêu chí để hoàn thiện nhóm
quy định này): Một là, đó là những lĩnh vực
đòi hỏi một mức độ quy mô vốn cần thiết để
bảo đảm hiệu quả kinh doanh. Hai là, đó là
những lĩnh vực nhạy cảm, dễ tác động lây lan
và có xác suất rủi ro cao.
Ngoài ra, pháp luật doanh nghiệp và các
lĩnh vực có liên quan cần được pháp điển hóa
theo hướng sau:
Thứ nhất, tăng cường thiết chế tổ chức thực
thi tốt công tác hậu kiểm sau đăng ký kinh
doanh. Phương án này có được là nhờ kinh
nghiệm có được từ quá trình hoàn thiện cung
cách quản lý của nhiều nước trên thế giới. Ở
đâu, người ta cũng tìm mọi cách linh hoạt giữa
tiền kiểm và hậu kiểm, song rất nhấn mạnh
hậu kiểm8. Điều này luôn có ý nghĩa đối với
việc kiểm soát vốn điều lệ của doanh nghiệp,
kể cả khi có đòi hỏi về mức vốn pháp định hay
không. Nhưng sẽ là quan trọng hơn nhiều, nếu
chúng ta đã tháo bỏ điều kiện vốn pháp định.
Dĩ nhiên, trách nhiệm này Nhà nước phải thực
hiện tốt vì các chủ thể kinh doanh đều đã trả
tiền công thông qua nghĩa vụ thuế. Công việc
này thuộc về các cơ quan đăng ký kinh doanh
trong sự phối hợp với cơ quan thuế.
Thứ hai, hoàn chỉnh các quy định pháp
luật về chế độ lập và công khai các báo cáo
tài chính và trách nhiệm của doanh nghiệp
và cá nhân những người có liên quan không
thực hiện đúng các quy định này. Bởi lẽ, báo
cáo tài chính là tài liệu số hóa và phản ánh rõ
nét nhất phạm vi tổng tài sản, phần vốn điều
lệ của doanh nghiệp. Kể cả tình trạng nợ, các
khoản phải trả, phần vốn chưa đóng góp của
các thành viên khi thành lập doanh nghiệp,
đều được phản ánh rõ trong các tài liệu của
báo cáo tài chính. Từ đó, chủ nợ sẽ có đầy đủ
thông tin về doanh nghiệp để quyết định thiết
lập quan hệ (và tự chịu trách nhiệm về quyết
định của mình). Đồng thời, hoạt động thu thuế
của Nhà nước cũng được đảm bảo.
Thứ ba, quy định chặt chẽ quy chế tự khai
vốn điều lệ. Trách nhiệm của cá nhân cần được
đặt ra trong trường hợp này. Mặc dù hiện nay,
pháp luật có quy định về trách nhiệm cá nhân
của các thành viên trong trường hợp chậm góp
vốn, góp không đủ vốn, khai khống vốn,...9
nhưng những quy định này vẫn không đủ sức
răn đe và chưa tạo ra cơ chế chặt chẽ cho cơ
chế tự khai vốn.
Thực tế, Nghị định 102/2010/NĐ-CP vừa
(8) TS. Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, Nxb. ĐHQG Hà Nội, năm 2006, tr. 24.
(9) Xem thêm khoản 2, khoản 3 Điều 30; khoản 1 Điều 60 Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5512
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
được Chính phủ ban hành ngày 01/10/201010
có nhiều nội dung tập trung giải quyết vấn đề
này, đặc biệt là sự đòi hỏi các doanh nghiệp
phải bảo đảm đủ số vốn điều lệ trên thực tế.
Từ đó, Nghị định khẳng định lại thời hạn cụ
thể các thành viên góp vốn tiến hành góp đủ số
vốn đã cam kết11. Tuy nhiên, một số hướng dẫn
bổ sung còn chưa cho thấy sự chắc chắn của
giải pháp. Cụ thể, Điều 18 Nghị định này đưa
ra nguyên tắc: Trong thời hạn mà các thành
viên chưa chưa góp đủ số vốn như cam kết,
thành viên đó chỉ có số phiếu biểu quyết và
được chia lợi tức tương ứng với tỷ lệ số vốn
thực góp. Với những gì đang đòi hỏi, quy định
này đủ để chúng ta an tâm. Nhưng liệu liệu
pháp tước bỏ lợi ích để ràng buộc trách nhiệm
có phát huy hiệu quả, và đón nhận sự đồng
thuận? Trong khi, chính quy định tại Điều 39
Luật Doanh nghiệp lại buộc “thành viên không
góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số
vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên
đó đối với công ty và thành viên đó phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do
không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết”.
Vì thế, việc tìm kiếm giải pháp cho vấn đề này
cần được tiếp tục.
Thứ tư, cần có những giải pháp thúc đẩy
quá trình phát triển thị trường vốn, tạo điều
kiện cho nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận vốn.
Đồng thời, có quy phạm bắt buộc các tổ chức
tài chính bảo đảm độ an toàn khi cấp vốn trong
những điều kiện ràng buộc chặt chẽ, song hành
với quá trình hoàn thiện các quy định về các
hoạt động dịch vụ bảo lãnh nợ.
Thứ năm, xây dựng chế tài pháp luật đủ
mạnh để răn đe và ngăn ngừa hiện tượng vi
phạm các quy định nêu trên. Điều quan trọng
là từ kết quả của quá trình hậu kiểm chặt chẽ,
chúng ta phải triệt tiêu được số lượng các
doanh nghiệp ma đang tồn tại. Luật Doanh
nghiệp tuy đã có quy định về thu hồi giấy phép
kinh doanh trong trường hợp doanh nghiệp
không hoạt động sau đăng ký, nhưng trên thực
tế, điều này vẫn chưa được thực hiện tốt.
(10) Có hiệu lực kể từ ngày 15/11/2010.
(11) Điều 6 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ.
chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với
Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; có số lượng
và cơ cấu hợp lý; có trình độ kiến thức chuyên
môn hóa ngày càng cao, năng lực chỉ huy và
tổ chức hoạt động thực tiễn tốt, sẵn sàng nhận
và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được
giao. Kết hợp chặt chẽ việc giữ gìn cán bộ qua
chiến đấu, cán bộ có kinh nghiệm với việc trẻ
hóa đội ngũ, tạo sự chuyển biến liên tục, vững
chắc giữa các thế hệ; đảm bảo cán bộ trong
quân đội thực sự là nòng cốt, tin cậy của Đảng
trong xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng,
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao...
Tiếp tục đổi mới việc đánh giá, lựa chọn, sử
dụng cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả công tác là
chính; bảo đảm đánh giá đúng, sử dụng hợp lý,
thể hiện tính liên tục, kế thừa, phát triển. Chú
trọng quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ trì các
cấp, bảo đảm sự vững vàng về chính trị trong
quá trình chuyển tiếp các thế hệ cán bộ, nhất
là cán bộ chủ trì cấp chiến lược, chiến dịch.
Tạo sự chuyển biến toàn diện, đồng bộ về chất
lượng đội ngũ cán bộ cả thường trực và dự bị.
Nghiên cứu đề ra các giải pháp phát huy nguồn
lực của đất nước đào tạo cán bộ cho quân đội;
điều chỉnh, bổ sung các chế độ, chính sách phù
hợp để bồi dưỡng, phát triển đội ngũ và thu hút
nhân tài vào phục vụ quân đội.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁN BỘ...
(Tiếp theo trang 48)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- y_nghia_cua_von_va_ly_do_thao_bo_quy_dinh_ve_von_phap_dinh.pdf