Cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới và con đường thực hiện cách mạng khoa học công nghệ ở Việt Nam

Xã hội loài người luôn vận động và phát triển không ngừng, trình độ của nhân loại ngày càng được nâng cao. Từ thời kỳ sản xuât chủ yếu là lao động giản đơn, kỹ thuật thủ công lạc hậu đến nay chủ yếu là tự động hóa sản xuất và công nghiệp cơ khí, nền kinh tế đã được công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đạt đến đỉnh cao của sự phát triển. Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã dần cải tạo xã hội, cuộc cách mạng khoa học công nghiệp hiện đại với những bước tiến khổng lồ “một ngày bằng hai mươi năm” - cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử ngày nay mà nhân loại đã và đang được chứng kiến, nó đang tác động đến mọi nền kinh tế, mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Cuộc tranh đua giữa các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới diễn ra rất quyết liệt, khoa học công nghệ ngày một phát triển, nó len lỏi, xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi vậy, nó đã hình thành một xã hội thông tin, một nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ.

doc23 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1125 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới và con đường thực hiện cách mạng khoa học công nghệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1. Mở đầu. Các bạn có biết thế giới đang từng ngày thay đổi, luôn biến động và có những bước phát triển thần kỳ? Vậy nó thay đổi ra sao? Biến động như thế nào? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về những chặng đường phát triển của nó để thấy được những điều thần kỳ vẫn đang diễn ra không ngừng. Mọi vấn đề của xã hội đều là vấn đề mà con người phải quan tâm bởi xã hội này là của loài người, do con người tạo ra và cũng do họ điều khiển nó. Lịch sử nhân loại đã và đang có những biến đổi đa dạng và sâu sắc về mọi mặt, từ đời sống đến tinh thần, từ văn hóa đến tư tưởng, cả về lý luận và thực tiễn. Xã hội phát triển không ngừng và có những quy luật chặt chẽ, trình độ của con người ngày càng được nâng cao. Con người đã biết ứng dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật vào cac lĩnh vực của đời sống xã hội để cải biến và định hướng cho nó phát triển. Nhân loại đã từng trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần hai hay còn gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới và là động lực quan trọng để phát triển nền kinh tế toàn cầu. Nó giữ một vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển và là cơ sở trong sự nghiệp đổi mới đang phát triển. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu vươn lên thành một nước công nghiệp trên thế giới. Công nghiệp hóa hiện đại hóa phải liên tục trau dồi những tri thức nhân loại, tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ hiện đại vận dụng sáng tạo để phát triển để phát triển nền kinh tế, từng bước hình thành nền kinh tế trí thức tạo một bước tiến mới cho sự phát triển của đất nước. Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để từng bước thực hiện thành công mục tiêu lâu dài trên, mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và lần thứ X là: “Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá vào năm 2020”. Phát triển nền kinh tế trí thức phải vận dụng được những tiến bộ khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mới có thể thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Phải coi khoa học công nghệ là động lực của sự phát triển, cần liên tục đổi mới phương thức sản xuất, cải tạo lực lượng sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động cho xã hội bởi trình độ khoa học công nghệ của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Khoa học công nghệ nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và kinh tế tri thức trên thế giới. Mọi vấn đề của xã hội đều là những vấn đề, đối tượng nghiên cứu của triết học, triết học với tư cách là khoa học của các ngành khoa học đã đi sâu vào đời sống con người và đã trở thành một ngành khoa học chủ chốt không thể thiếu. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới, nó đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của loài người. Đứng từ góc độ triết học chúng ta hãy cùng nhau đi vào tìm hiểu nó để biết rõ hơn về vấn đề nóng bỏng này của xã hội. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới và con đường thực hiện cách mạng khoa học công nghệ ở Việt Nam” để có được những nhận thức đầy đủ hơn về nó. Nhưng vì khả năng có hạn tôi chưa thể trình bày được đầy đủ về vấn đề này dù đã cố gắng rất nhiều. Vậy các bạn hãy cùng tôi tham gia vào bài tiểu luận để bổ sung những thiếu sót sửa những lỗi sai, hoàn thiện nó để chúng ta có một đề tài thật hoàn hảo nhé! Chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp của tất cả các bạn! Phần 2. Nội dung A. NGUỒN GỐC VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Lực lượng sản xuất trong lý luận hình thái kinh tế xã hội trước Mác. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động tạo thành tư liệu lao động khai thác giới tự nhiên làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Chính người lao động là chủ thể trong quá trình sản xuất với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động tác động vào tư liệu sản xuất để tạo ra vật chất. Công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất - công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là sức mạnh tri thức đa được vật thể hóa, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Nó là yếu tố động nhất của tư liệu sản xuất, được hoàn thiện không ngừng trong quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh sáng chế kỹ thuật. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến động to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà còn là tri thức khoa học. Có thể nói khoa học và công nghiệp hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất theo hướng thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất là tạo ra một sự đổi mới quan trọng trong lực lượng sản xuất, nó sẽ làm thay đổi, cải biến quan hệ sản xuất xã hội là một nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội. II. Sự hình thành những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức. Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương pháp hoạt động. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử đặc biệt: lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vậy kinh tế tri thức là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng dễ chấp nhận nhất hiện nay là định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra năm 1995: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng nền kinh tế tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội, mà trong quá trình lao động của ngừơi lao động và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên. Ở trình độ kinh tế tri thức những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, công nghệ có tác động to lớn tới sự phát triển xã hội. Chẳng hạn như công nghệ thông tin công nghệ sinh học... nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học công nghệ cao. Một ngành kinh tế được coi là đã trở thành kinh tế tri thức ki giá trị do tri thức tao ra chiếm tỷ lệ áp đảo (khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành đó. Một nền kinh tế được coi là đã phát triển đến trình độ kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Trên thế giới hiện nay, ở các nước thuộc Tổ chức OECD, các ngành kinh tế tri thức đã đóng góp trên 50% GDP (MỸ 55,3% ; Nhật bản 53%..). Nhiều nền kinh tế công nghiệp mới và các nước đang phát triển cũng đang hướng mạnh vào nền kinh tế tri thức, tập trung nỗ lực để phát triển nhanh một số ngành kinh tế tri thức, như công nghệ thông tin Internet, thương mại điện tử, công nghệ phần mềm... Qua thực tế phát triển, có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức như sau: - Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Trong kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng ; trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số. - Trong kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trên mọi lĩnh vực và thiết lập đựơc các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp cả nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. - Trong kinh tế tri thức nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hoá; sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. - Trong kinh tế tri thức, mọi hoạt động có liên quan đến vấn đề toàn cầu kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Với những đặc điểm ngày càng to lớn và vai trò của kinh tế tri thức, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “tranh thủ cơ hội thuận do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hôi chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá hiện đại hoá. B. BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRÊN THẾ GIỚI CUỐI THẾ KỶ XX - ĐẦU THẾ KỶ XXI I. Khái quát sự phát triển khoa học công nghệ. Thế kỷ XX là thế kỷ của cuộc cách mạng vĩ đại nhất của lịch sử phát triển nhân loại trong các lỉnh vực như xã hội, kinh tế, khoa học và công nghệVới vai trò là động lực của sự phát triển, các cuộc cách mạng trong lĩnh vực khoa học công nghệ ngày càng tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới. Nền tảng của cuộc cách mạng này là những phát kiến vĩ đại và những đổi mới công nghệ có tính đột phá trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ diễn ra trong suốt thế kỷ vừa qua. Những thành tựu to lớn trong lĩnh vực các khoa học tự nhiên đã tạo ra các tiền đề khởi phát căn bản cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Cuộc cách mạng này gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau, đó là: Giai đoạn 1: cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật (từ thập niên 40 đến giữa thập niên 70 của thế kỷ XX). Giai đoạn 2 : cuộc cách mạng khoa hoc và công nghệ hiện đại (từ sau thập niên 70 của thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI). Nếu trong nhiều thế kỷ trước đây, khoa học chỉ phát triển một cách độc lập và mãi cho tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mới có quan hệ mật thiết với kỹ thuật và công nghệ, với tốc độ phát triển chậm hơn so với chúng thì vào nửa sau của thế kỷ XX, khoa học đã tiến vượt lên trên và giữ vị trí chủ đạo trong dây chuyền “khoa học – kỹ thuật – sản xuất”. Kể từ đây, đã diễn ra quá trình khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp, không chỉ biểu hiện ở vai trò của khoa học ngày càng tăng, mà điều kiện cần thiết để lực lượng sản xuất lên một bước phát triển mới. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã bắt đầu và thực sự bùng nổ kể từ thập niên 40 đến giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba được đặc trưng bởi việc áp dụng nhanh chóng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vì vậy nền kinh tế thế giới đã đạt được tốc độ tăng trưởng 5% - 6% vào đầu nửa sau của thế kỷ XX. Tiếp ngay theo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, từ thập niên 80 trở đi cuộc cách mạng công nghiệp đã quá độ sang một giai đoạn mới, đó là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Các chuyển dịch này là kết quả của quá trình tích lũy lâu dài các thành tựu khoa học của việc tăng quy mô sử dụng kỹ thuật mới và đổi mới công nghệ sản xuất. Nó đã đưa nhân loại tiến vào ngưỡng cửa của một thời đại mới, đó là thời đại trí thức. Đây là bước quá độ sang sự phát triển kỹ thuật và công nghệ hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa học trong lĩnh vực của đời sống xã hội và các ngành sản xuất vật chất biến bản thân khoa học thành nền công nghiệp trí thức. Trong thời đại trí thức, trí thức con người đóng vai trò quyết định của sự phát triển, họ sử dụng tri thức của mình để chế tạo ra các lại máy móc, các thiết bị có thể thay thế một phần chức năng điều khiển tư duy của mình trong một số lĩnh vực với kết quả cao hơn nhiều so với bộ não con người. Trong thời đại tri thức, nền kinh tế công nghiệp sẽ chuyển thành nền kinh tế thông tin (hay còn gọi là kinh tế trí thức, kinh tế tin học, kinh tế mạng). Với cốt lõi là cuộc cách mạng vi điện tử diễn ra từ đầu thập niên 60 và các thành tựu khoa học kỹ thuật lớn nhất của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại còn là bước quá độ dưới sự chỉ đạo và với vai trò dẫn đường của khoa học sang quá trình tổ chức lại về căn bản công nghệ sản xuất, điều tiết các quá trình công nghệ với quy mô ngày càng tăng, tổ chức lại tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội trên cơ sở những ngành công nghệ cao mà các cuộc cách mạng trước đó chưa đủ điều kiện tạo ra một cách hoàn chỉnh như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng, công nghệ tự động hóa trên cơ sở kỹ thuật vi điện tử Với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khái niệm “kỹ thuật” đã được bao hàm trong khái niệm “công nghệ”, kể từ đây cụm từ “khoa học công nghệ” đã thay thế dần cụm từ “khoa học kỹ thuật”. Kết quả là, từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX trở đi, một loại hình xã hội mới với tên gọi là xã hội thông tin đang từng bước được hình thành trong lòng xã hội công nghiệp với sự gia tăng ngày càng lớn của các loại hình dịch vụ (nhất là các ngành xử lý thông tin) trong cơ cấu sản xuất xã hội. II. Những đặc trưng, xu thế vận động và phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Những đặc trưng và xu thế vận động mới. Mặc dù cho tới nay chưa có một công trình nào đưa ra một định nghĩa đầy đủ và cụ thể về cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Nhưng chúng ta có thể hiểu cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự thay đổi căn bản trong bản thân các lĩnh vực khoa học công nghệ cũng như mối quan hệ và chức năng xã hội của chúng, khiến cho cơ cấu và động thái phát triển của lực lượng sản xuất bị thay đổi hoàn toàn. Vai trò hàng đầu là yếu tố con người trong hệ thống lực lượng sản xuất dựa trên việc vận dụng đồng bộ các ngành công nghiệp mới có hàm lượng khoa học công nghệ cao (công nghệ cao - hi - tech) như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học. Ở những nét khái quát nhất có thể định nghĩa cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại, được thực hiện với vai trò dẫn đường của khoa học trong toàn bộ chu trình “khoa học - công nghệ - sản xuất - con người - môi trường”. Trong đó, có thể thấy một số đặc điểm lớn sau : Một là, sự vượt lên trước của khoa học so với kỹ thuật và công nghệ, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật - công nghệ. Hai là, các yếu tố riêng biệt của quá trình sản xuất được kết hợp hữu cơ với nhau tạo thành một hệ thống liên kết trên quy mô quốc gia và quốc tế tạo điều kiện xuất hiện các hệ thống công nghệ mới về nguyên tắc (cách mạng công nghệ). Ba là, hầu hết các chức năng lao động dần dần được thay thế từ thấp đến cao, từ lao động chân tay sang lao động trí tuệ, con người từ chỗ bị lệ thuộc, bị trói chặt vào quá trình sản xuất tiến lên làm chủ và chi phối quá trình sản xuất. Bốn là, phát triển hệ thống lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội, tác động từ nhiều khía cạch làm phân công lao động xã hội trong phạm vi quốc gia và quốc tế ngày càng mở rộng. So với các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai trước đây chỉ là thay thế một phần chức năng lao động chân tay của con người bằng máy móc cơ khí hoặc tự động hóa một phần, hay tự động hóa cục bộ trong cách mạng khoa học kỹ thuật, thì khác biệt căn bản nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự thay thế phần lớn và hầu hết chức năng của con người (cả lao động chân tay lẫn lao động trí óc) bằng các thiết bị máy móc tự động hóa hoàn toàn trong quá trình sản xuất nhất định. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX) đã thay thế sức mạnh cơ bắp, sức kéo của động vật, sức gió, sức nước, bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng mới như sắt, than đá làm nền kinh tế quá độ từ thời đại nông nghiệp sang nền sản xuất cơ khí trên cơ sở khoa học. Cách mạng công nghiệp lần hai (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) đã chuyển nền sản xuất sang nền sản xuất dựa trên cơ sở điện cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất với hệ thống kỹ thuật dựa trên nguồn lực là động cơ đốt trong, năng lượng là điện năng, dầu mỏ đến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật (thập niên 40 đến thập niên 80 của thế kỷ XX) với sự phát triển mạnh mẽ của tự động hóa và điều khiển hóa học trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và sản xuất. Nếu các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây góp phần tiết kiệm lao động sống thì cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, hơn thế nữa còn góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực khác cho xã hội, cho phép tương đối ít các phương tiện sản xuất tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Nếu cơ sở của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là năng lượng hạt nhân dựa trên nguyên tắc phân dã hạt nhân gây ra chất thải và ô nhiễm môi trường thì cách mạng khoa học công nghệ hiện đại có năng lượng hạt nhân dựa trên nguyên tắc hoàn toàn mới là tổng hợp hạt nhân không có kèm theo các sản phẩm gây ô nhiễm cho môi trường, đây chính là nguồn năng lượng của tương lai. 2. Xu thế và dự báo phát triển khoa học công nghệ đầu thế kỷ XXI. 2.1 Xu thế phát triển khoa học công nghệ. Những đột phá khoa học công nghệ mới cuối thế kỷ XX đã làm đảo lộn hình thái mọi phương diện chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội của đời sống xã hội loài người. Trong thế kỷ XXI, sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại dựa trên cơ sở các cuộc cách mạng lớn trong các lĩnh vực đời sống (vật lý điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới) đang mở đường cho nhân loại tiến vào các kỷ nguyên lớn về khoa học công nghệ: - Kỷ nguyên thông tin (khoảng từ năm 2010 – 2015) tiếp theo của hai kỷ nguyên : Kỷ nguyên nông nghiệp và kỷ nguyên công nghiệp. - Kỷ nguyên sinh học - cách mạng sinh học là then chốt kể từ sau khi phát hiện ra mã AND. - Kỷ nguyên vật liệu mới : Tiêu biểu là sự phát hiện các vật liệu siêu dẫn. - Kỷ nguyên siêu cơ bản : Dựa trên những khám phá mới của lĩnh vực vật lý lượng tử và các siêu cơ bản. - Kỷ nguyên năng lượng mới : Nguồn năng lượng là năng lượng tổng hợp nhiệt hạch (được tìm ra từ năm 1991). - Kỷ nguyên vũ trụ : Công nghệ năng lượng mới, công nghệ vật liệu, công nghệ chế tạo các vi - điện tử và tới đây là công nghệ vi - quang tử. Các kỷ nguyên đã diễn ra trên nền tảng của những xu thế phát triển lớn trong các lĩnh vực khoa học công nghệ : . Xu thế chuyển từ định hướng vào mạng sang định hướng vào nội dung trong công nghệ thông tin và truyền thông. . Công nghệ gen. . Phỏng sinh học. . Công nghệ Nano. . Lượng tử quang học : Mục tiêu xây dựng một lý thuyết thống nhất về các hạt và các lực chi phối toàn bộ thế giới để giải thích các bí mật lớn lao của vũ trụ. Đây sẽ là cuộc cách mạng lớn tác động đan chéo lẫn nhau và sẽ gây lên những biến động khó lường cho nhân loại trong thế kỷ XXI này. 2.2 Dự báo. Năng lượng được thay thế bằng những nguồn năng lượng phân hạch, năng lượng hữu cơ - các vật liệu sinh học, năng lượng khí Hiđro Môi trường: Chất thải từ các hộ gia đình được tái sử dụng, đa số các chất CFC đều được thay thế bởi chất HFC mà những vật liệu không phá hủy tầng Ôzôn, thực hiện sinh thái học trong công nghiệp. Thực phẩm được sản xuất bằng phương pháp di truyền học, giảm thiểu một nửa số lượng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu có hại, hải sản phát triển bằng cách nuôi trồng thủy sản đảm bảo phần lớn hải sản tiêu dùng Công nghệ thông tin - phần cứng máy tính sử dụng các thiết bị máy tính rộng rãi từ các loại máy vi tính bỏ túi đến siêu máy tính, các chíp sinh học. Công nghệ thông tin - phần mềm máy tính phục vụ thiết thực cho các hoạt động của con người như cảm nhận giác quan bằng máy tính, dịch ngôn ngữ bằng máy tính Chế tạo cơ khí học với máy tính, người máy được sản xuất phục vụ cho công việc. Vật liệu mới siêu dẫn, Composit thay thế kim loại truyền thống. Phát triển các dịch vụ tự chăm sóc sức khỏe bằng máy tính điện tử, liệu pháp gen được sử dụng rộng rãi để ngăn chặn và điều trị các căn bệnh di truyền, đặc biệt là các bộ phận cơ thể được sản xuất bằng phương pháp tổng hợp. Một chuyến bay có người tới sao hỏa sẽ được thực hiện, con người đạt được tốc độ gần với tốc độ của ánh sáng. Giao thông vận tải: Phát triển các đường ray tốc độ cao, tàu bay siêu âm cho các chuyến bay xuyên đại dương, các hệ thống giao thông vận tải thông minh được sử dụng phổ biến để giảm tắc nghẽn giao thông trên xa lộ. C. CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI VỚI VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM. I. Khoa học công nghệ tác động đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao ứng dụng ngày càng nhiều hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước động sử dụng máy móc, tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Đó là nước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Đi liền với cơ khí hoá là hiện đại hoá và tự động hoá sản xuất từng bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp, trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản xuất. Sở dĩ như vậy là vì, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất tư liệu sản xuất, đặc biệt là của ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất, quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng (hay tốc độ tăng truởng) của toàn bộ nền kinh tế. Sự phát triển của các ngành chế tạo tư liệu sản xuất là cơ sở, là “đòn xeo”để cải tạo, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển cho khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Sự phân loại trên cho ta thấy đối tượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân nhưng trước hết và quan trọng nhất là ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất . Đồng thời, mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là sử dụng kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Tất cả những điều đó chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một nền khoa học công nghệ phát triển đến một trình độ nhất định. Khi mà nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển như vũ bão, khoa của học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; khi mà công nghệ đang trở thành nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất.. tức là nói đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá; hiệu quả của sản xuất, kinh doanh thì khoa học - công nghệ phải là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển khoa học - công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần chú ý tới những vấn đề sau đây: Thứ nhất, phải xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học công nghệ. Sở dĩ như vậy là vì, khoa học công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, trong khi đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ nước ta còn nhỏ bé chất lượng thấp; khả năng của đất nước ta về vốn, phương tiện nghiên cứu rất hạn hẹp. Do đó chúng ta không thể cùng một lúc đầu tư phát triển tất cả các lĩnh vực khoa học công nghệ mà phải lựa chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư. Nếu việc lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho khoa học công nghệ phát triển và ngược lại, nếu việc lựa chọn không đúng thì không những ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của khoa học công nghệ mà còn ảnh hưởng không tốt đến công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phương hướng chung cho sự phát triển khoa học công nghệ ở nước ta là: phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghẹ thông tin và công nghệ sinh học,tranhát triển kinh tế tri thức. Thứ hai, phải tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học công nghệ. Việc xác định những phương hướng đúng cho sự phát triển khoa học công nghệ là cần thiết nhưng chưa đủ, mà khoa học công nghệ chỉ phát triển khi được đảm bảo những điều kiện kinh tế xã hội cần thiết. Những điều kiện đó là: đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có số luợng đủ lớn, chất lượng cao; đầu tư ở mức cần thiết; các chính sách kinh tế xã hội phù hợp... Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, người lao động - lực lượng sản xuất hàng đầu - không những phải đựơc nâng cao trình độ văn hoá và khoa học - công nghệ mà còn phải đựơc trang bị cả cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả của sự phát triển lực luợng sản xuất, vừa là người tạo ra sự phát triển đó. II. Quan điểm, mục tiêu phát triển khoa học công nghệ đến năm 2010. 1. Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ. Quan điểm chủ đạo về phát triển khoa học và công nghệ đã được chỉ rõ trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, như: Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Luật khoa học và công nghệ, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX và Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX mới đây. Những quan điểm này cần được cụ thể hoá và phát triển phù hợp với bối cảnh mới trong nước và quốc tế trong giai đoạn từ nay đến năm 2010. a) Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để khoa học công nghệ nhanh chóng phát huy được vai trò là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước cần có chính sách quan tâm đặc biệt đến phát triển khoa học công nghệ: coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư phát triển; ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực; tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. b) Phát triển kinh tế - xã hội dựa vào khoa học và công nghệ, phát triển khoa học và công nghệ định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh. Các chủ trương, quyết định, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng phải được luận cứ về khoa học và công nghệ; các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải hướng vào giải quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy mạnh việc triển khai nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, từ việc định hướng chiến lược phát triển, hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện. c) Bảo đảm gắn kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo; giữa khoa học và công nghệ; giữa khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật. Sự gắn kết giữa khoa học công nghệ với giáo dục - đào tạo trước hết phải được thực hiện ngay trong các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển; đồng thời có cơ chế khuyến khích kết hợp với biện pháp hành chính để tạo ra sự hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức này. Sự gắn kết giữa các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và giữa khoa học với công nghệ được thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội tổng hợp và phát triển bền nước vững đất. d) Đẩy mạnh tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ thế giới, đồng thời phát huy năng lực khoa học và công nghệ nội sinh, nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ phải được đẩy mạnh nhằm khai thác những cơ hội mà toàn cầu hoá có thể mang lại. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần lấy nhập công nghệ từ các nước phát triển là chủ yếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế - kỹ thuật; đồng thời nâng cao năng lực khoa học và công nghệ nội sinh để tiếp thu có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới. Đổi mới cơ chế quản lý nhằm khai thác tối đa năng lực khoa học công nghệ hiện có trong nước, vừa tranh thủ tiếp thu, ứng dụng nhanh chóng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới. e) Tập trung đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ. Nhà nước tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; kết hợp đồng bộ giữa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật với đầu tư đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, thực hiện dứt điểm các công trình để sớm phát huy hiệu quả đầu tư. Quan điểm này phải được quán triệt ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ 5 năm và hàng năm trên cơ sở định hướng khoa học và công nghệ trọng điểm được đề ra trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia nghiên cứu, ứng dụng và đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. 2. Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010 tập trung thực hiện 3 nhóm mục tiêu chủ yếu. a) Bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình công nghiệp hoá rút ngắn, phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới. Khoa học và công nghệ, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình công nghiệp hóa rút ngắn và xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các giải pháp phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới; giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn khác do cuộc sống đặt ra. b) Góp phần quyết định nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, đảm bảo quốc phòng và an ninh. Đến 2010, khoa học và công nghệ phải góp phần quyết định vào việc tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả ở một số ngành kinh tế quan trọng. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi kỹ thuật tiến bộ trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm nhằm phát huy có hiệu quả nguồn tài nguyên sinh học nhiệt đới, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu ngang bằng các nước có nền nông nghiệp phát triển trong khu vực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân và bộ mặt nông thôn nước ta vào năm 2010. Hỗ trợ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực tiểu thủ công nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và mở rộng xuất khẩu. Nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ, thích nghi và cải tiến các công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài trong một số lĩnh vực dịch vụ, kết cấu hạ tầng (tài chính, ngân hàng, bưu chính, viễn thông, giao thông vận tải, hàng không, v.v...) nhằm đảm bảo sự tương hợp quốc tế, hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Xây dựng và phát triển có trọng điểm một số ngành công nghiệp công nghệ cao; phát triển công nghiệp công nghệ thông tin - truyền thông, công nghiệp công nghệ sinh học trở thành các ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu trong nước, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. c) Xây dựng và phát triển năng lực khoa học và công nghệ đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực: Bảo đảm tốc độ tăng tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ từ ngân sách nhà nước phải lớn hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước, đồng thời đẩy mạnh đa dạng hoá các nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ. Phấn đấu đưa tổng mức đầu tư của toàn xã hội cho khoa học đạt 1% GDP vào năm 2005 và 1,5% GDP vào năm 2010. Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có chất lượng cao, có cơ cấu trình độ, chuyên môn phù hợp với các hướng khoa học và công nghệ ưu tiên, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và được phân bố hợp lý theo vùng lãnh thổ. Phấn đấu đến năm 2010, nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ ngang mức trung bình tiên tiến của các nước trong khu vực. Hình thành một số tổ chức nghiên cứu - phát triển và một số trường đại học đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực ở một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm, một số ngành khoa học có thế mạnh của Việt Nam. Hoàn thành xây dựng giai đoạn I hai khu công nghệ cao tại Hoà Lạc và thành phố Hồ Chí Minh; đưa vào sử dụng và khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia đã được phê duyệt; nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật một số tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ quan trọng về thông tin khoa học và công nghệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng. Hình thành mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ đủ năng lực hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ với giáo dục - đào tạo, sản xuất - kinh doanh. Hình thành cơ chế quản lý quản lý khoa học và công nghệ tiến bộ, tương hợp quốc tế: Đổi mới căn bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường, đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ và hội nhập quốc tế; tạo động lực phát huy sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ; nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ. Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ: Đến năm 2010, khoa học và công nghệ nước ta đủ năng lực tiếp thu, làm chủ và sử dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài; có khả năng nghiên cứu và ứng dụng một số công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hoá, cơ - điện tử; tiếp cận trình độ thế giới trong một số lĩnh vực khoa học Việt Nam có thế mạnh. III. Phương hướng, nhiệm vụ và tố chức thực hiện khoa học công nghệ chủ yếu giai đoạn 2006 - 2010. 1. Phương hướng a) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là những vấn đề lý luận cơ bản phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, cung cấp đủ luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. b) Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, chú trọng nghiên cứu có định hướng ứng dụng phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh.   c) Tăng cường năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ trong nước, làm chủ công nghệ hiện đại, nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế.   d) Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ thích hợp cho khu vực nông thôn và miền núi, chú trọng các vùng đặc biệt khó khăn nhằm phát huy thế mạnh vùng miền, tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân. e) Tập trung đầu tư phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đạt trình độ quốc tế. Đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực.   f) Tiếp tục đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phục vụ quốc phòng, an ninh.  2. Nhiệm vụ khoa học công nghệ chủ yếu. a) Khoa học xã hội và nhân văn  Triển khai nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quản lý. Nghiên cứu làm rõ những vấn đề mới về mô hình phát triển và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Dự báo các xu thế phát triển của thế giới và khu vực để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Cung cấp luận cứ khoa học cho việc phát triển toàn diện con người và văn hoá Việt Nam, quản lý sự phát triển xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  b) Khoa học tự nhiên  Tập trung vào nghiên cứu cơ bản trong một số lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh về toán học, vật lý, hoá học, cơ học, khoa học sự sống, khoa học về trái đất. Đặc biệt chú ý đến các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng nhằm hỗ trợ cho quá trình lựa chọn, tiếp thu, làm chủ và cải tiến các công nghệ tiên tiến nhập từ nước ngoài, tiến tới sáng tạo công nghệ của Việt Nam. c) Khoa học công nghệ * Công nghệ thông tin và truyền thông Nghiên cứu, nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông tương đương với trình độ khu vực và quốc tế trong các lĩnh vực: bưu chính viễn thông, ngân hàng, tài chính, du lịch, thương mại, năng lượng, giao thông vận tải, quốc phòng, an ninh, v.v...    * Công nghệ sinh học Ứng dụng rộng rãi công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, y dược và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu phát triển công nghệ sản phẩm phục vụ xây dựng ngành công nghiệp sinh học. Tập trung nghiên cứu, làm chủ và đưa vào ứng dụng một số công nghệ cao trong lĩnh vực giải mã gen, sản xuất vắc xin thế hệ mới, công nghệ tế bào gốc. * Công nghệ vật liệu tiên tiến Tập trung nghiên cứu ứng dụng các công nghệ vật liệu tiên tiến để sản xuất thép, hợp kim đặc biệt, vật liệu polime và compozit, vật liệu điện tử và quang tử. Nghiên cứu công nghệ vật liệu nano và làm chủ công nghệ vật liệu y - sinh, công nghệ sản xuất nguyên liệu phục vụ chế tạo các vật liệu tiên tiến. * Công nghệ cơ khí chế tạo máy - tự động hoá Ứng dụng công nghệ tích hợp, phát triển kỹ thuật rô bốt thông minh, rô bốt song song. Nghiên cứu công nghệ thiết kế, chế tạo các hệ điều khiển cơ - điện tử; phát triển kỹ thuật mô phỏng, kỹ thuật tạo mẫu ảo, công nghệ điều khiển số trong các ngành cơ khí, dệt may, da giầy v.v... Bước đầu triển khai một số hướng nghiên cứu mới như hệ vi cơ điện tử, nano cơ điện tử.   * Công nghệ trong lĩnh vực năng lượng  Nghiên cứu ứng dụng các dạng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và có hiệu quả. Nghiên cứu các giải pháp công nghệ để khai thác an toàn, có hiệu quả các dạng năng lượng truyền thống.  Phát triển các công nghệ chế tạo thiết bị cơ khí năng lượng như: tổ hợp thiết bị thuỷ điện, hệ thống truyền dẫn điện, thiết bị điện cao áp.  Nghiên cứu ứng dụng năng lượng bức xạ và các vấn đề phục vụ xây dựng, quản lý và vận hành an toàn nhà máy điện hạt nhân.  * Công nghệ bảo quản và chế biến nông sản, thực phẩm  Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ sơ chế quy mô nhỏ và vừa, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế biến tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản, thực phẩm, đặc biệt là một số sản phẩm có lợi thế và triển vọng xuất khẩu như: gạo, cà phê, chè, điều, cao su, thuỷ sản, các sản phẩm thịt, rau, hoa, quả, dầu thực vật. * Công nghệ vũ trụ Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám, công nghệ định vị toàn cầu phục vụ thông tin và truyền thông, điều tra và quản lý tài nguyên thiên nhiên, giám sát môi trường, phòng tránh thiên tai, quy hoạch sử dụng và vùng lãnh thổ, đánh bắt thuỷ sản, quản lý phương tiện giao thông vận tải, phục vụ quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Xây dựng năng lực thiết kế, chế tạo một số trạm thu phát mặt đất, khí cụ bay để tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành ngành công nghiệp công nghệ vũ trụ và phát triển ngành công nghệ thông tin và truyền thông. 3. Tổ chức thực hiện. a) Giao Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ: - Trong quý II năm 2006, tiến hành tổng kết việc thực hiện các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 2001 - 2005. - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan quyết định danh mục, mục tiêu, nội dung, kế hoạch và hướng dẫn triển khai thực hiện các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 để thực hiện phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu tại Điều 1 của Quyết định này. - Chủ trì, phối hợp với Hội đồng lý luận Trung ương quyết định mục tiêu, nội dung các chương trình nghiên cứu khoa học xã hội về lý luận chính trị, tư tưởng, xây dựng Đảng. - Hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu tại Điều 1 của Quyết định này theo quy định hiện hành của Nhà nước.  - Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ và các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước.    b) Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm và hàng năm của Bộ, ngành, địa phương theo định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu nêu tại Điều 1 Quyết định này và hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ; chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ của Bộ, ngành, địa phương.      c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch vốn đầu tư  phát triển, vốn sự nghiệp khoa học và công nghệ hàng năm trên cơ sở thống nhất với Bộ Khoa học và Công nghệ về nội dung đầu tư để bảo đảm thực hiện phương hướng, mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 5 năm 2006 - 2010.  Phần 3. Kết luận. Xã hội loài người luôn vận động và phát triển không ngừng, trình độ của nhân loại ngày càng được nâng cao. Từ thời kỳ sản xuât chủ yếu là lao động giản đơn, kỹ thuật thủ công lạc hậu đến nay chủ yếu là tự động hóa sản xuất và công nghiệp cơ khí, nền kinh tế đã được công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đạt đến đỉnh cao của sự phát triển. Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã dần cải tạo xã hội, cuộc cách mạng khoa học công nghiệp hiện đại với những bước tiến khổng lồ “một ngày bằng hai mươi năm” - cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử ngày nay mà nhân loại đã và đang được chứng kiến, nó đang tác động đến mọi nền kinh tế, mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Cuộc tranh đua giữa các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới diễn ra rất quyết liệt, khoa học công nghệ ngày một phát triển, nó len lỏi, xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi vậy, nó đã hình thành một xã hội thông tin, một nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ. Việt Nam cũng đang chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc cách mạng này. Từ một nước nghèo nàn lạc hậu, kinh tế kém phát triển đi lên nước ta đã và đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhâp kinh tế quốc tế nên việc ứng dụng, tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng những công nghệ tiên tiến vào sản xuẩt là một vấn đề cấp thiết. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình triết học Mác - Lênin (NXB Chính trị Quốc Gia) 2.Giáo trình kinh tế Chính trị Mac-Lênin (NXB Chính trị Quốc Gia) 3. Khoa học công nghệ với nhận thức biển đổi Thế Giới và con người (NXB Khoa học và công nghệ) 4. Khoa học công nghệ trên Thế Giới (Bộ khoa học công nghệ và môi trường) Các trang web: Vietbao.vn Vnn.vn Gso.net Chungta.com Khoahoccongnghe.com.vn Most.gov.vn MỤC LỤC Phần 1. Mở đầu. 1 Phần 2. Nội dung. 3 A.Nguồn gốc và cơ sở lý luận. 3 I. Lực lượng sản xuất trong lý luận hình thái kinh tế xã hội trước Mác. 3 II. Sự hình thành và những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế trí thức. 4 B. Bối cảnh khoa học công nghệ trên thế giới cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI. 5 I. Khái quát sự phát triển khoa học công nghệ. 5 II. Những đặc trưng, xu thế vận động và hướng phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. 7 1.Những đặc trưng và xu thế vận động mới. 7 2.Xu thế cụ thể và dự báo phát triển khoa học công nghệ đầu thế kỷ XXI. 9 C. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam. 11 I. Khoa học công nghệ ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam II. Quan điểm, mục tiêu phát triển khoa học công nghệ đến năm 2010. 12 1.Quan điểm phát triển khoa học công nghệ. 12 2.Mục tiêu phát triển khoa học công nghệ đến năm 2010. 14 III. Phương hướng, nhiệm vụ và tổ chức thực hiện khoa học công nghệ giai đoạn 2006-2010. 16 1.Phương hướng. 16 2.Nhiệm vụ khoa học công nghệ chủ yếu. 17 3.Tổ chức thực hiện. 19 Phần 3. Kết luận. 21

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8982.doc
Tài liệu liên quan