Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện chiến lược kinh doanh cho Bắc Việt GROUP

Với việc công nghệ sản xuất ngày càng cao, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra không ngừng thì yêu cầu về lực lượng lao động chất lượng cao là rất bức thiết. Một trong những điểm yếu lớn nhất của nguồn cung lao động của Việt Nam đó là trình độ của người công nhân không thực sự cao đủ để đáp ứng những yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao của thị trường lao động. Trước đây điểm mạnh nhất của thị trường lao động Việt Nam là giá thuê nhân công rẻ, đây cũng là một trong những thế mạnh để thu hút đầu tư vào Việt Nam từ trước đến nay. Tuy nhiên trong thời đại mà khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão thì lao động giá rẻ không còn là lợi thế lớn như trước mà chính lượng cầu về lao động kỹ thuật cao ngày càng tăng. Trong khi đó thì những lao động ở Việt Nam đa số đều chưa qua đào tạo vậy thì nhu cầu về đào tạo nghề thích ứng với công nghệ cao là rất lớn. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: sinh viên ra trường tìm việc làm rất khó, tìm được việc làm phù hợp với chuyên ngành đào tạo còn khó hơn, nhưng ngược lại, những công nhân được đào tạo ở các trường đào tạo nghề thường được tuyển dụng trước cả khi kết thúc khóa học. Riêng điều này đủ cho thấy sự mất cân bằng trong nền đào tạo của chúng ta cũng như nhu cầu về công nhân lành nghề lớn đến mức nào. Hơn nữa, bản thân Bắc Việt cũng cần đào tạo lao động thích hợp cho sự hoạt động của công ty, nếu tham gia vào lĩnh vực đào tạo nghề này thì bản thân Bắc Việt có thể có được những công nhân lành nghề, những người giỏi nhất trong trường đào tạo nghề. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng có hiệu quả hoạt động sản xuất, giảm bớt sự khó khăn và chi phí trong công tác tuyển người vào đào tạo nguồn nhân lực. Vậy, việc đầu tư vào ngành giáo dục - đào tạo cũng là một sự đầu tư cho sự phát triển bền vững, vừa đem lại lợi nhuận vừa đem lại đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực hoạt động của Bắc Việt GROUP. Ngoài ra, khi tham gia lĩnh vực đào tạo nghề thì thương hiệu của Bắc Việt GROUP sẽ được nhiều người biết tới hơn, điều này là vô cùng có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với thương hiệu mạnh hơn, được nhiều người biết đến hơn thì không những hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại được cải thiện mà việc đầu tư vào những lĩnh vực mới cũng sẽ có rất nhiều thuận lợi.

doc57 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện chiến lược kinh doanh cho Bắc Việt GROUP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lược kinh doanh của Bắc Việt GROUP hiện nay Hiện tại Bắc Việt đang thực hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm đồng tâm dựa trên một mặt hàng ban đầu là sắt thép. Mục tiêu phát triển Công ty đặt ra mục tiêu tăng doanh thu và lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, phát triển, mở rộng doanh nghiệp, làm cho Bắc Việt ngày một lớn mạnh, trở thành một thương hiệu lớn ở Việt Nam. Các quan điểm phát triển - Công ty mong muốn từng bước nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm qua đó tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn cho sản phẩm. - Thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra thêm sản phẩm mới có sức cạnh tranh tốt trên thị trường. - Không ngừng nghiên cứu công nghệ mới, cải tiến công nghệ sẵn có để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. - Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Coi nhân tố con người là yếu tố chủ chốt ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của công ty đồng thời là chìa khóa cho sự phát triển của doanh nghiệp. Chiến lược phát triển Chủ động sử dụng các điểm mạnh của công ty như công nghệ sẵn có, kinh nghiệm hoạt động,... để khắc phục các điểm yếu như sự hạn chế về mặt tài chính, hạn chế về khả năng tham gia vào lĩnh vực mới,... qua đó tận dụng các cơ hội xuất hiện trên thị trường nhằm tăng hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm, tận dụng những lợi thế của doanh nghiệp. Thực hiện các hoạt động nghiên cứu, đầu tư, đào tạo... một mặt để thực hiện việc đa dạng hóa sản phẩm, mặt khác để nâng cao năng suất, tăng chất lượng sản phẩm nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường qua đó tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để công ty có được những công nghệ tiên tiến, đội ngũ lao động có trình độ cao đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong hiện tại và tương lai. 2. Quá trình thực hiện chiến lược Năm 2004, ban lãnh đạo công ty Thép Bắc Việt nhận thấy thời cơ đã chín muồi để thực hiện một chiến lược kinh doanh có quy mô lớn nhằm làm cho công ty phát triển mạnh mẽ hơn. Sau khi phân tích tình hình thị trường thép thời điểm đó, ban lãnh đạo công ty đưa ra kết luận về cơ hội mới trên thị trường: Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, các doanh nghiệp nước ngoài được phép đầu tư vào thị trường trong nước cùng với việc Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập WTO trong tương lai gần sẽ tạo ra rất nhiều dự án đầu tư mới, những khu công nghiệp lớn. Khi xây dựng cơ sở sản xuất, các nhà đầu tư thường tính đến việc xây dựng nhà xưởng theo mô hình nhà thép tiền chế vì đây là mô hình rất phù hợp với việc xây dựng nhà xưởng của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp với đặc điểm bền, đẹp,chịu lực tốt, thi công nhanh, có thê xây dựng trên một diện tích rất lớn và có giá thành rẻ hơn rất nhiều nếu xây dựng bằng vật liệu bê tông cốt thép. Bên cạnh đó, thép Bắc Việt cũng có những lợi thế rất lớn để tham gia vào lĩnh vực sản xuất kết cấu thép như việc công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mặt hàng sắt thép tức là đã có sẵn nguồn nguyên liệu đầu vào, đội ngũ cán bộ công nhân viên an hiểu về mặt hàng sắt thép cùng với các loại máy móc, công nghệ phục vụ cho chế biến sắt. Đứng trước cơ hội đó, ban lãnh đạo công ty đã ra quyết định đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nhà thép tiền chế. Với việc công ty kết cấu thép Bắc Việt thành lập vào năm 2006, Bắc Việt đã tiến một bước dài trong quá trình phát triển cũng như thực hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm dựa trên một mặt hàng cơ sở ban đầu là sắt thép. Kết cấu thép Bắc Việt đã tận dụng tốt nguồn nguyên vật liệu (kể cá nguyên vật liệu dư thừa), năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên cũng nhưng những mỗi quan hệ với khách hàng đã được tạo dựng từ trước của công ty Thép Bắc Việt để hoạt động kinh doanh hết sức hiệu quả. Cuối năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO khiến cho thị trường mở cửa, các dự án đầu tư tăng vọt đem đến rất nhiều đơn đặt hàng cho Kết cấu thép Bắc Việt khiến cho công ty tăng trưởng không ngừng. Bản thân thép Bắc Việt cũng hoạt động hiệu quả hơn khi công ty Kết cấu thép Bắc Việt thành lập vì nhờ đó mà có nguồn tiêu thụ những sản phẩm dư thừa, tạo dựng thêm thương hiệu, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy với điều kiện là một doanh nghiệp tư nhân, hạn hẹp về nguồn lực tài chính Bắc Việt đã áp dụng chiên lược đa dạng hóa đồng tâm để tận dụng tối đa công suất máy móc, sản phẩm dư thừa và năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên. Từ một sản phẩm cơ sơ là thép, Bắc Việt đã thực hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, không chỉ kinh doanh thép, sản xuất thép tấm và tấm lợp, Bắc Việt đã mở rộng ra sản xuất nhà thép tiền chế - một sản phẩm từ thép. Từ khi thành lập công ty kết cấu thép Bắc Việt cho đến nay, Bắc Việt GROUP vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược đa dạng hóa sản phẩm đồng tâm. Tiếp theo những thành công đạt được trong bước đầu thực hiện chiến lược kinh doanh này, ban lãnh đạo công ty đã quyết định thực hiện chiến lược đa dạng hóa đồng tâm với việc mở rộng đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh có sự liên hệ với ngành thép để tận dụng những lợi thế sẵn có của doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các lĩnh vực hiện công ty đang tham gia. Công ty đã mở rộng sự đầu tư vào các hoạt động như vận tải, cho thuê kho bãi, làm dịch vụ logistic và tham gia vào lĩnh vực xây dựng. Với những mối quan hệ được tạo dựng từ trước khi tham gia hoạt động kinh doanh sắt thép đã giúp công ty thâm nhập dễ dàng hơn vào lĩnh vực vận tải, cho thuê kho bãi và xây dựng. Đồng thời nhờ đảm nhận thêm một số khâu trong chuỗi giá trị mà hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành thép được nâng cao. Song song việc tham gia vào lĩnh vực vận tải, Bắc Việt còn đảm nhận vai trò là đạo lý phân phối sản phẩm cho công ty nội thất 190. Đây cũng là một hoạt động kinh doanh rất có tiềm năng đồng thời cũng tạo ra thêm đơn đặt hàng cho hoạt động vận tải, tận dụng được tối đa khả năng của đội xe và đội ngũ quản lý. 3. Tình hình hoạt động của Bắc Việt GROUP trong giai đoạn 2005-2008 Ta có thể thấy được những mặt tích cực cũng như những mặt tích cực cũng như những khiếm khuyết của chiến lược đa dạng hóa sản phẩm của Bắc Việt GROUP thông qua kết quả hoạt động kinh doanh của họ trong giai đoạn thực hiện chiến lược kinh doanh này. Bảng 1: Doanh thu và lợi nhuận của Bắc Việt GROUP giai đoạn 2005-2008 2005 2006 2007 2008 Doanh thu 143,693,810 160,210,100 429,288,944 557,650,325 Lợi nhuận trước thuế 320,856 386,742 17,082,486 24,591,801 Lợi nhuận sau thuế 183,867 257,454 16,126,107 17,525,111 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Bắc Việt GROUP Hình 1: Doanh thu của Bắc Việt GROUP (2005-2008) Hình 2: Lợi nhuận của Bắc Việt GROUP (2005-2008) Từ khi bắt đầu thực hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm ( tháng 8/2006 với sự ra đời của công ty kết cấu thép Bắc Việt) hoạt động của công ty có sự khởi sắc rõ rệt. Đặc biệt trong 2 năm 2007 và 2008 công ty đã có được một tốc độ phát triển chóng mặt. Ta có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào bảng thống kê và biểu đồ về doanh thu và lợi nhuận của Bắc Việt trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến hết năm 2008. Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy rằng năm 2005 Bắc Việt đạt doanh thu khoảng 140,7 tỷ VND, sang đến năm 2006, doanh thu đạt hơn 160 tỷ tốc độ tăng trưởng danh nghĩa khoảng 11,5%. Đến năm 2007, với việc công ty Kết cấu thép Bắc Việt bắt đầu đi vào hoạt động, doanh thu đã vọt lên đến hơn 429 tỷ VND, tức là gấp gần 2,7 lần so với năm 2006. Sang đến năm 2008 doanh thu của Bắc Việt đạt 557,6 tỷ VND với tốc độ tăng trưởng danh nghĩa đạt gần 30% tức là gấp gần 3 lần so với giai đoạn 2005-2006 khi chỉ có một công ty là Thép Bắc Việt hoạt động. Đương nhiên, nếu chỉ có doanh thu tăng lên thì không đủ đê chứng minh rằng một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Chúng ta cần xem xét đến một thước đo mà bàn thân nó là mục đich hoạt động chung của tất cả các doanh nghiệp tư nhân: Lợi nhuận. Nhìn vào bảng biểu, trong khi năm 2005 và năm 2006 lợi nhuận sau thuê chỉ đạt trên dưới 200 triệu VND thì ngay sau khi bắt đầu thực hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm thì lợi nhuận năm 2007 đã đạt đến một con số đáng kinh ngạc : 16,1 tỷ đồng - gấp tới 62,5 lần so với năm 2006. Năm 2008 đã chứng minh rằng lợi nhuận của năm 2007 không chỉ là hiện tượng nhất thời khi lợi nhuận của năm 2008 đạt 17,5 tỷ ( tốc độ tăng trưởng 8,7%). Đương nhiên lợi nhuận năm 2008 còn có thể cao hơn nữa nếu như không có cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào thời điểm cuối năm. Nguyên nhân Việc doanh thu và lợi nhuận tăng đột biến sau khi thực hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm đồng thời giữa được tốc độ tăng trưởng ở mức tương đối cao đã chứng minh sự hiệu quả trong chiến lược kinh doanh của Bắc Việt. Có thể nói nguyên nhân quan trọng nhất để Bắc Việt đạt được kết quả kinh doanh tốt như vậy là nhờ vào việc thức hiện thành công chiến lược đa dạng hóa sản phẩm dựa trên một mặt hàng cơ sở là sắt thép. Bên cạnh nguyên nhân trên không thể không kể đến các nguyên nhân khác như sự nỗ lực của toàn thể các thành viên của công ty, sự ưu ái và tín nhiệm của khách hàng cùng với một số điều kiện khách quan khác như là điều kiện thị trường thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp thép: Kinh tế phát triển mạnh, các dự án được đầu tư mới nhiều, giá thép không ngừng tăng lên... Bảng 2: Doanh thu và lợi nhuận của Bắc Việt GROUP trong năm 2008 Quý I và II Quý III Quý IV Doanh thu 304,319,575 146,903,611 106,427,139 Lợi nhuận trước thuế 13,596,218 10,560,629 434,954 Lợi nhuận sau thuế 9,608,293 7,603,652 313,166 [ Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Bắc Việt GROUP Hình 3: Tỷ trọng doanh thu của Bắc Việt GROUP trong năm 2008 [ Hình 4: Tỷ trọng lợi nhuận của Bắc Việt GROUP trong năm 2008 3 tháng cuối năm 2008 là quãng thời gian công ty hoạt động không thực sự hiệu quả. Ta có thể thấy rõ điều đó qua bảng thống kê doanh thu và lợi nhuận của Bắc Việt GROUP. Trong 3 quý I, II và III của năm 2008, doanh nghiệp đã hoạt động rất có hiệu quả, doanh thu và lợi nhuận luôn ở mức rất cao, đặc biệt là lợi nhuận sau thuế của công ty trong 3 quý này đã đạt 17,2 tỷ VND tức là hơn cả con số cả năm 2007 đạt được ( 16,1 tỷ). Tuy nhiến, 3 tháng cuối năm lại là giai đoạn công ty hoạt động không được như mong muốn, không chỉ doanh thu giảm ( 106 tỷ so với gần 147 tỷ trong quý III) mà lợi nhuận cũng giảm mạnh xuống chỉ còn 313 triệu VND tức là chỉ bằng 5,5% lợi nhuận trung bình của 3 quý đầu năm. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 2008 đã làm cho Bắc Việt GROUP hoạt động không hiệu quả. Doanh thu và lợi nhuận của Bắc Việt giảm mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế này đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực kinh tế mà sắt thép và xây dựng là một trong những ngành hàng bị ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề nhất. Đó là vì khi kinh tế khủng hoảng thì đương nhiên sự đầu tư sẽ bị hạn chế đến mức tối đa. Với đặc thù hoạt động trong ngành công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất thì Bắc Việt cũng như những doanh nghiệp sắt thép khác không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng. Khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, không còn đầu tư, sắt thép không bán được đã đồng loạt hạ giá., một số loại thép đã hạ từ 17000Đ/Kg xuống chỉ còn 8000Đ/Kg gây ra thiệt hại vô cùng lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh thép. Không chỉ vậy, với đặc thù của ngành kinh doanh là cần lượng vốn đầu tư cực lớn, mà phần rất lớn là vốn vay ngắn hạn, khi hàng hóa không thể bán ra thì các doanh nghiệp không thể quay vòng tài chính, từ đó không thể trả các khoản gốc và lãi vay ngân hàng. Lãi suất ngân hàng đã tạo một áp lực khủng khiếp lên các doanh nghiệp, thậm chí có thể khiến họ bị phá sản. Trong quy luật chung đó Bắc Việt GROUP đã bị ảnh hưởng dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh không được khả quan trong quý IV này. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế thế giới không phải là nguyên nhân duy nhất. Một nguyên nhân khác là việc Bắc Việt GROUP đã không phân tán được rủi ro trong kinh doanh. Với việc tập trung hoàn toàn vào các ngành sản xuất kinh doanh liên quan đến sắt thép và xây dựng, Bắc Việt đã chịu ảnh hưởng vô cùng nặng nề khi khủng hoảng kinh tế xảy ra mà không có hoạt động kinh doanh nào khác cỏ thể giảm bớt gánh nặng về tài chính cho họ. Giả sử nếu Bắc Việt có tham gia vào một ngành sản xuất kinh doanh ít biến động hơn như một ngành nào đó sản xuất ra tư liệu tiêu dùng thiết yếu (đường cầu ít co giãn) thì khi kinh tế có biến động lĩnh vực này sẽ là phao cứu sinh cho các lính vực bị ảnh hưởng nặng hơn. Ít nhất nó cũng sẽ giúp Bắc Việt giải quyết vấn đề tính thanh khoản trong từ thời điểm qua đó giảm được sự thiệt hại cho toàn bộ hệ thống. III. Đánh giá chung về chiến lược kinh doanh của Bắc Việt GROUP 1. Những mặt tích cực Với chiến lược đa dạng hóa sản phẩm dựa trên cơ sở một mặt hàng cơ bản là sắt thép, Bắc Việt đã đạt được nhiều thành công, doanh thu và lợi nhuận thường xuyên được cải thiện, hiệu quả kinh doanh được nâng cao, kết quả kinh doanh khởi sắc: Thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm, Bắc Việt đã tận dụng được tối đa công suất của toàn bộ hệ thống máy móc thiết bị cũng như năng lực, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Trong khi sản xuất kinh doanh thép tấm, tôn lợp và các mặt hàng sắt thép khác thường hay tạo ra những mảnh sản phẩm thừa được loại ra và bán thanh lý với giá rẻ. Tuy nhiên, từ khi thành lập công ty kết cấu thép Bắc Việt, thì những sản phẩm thừa này vẫn có thể được tận dụng trong hoạt động sản xuất ra mặt hàng kết cầu thép qua đó tiết kiệm được chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, ta có thể thấy rằng một trong những điều quan trọng nhất quyết định đến sự thành công hay thất bại của một dự án đầu tư là công nghệ và nguồn nhân lực. Các công ty mới thành lập thường gặp nhiều khó khăn khi đi tìm công nghệ thích hợp, đào tạo nguồn nhân lực sao cho thích hợp với công nghệ và hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng với đặc thù doanh nghiệp đã có thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh sắt thép nên Bắc Việt không gặp phải quá nhiều khó khăn trong việc xử lý các công nghệ chế biến thép như cắt, đột, hàn... cũng như đào tạo nguồn nhân lực vì Bắc Việt đã có sẵn một đội ngũ nhân viên với kinh nghiệm và năng lực mạnh trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh sắt thép để làm nòng cốt cho công ty kết cấu thép Bắc Việt khi mới được thành lập. Việc đa dạng hóa sản phẩm làm cho công ty có thể đáp ứng nhiều nhu cầu thị trường hơn, nắm bắt những cơ hội xuất hiện trên thị trường, chủ động hơn trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, tìm được những bạn hàng lâu dài, tạo tiền đề để phát triển bền vững trong tương lai. Đối với một loại mặt hàng, khách hàng có thể có các nhu cầu khác nhau, có những khách hàng chỉ đơn giản là mua sản phẩm nhưng cũng có những người có nhu cầu chế biến và vận chuyển. Với chiến lược đa dạng hóa đồng tâm mà Bắc Việt đang thực hiện, công ty có khả năng đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng đối với sản phẩm sắt thép. Có thể thực hiện nhiều yêu cầu của khách hàng tức là đã tăng thêm cơ hội kinh doanh, tạo dựng được thương hiệu vững chắc hơn. 2. Những khiếm khuyết và khó khăn Tuy đạt được nhiều thành tựu với những mặt tích cực không thể phủ nhận nhưng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm của Bắc Việt không phải là không có những khiếm khuyết, khuyết điểm. 2.1- Vấn đề vốn đầu tư lớn Bản thân các doanh nghiệp hoạt động trong ngành thép đều cần lượng vốn đầu tư lớn, với việc tập trung đầu tư chỉ đang dạng hóa sản phẩm dựa trên một mặt hàng cơ sở là thép làm cho doanh nghiệp không phân tán được rủi ro khi có sự biến động bất lợi của thị trường liên quan đến ngành thép. Như việc đầu tư để thành lập công ty Kết cấu thép Bắc Việt đã tiêu tốn tới gần 40 tỷ VNĐ, các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực sắt thép cần điều kiện máy móc nhiều, diện tích nhà xưởng lớn và yêu cầu kỹ thuật rất cao. Việc đầu tư thành lập một công ty đã cần một tiềm lực tài chính khá lớn với thời gian thu hồi vốn tương đối dài. Đồng thời ngay khi doanh nghiệp hoạt động thì lượng vốn lưu động dùng để mua nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất cũng là rất lớn. Nếu không quay vòng được vốn thì chỉ riêng tiền lãi vay đầu tư cũng đủ sức bóp chết một doanh nghiệp. Nguyên nhân: Đặc thù của các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực sản xuất thép nói riêng và công nghiệp nặng nói chung đó là cần lượng vốn đầu tư ban đầu cũng như vốn lưu động là rất lớn, thời gian thu hồi vốn đầu tư ban đầu là tương đối dài. Đây là một vấn đề rất bất lợi một khi vòng quay của tiền tắc ở một khâu nào đó. Một nguyên nhân nữa đó là do kinh doanh quá mạo hiểm nên đã vay lượng vốn lớn đến mức khó có thể kiểm soát nếu xảy ra biến động. 2.2- Vấn đề rủi ro trong kinh doanh Cùng với đó việc đầu tư tập trung vào một ngành kinh doanh khiến cho doanh nghiệp không phân tán được rủi ro trong kinh doanh. Nếu như có một sự biến động bất lợi nào đó của thị trường ảnh hưởng đến ngành thép thì toàn bộ hệ thống kinh doanh của Bắc Việt đều sẽ bị ảnh hưởng. Với toàn bộ hoạt động kinh doanh nằm trong ngành thép thì nếu như xảy ra biến động thì doanh nghiệp sẽ không có một hoạt động kinh doanh nào khách để phân tán rủi ro, chia sẽ gánh nặng tài chính. Minh chứng rõ nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế cuối năm 2008. Khi cuộc khủng hoảng xảy ra, các dự án đầu tư bị đình lại khiến lượng đơn đặt hàng của công ty giảm mạnh. Giá thép hạ khiến công ty bị thiệt hại nặng. Hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ làm cho công ty mất tính thanh khoản, khó khăn trong việc xoay tài chính. Lượng vốn đầu tư lớn làm cho gánh nặng lãi ngân hàng đè nặng lên Bắc Việt là vô cùng khủng khiếp. Lúc này vì chỉ hoạt động trong lĩnh vực sắt thép mà công ty không có một phao cứu sinh về tài chính nào dù chỉ là phao cứu sinh tức thời để giải quyết tính thanh khoản tại thời điểm. Nguyên nhân: Mặc dù tập trung đầu tư vào ngành thép có thể tận dụng được kinh nghiệm, máy móc, nguyên vật liệu thừa... nhưng cũng vì tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều trong ngành thép nên khi thị trường thép có biến động bất lợi thì toàn bộ hệ thống sẽ bị ảnh hưởng có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một bộ máy. Đây là vấn đề không phân tán được rủi ro trong kinh doanh do chỉ tập trung đầu tư vào một lĩnh vực. 2.3- Bỏ qua một số cơ hội kinh doanh Ngoài ra, việc tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh liên quan đến mặt hàng sắt thép làm cho Bắc Việt chưa đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm năng lớn mà doanh nghiệp có thể tham gia. Trong thời gian doanh nghiệp hoạt động từ năm 2000 đến nay, thị trường trong nước xuất hiện rất nhiều cơ hội kinh doanh mà doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng nắm lấy như thời điểm năm 2005 đã có một số đối tác ngỏ ý muốn hợp tác đầu tư với Bắc Việt trong một số lĩnh vực như: đồ uống, nước giải khát, nước hoa quả đóng hộp,... Tuy nhiên ban lãnh đạo Bắc Việt đã từ chối vì muốn tập trung toàn bộ nguồn lực cho việc đầu tư vào công ty Kết cấu thép Bắc Việt. Vào thời điểm đó đây là một lựa chọn hợp lý, tuy nhiên, sau khi đầu tư và đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất kết cấu thép và thu được những thành tựu nhất định thì lãnh đạo công ty vẫn không hướng sự chú ý đến những thị trường trong các lĩnh vực khác mà vẫn chỉ tập trung phát triển trong lĩnh vực sắt thép và xây dựng để tận dụng những lợi thế sẵn có. Do đó đã bỏ qua một số cơ hội kinh doanh có thể đem lại lợi nhuận, thương hiệu và sự bảo hiểm về tình thanh khoản cho doanh nghiệp Nguyên nhân: Vấn đề này xuất hiện là do doanh nghiệp quá tập trung vào thị trường quen thuộc là thị trường những mặt hàng liên quan đến sắt thép mà không nghiên cứu thị trường để tìm những cơ hội đầu tư mới, nhưng lĩnh vực có tiềm năng. Đây là tâm lý đi theo lối mòn và không chịu thay đổi con đường đã từng thành công. Nhận xét: Nhìn chung trong giai đoạn 2005-2008, do áp dụng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm dựa trên một mặt hàng cơ sở là thép mà công ty đã hoạt động tương đối tốt và đạt được nhiều thành tựu lớn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 3 tháng cuối năm 2008 công ty đã có dấu hiệu chững lại, kết quả hoạt động không được tốt như giai đoạn trước đó. Một phần nguyên nhân của tình trạng này chính là do chiến lược kinh doanh của công ty còn một số khiếm khuyết. Cụ thể là sự không phân tán được rủi ro trong kinh doanh. Đề giúp cho công ty hoạt động có hiệu quả hơn trong thời gian tới cần phải tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược kinh doanh của Bắc Việt GROUP. Chương III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CHO BẮC VIỆT GROUP I- Căn cứ đề xuất giải pháp hoàn thiện chiến lược cho Bắc Việt GROUP 1. Dự báo nhu cầu của thị trường về các loại sản phẩm mà công ty có thể cung cấp Hiện nay, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển với nhu cầu xây dựng cơ bản là rất lớn, các mặt hàng như thép tấm, tôn lợp, nhà thép tiền chế nhu cầu vẫn sẽ ổn định trong thời gian tới. Qua thời kỳ khó khắn, đến khi kinh tế phục hồi thì Việt Nam vẫn là một thị trường hấp dẫn vốn đầu tư từ nước ngoài, cùng với những dự án được đầu tư từ nguốn vốn trong nước, chúng sẽ là nguồn cầu ổn định của mặt hàng sắt thép và xây dựng. Thêm vào đó, hiện tại Việt Nam cũng đang phát triển mạnh ngành công nghiệp đóng tàu cũng như nhiều ngành công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất khác, đó là một thị trường với tiềm năng khai thác rất lớn. Hiện tại doanh nghiệp sản xuất thép khung trong nước mới đáp ứng được 50% nhu cầu. Việt Nam hiện có khoảng 25 - 30 nhà máy sản xuất kết cấu thép ở cả khu vực phía Nam và phía Bắc, riêng Tổng công ty Lắp máy Việt Nam có tới 8 nhà máy. Mỗi năm, nhu cầu thép khung phục vụ thị trường xây dựng cả nước vào khoảng 750 - 800 ngàn tấn. Tuy nhiên, năng lực sản xuất của các đơn vị trong nước mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu, phần thiếu hụt phải nhập khẩu hoàn toàn. Theo dự báo, nhu cầu thép khung phục vụ xây dựng sẽ tăng nhanh trong các năm tới do sự phát triển của các dự án xây dựng nhà cao tầng, hạ tầng cơ sở và nhất là dự án giao thông ngầm. Sau năm 2010, nhu cầu thép khung sẽ tăng bình quân từ 1 đến 2 triệu tấn/năm. Thép khung đã trở thành vật liệu tối ưu phục vụ các dự án xây dựng cầu ở cả miền Bắc, miền Nam và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, sản phẩm thép khung còn phục vụ thiết thực cho các dự án tàu điện ngầm, xây dựng nhà cao tầng, bảo trì các công trình hạ tầng cơ sở... Các chuyên gia trong ngành cho rằng, với tốc độ đô thị hóa nhanh như hiện nay, nhu cầu về sản phẩm thép công nghiệp có chất lượng cao sẽ tiếp tục gia tăng mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, khoảng 50% thị phần của dòng sản phẩm kết cấu thép ở Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ. Đây cũng là cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất trong nước đầu tư vào lĩnh vực này. Đời sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng là tương đối lớn. Đặc biệt, các mặt hàng là tư liệu tiêu dùng cấp thiết ít biến động cùng với sự biến động của nền kinh tế. Đây là một thị trường lớn với đường cầu có độ co giãn tương đối nhỏ, yêu cầu về vốn đầu tư không lớn như đầu tư vào ngành thép và công nghiệp nặng. Nếu như công ty tham gia vào lĩnh vực này thì nó sẽ là tấm phao cứu sinh hữu hiệu cho doanh nghiệp nếu xảy ra những biến động của thị trường tác động xấu đến ngành kinh doanh quen thuộc của công ty là ngành sắt thép. Trên thị trường, nhu cầu các sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nhựa rất lớn. Ngoài các sản phẩm gia dụng, nguyên liệu nhựa còn được sử dụng trong các ngành điện- điện tử, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, bao bì, giao thông... Có thể nói năm 2009 đang được xem là thời cơ vàng cho xuất khẩu nhựa của Việt Nam khi mà các nhà nhập khẩu nước ngoài đang chuyển hướng nhập khẩu sản phẩm nhựa từ thị trường Trung Quốc sang thị trường Việt Nam vì không muốn lệ thuộc vào một nước. Đây chính là cơ hội lớn cho ngành nhựa trong nước đối với những thị trường rộng lớn như Mỹ, Nhật, EU… Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao là rất bức thiết vì hiện nay đa phần lao động ở Việt Nam đều là lao động phổ thông chưa qua đào tạo hoặc chỉ đào tạo sơ qua trong khi nguồn lao động gồm những công nhân tay nghề cao là cực kỳ hạn chế. Thị trường đào tạo lao động sẽ là một thị trường lớn trong quá trình phát triển của Việt Nam. Theo các chuyên gia về nhân lực, nguồn nhân lực ở Việt Nam rất dồi dào nhưng lại thiếu trầm trọng về chất lượng. Lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển giao từ bên ngoài nhưng thiếu tính chuyên nghiệp. Trên thị trường lao động hiện tại, nguồn nhân lực cao cấp và công nhân tay nghề cao vẫn đang là mối quan tâm của nhà tuyển dụng. Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, những công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi. Tuy nhiên, nguồn cung ứng lao động có chất lượng trên thị trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn thành công việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản lý nước ngoài đã nhận xét rằng: "Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải quyết công việc, nhưng nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều". Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không thể thành đạt được, cho dù họ đã tập hợp được đội ngũ nhân công có đẳng cấp cao. Theo đánh giá, các chương trình đào tạo của Việt Nam hiện nay thường nhấn mạnh đào tạo kiến thức lý thuyết chứ chưa quan tâm đến các kỹ năng thực hành. Hầu hết các sinh viên ra trường không thể bắt tay ngay vào công việc mà luôn phải qua một thời gian đào tạo lại. Để tạo nên một bước tiến về đào tạo, cơ chế tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp, đặc biệt là trong các doanh nghiệp Nhà nước cần có sự thay đổi theo hướng ưu tiên lao động có chất lượng, có tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. 2. Năng lực hiện tại của công ty Sau một thời gian hoạt động tương đối thành công, Bắc Việt đã có một lượng vôn nhất định đủ sức đầu tư vào một số lĩnh vực khác. Nhìn vào kết quả hoạt động kinh doanh thời gian từ năm 2005 đến năm 2008 ta có thể thấy rằng doanh nghiệp đã hoạt động tương đối thành công. Điều này đồng nghĩa với việc sức mạnh tài chính của công ty được nâng cao, đủ sức tham gia vào các hoạt động đầu tư kinh doanh mới để mở rộng và phát triển doanh nghiệp. Năng lực của các nhà quản lý và đội ngũ cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao, đủ sức tham gia hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mới. Với việc tham gian hoạt động kinh doanh trong thời gian dài, đầu tư thành lập vào cho đi vào hoạt động nhiều công ty mới, đội ngũ quản lý của công ty đã có nhiều kinh nghiệm, năng lực quản lý được nâng cao. Thêm vào đó, đội ngũ nhân viên đã có trình độ nhất định, hoạt động có tổ chức nên sẽ không gặp quá nhiều khó khăn khi được đưa vào vị trí mới. Một lợi thế không nhỏ của Băc Việt GROUP lá sự hỗ trợ nhiều mặt từ phía tập đoàn Vinashin với việc tập đoàn góp vốn như một cổ đông. Tập đoàn Vinashin đã hỗ trợ không nhỏ cho công ty với trách nhiệm của một người góp vốn cổ phần vào công ty kết cấu thép Bắc Việt. Với uy tín và thương hiệu của mình, Bắc Việt đã tạo được chỗ đứng chắc trên thương trường và có được nhiều đối tác lớn, đáng tin cậy. Các bạn hàng thân thiết trên tỏ ý muốn hợp tác cùng Bắc Việt GROUP trong cả những lĩnh vực mới chứ không chỉ những lĩnh vực mà 2 bên đã hợp tác từ trước đến nay. Thậm chí muốn cùng Bắc Việt GROUP góp vốn đầu tư vào một số lĩnh vực mới trên nguyên tắc các bên cùng có lợi. 3. Tình hình kinh tế xã hội thời điểm hiện tại Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư. Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự nỗ lực cố gắng và chủ động khắc phục khó khăn của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và của toàn dân nên kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, kinh tế có bước tăng trưởng khá, lạm phát được kiềm chế, an sinh xã hội được bảo đảm, nhiều vấn đế xã hội bức xúc đã tiếp tục được giải quyết có hiệu quả : Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn. Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (so với tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%) nên giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn và giảm 11,4%; khu vực ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và tăng 42,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,8% và tăng 46,9%. Giá cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng tăng cao, ảnh hưởng nhiều đến đời sống của đại bộ phận dân cư, đặc biệt là những người có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, việc chi trả tiền lương và một số chế độ chính sách khác cho người lao động theo quy định mới ở một số địa phương còn chậm; tình trạng vi phạm pháp luật lao động, nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế vẫn xảy ra ở một vài nơi. Ở khu vực nông thôn, thiên tai, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm xảy ra liên tiếp; giá cả hàng hoá tiêu dùng, xăng dầu và vật tư nông nghiệp tăng cao đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nông dân. Để đảm bảo an sinh xã hội, ngân sách Nhà nước đã chi 42,3 nghìn tỷ đồng. Nhờ có các chính sách an sinh xã hội như trên và đặc biệt sản xuất nông nghiệp năm nay tuy bị ảnh hưởng của biến động giá cả dẫn đến chi phí tăng cao nhưng do chỉ đạo kịp thời của các cấp, các ngành khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định sản xuất nên kết quả đạt khá, đời sống nông dân vì thế cũng đỡ khó khăn hơn những tháng đầu năm. Do vậy, tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2008 ước tính 13,5%, thấp hơn với mức 14,8% của năm 2007. II- Phương hướng hoàn thiện chiến lược cho Bắc Việt GROUP 1. Tiếp tục thực hiện chiến lược đa dạng hóa đồng tâm 1.1- Tiếp tục tập trung vào các mặt hàng sẵn có Mặc dù lĩnh vực kinh doanh sắt thép đang gặp khó khăn nhưng đây chỉ là khó khăn tạm thời thế nên không có lí do gì để Bắc Việt từ bỏ lĩnh vực truyền thống của mình. Với khả năng, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong lĩnh vực kinh doanh truyền thống là sắt thép có thể đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sau khi đợt khủng hoảng kinh tế qua đi. Hiện tại tình hình chung ở thị trường lao động Việt Nam vẫn là những công nhân kỹ thuật cao cung không đủ cầu. Đội ngũ cán bộ nhân viên và quản lý có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này. Vì vậy đây là một nguồn lực quý giá không dễ gì có được. Hơn nữa, nếu rút chân khỏi những lĩnh vực truyền thống thì không chỉ thiệt hại về nguồn nhân lực mà còn mất đi công sức đã bỏ ra để đầu tư cũng như một lượng tài chính không hề nhỏ. Do vậy, khi chưa đến mức rơi vào tình trạng nguy hiểm hoặc nhìn rõ nguy cơ gặp nguy hiểm thì không nên rút chân ra khỏi thị trường truyền thống. Thị trường thép và xây dựng cơ sở vật chất cho hoạt động kinh tế vẫn là một thị trường cực kỳ hấp dẫn. Với công cuộc đầu tư, xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay, các mặt hàng thép và xây dựng vẫn có một thị trường mục tiêu ổn định trong thời gian tới với lượng cầu cực lớn. Như đã nói ở phần trước, khi xây dựng nhà xưởng ở các cơ sở công nghiệp, người ta thường tìm đến mặt hàng nhà thép tiền chế với ưu điểm là thời gian xây dựng ngắn, độ bền cao, có thể xây dựng dễ dàng trên một diện tích rât rộng... Thêm vào đó, Việt Nam đang dần trở thành công xưởng của thế giới với việc phát triển các ngành công nghiệp chế tạo, đóng tàu... những ngành mà nguyên liệu chính là sắt thép thế nên nguồn cầu cho mặt hàng này là khá ổn định. Tóm lại, Bắc Việt vẫn nên tiếp tục hoạt động trong thị trường truyền thống mà công ty đã hoạt động tư khi thành lập cho đến nay vì thị trường này vẫn rất lớn và công ty có những năng lực đáng kể để có thể thành công khi tham gia vào lĩnh vực này. 1.2- Mở rộng sang sản xuất container ( 1 sản phẩm từ thép) Sản xuất container là một lĩnh vực rất có tiềm năng vì hiện nay container là một công cụ phục vụ hiệu quả cho ngành vận tải hàng hóa. Vòng đời của một chiếc container chỉ là vài năm thế nên đây cũng là loại hàng hóa có lượng cầu ổn định lâu dài và có xu hướng ngày càng tăng. Với năng lực vốn có của Bắc Việt GROUP về máy móc thiết bị và nhân lực trong lĩnh vực sắt thép, sản xuất kết cấu, doanh nghiệp có khả năng thành công cao nếu tham gia vào lĩnh vực sản xuất container. Nếu tham gia vào lĩnh vực này, Bắc Việt không chỉ tăng được thu nhập mà còn tạo dựng được thương hiệu lớn mạnh đồng thời hỗ trợ được cho các lĩnh vực khác của công ty để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một yếu tố quan trọng để đảm bảo thành công nếu Bắc Việt tham gia sản xuất container đó là thị trường tiêu thụ mặt hàng này của công ty là rất ổn định nhớ có sự hậu thuận đáng kể của tập đoàn Vinashin. Tập đoàn Vinashin là một tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tàu thủy và vận tải biển với quy mô rất lớn. Mà hiện nay đa số các mặt hàng được vận tải bằng đường biển đều được chứa trong những chiếc container để đảm bảo không bị lẫn lộn, và đặc biệt vì yếu tố an toàn cho cả hàng hóa lẫn con tàu vận chuyển. Như đã nói ở trên, vòng đời của một chiếc container là tương đối ngắn thế nên một tập đoàn như Vinashin có nhu cầu về container rất lớn, đây sẽ là khách hàng lớn nếu như Bắc Việt tham gia sản xuất mặt hàng này. Chưa kể các bạn hàng trong các lĩnh vực khác cũng có nhu cầu về mặt hàng này cũng như những khách hàng tiềm năng lớn cả trong nước và quốc tế trong nền kinh tế mở cửa hiện này. Với những cơ hội lớn như vậy thì việc Bắc Việt đầu tư vào lĩnh vực sản xuất này là hết sức đúng đắn. Đây là cơ hội cần được tận dụng để cho doanh nghiệp có những bước tiến mới mạnh mẽ hơn. 2. Thực hiện thêm chiến lược đa dạng hóa theo chiều ngang Không chỉ chú trọng vào ngành hàng truyền thống mà Bắc Việt có sẵn kinh nghiệm. Doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào một số lĩnh vực mới có tiềm năng nhằm phân tán tủi ro trong kinh doanh đề phòng khi thị trường có biến động. Đầy là một việc hết sức cần thiết để doanh nghiệp có thể đứng vững một khi xuất hiện những biến động xấu trên thị trường ảnh hưởng tới ngành thép nói chúng và Bắc Việt GROUP nói riêng. 2.1- Sản xuất đồ nhựa tiêu dùng Lĩnh vực sản xuất đồ nhựa tiêu dùng là một lĩnh vực kinh doanh rất có tiềm năng với ưu điểm không phải đầu tư lớn, với việc đời sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về mặt hàng này là rất lớn. Với khả năng tài chính của mình, Bắc Việt đủ sức tham gia vào ngành hàng này, hơn nữa, công nghệ để sản xuất ra loại mặt hàng này cũng không quá phức tạp. Với khả năng phâm phối của các công ty hoạt động trong lĩnh vực vận tải và phân phối của Bắc Việt GROUP thì việc tìm thị trường tiêu thụ cho mặt hàng này cũng không quá khó khăn. Thị trường của loại sản phẩm này tương đối dễ tính và khá ổn định, không chịu ảnh hưởng của biến động về kinh tế nhiều như mặt hàng sắt thép. Hiện nay người tiêu dùng không mấy bận tâm đến thương hiệu của mặt hàng đồ nhựa gia dụng, cũng ít có doanh nghiệp nào thực sự bỏ lượng vốn lớn để tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực này. Cũng vì vậy mà sự cạnh tranh trên thị trường của mặt hàng đồ nhựa gia dụng là không quá gay ghắt. Vì khách hàng không quá quan tâm đến thương hiệu nên chỉ cần có hệ thống phân phối sản phẩm rộng là có thể tiêu thụ sản phẩm này thành công. Thị trường đồ nhựa tiêu dùng là một thị trường không quá hấp dẫn với nhưng doanh nghiệp lớn vì lợi nhuận của nó không quá cao. Nhưng cũng nhờ vậy mà sự cạnh tranh trong thị trường loại sản phẩm này là tương đối nhỏ. Có thể nó không phải là lĩnh vực đem lại lợi nhuận lớn nhưng nó sẽ là tấm phao cứu sinh tài chính hữu hiệu cho Bắc Vệt nếu xảy ra biến động xấu của thị trường ảnh hường đến ngành thép vì sự biến động của thị trường mặt hàng này so với mặt hàng sắt thép là không lớn. 2.2- Góp vốn đầu tư mở trường đào tạo nghề Với việc công nghệ sản xuất ngày càng cao, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra không ngừng thì yêu cầu về lực lượng lao động chất lượng cao là rất bức thiết. Một trong những điểm yếu lớn nhất của nguồn cung lao động của Việt Nam đó là trình độ của người công nhân không thực sự cao đủ để đáp ứng những yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao của thị trường lao động. Trước đây điểm mạnh nhất của thị trường lao động Việt Nam là giá thuê nhân công rẻ, đây cũng là một trong những thế mạnh để thu hút đầu tư vào Việt Nam từ trước đến nay. Tuy nhiên trong thời đại mà khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão thì lao động giá rẻ không còn là lợi thế lớn như trước mà chính lượng cầu về lao động kỹ thuật cao ngày càng tăng. Trong khi đó thì những lao động ở Việt Nam đa số đều chưa qua đào tạo vậy thì nhu cầu về đào tạo nghề thích ứng với công nghệ cao là rất lớn. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: sinh viên ra trường tìm việc làm rất khó, tìm được việc làm phù hợp với chuyên ngành đào tạo còn khó hơn, nhưng ngược lại, những công nhân được đào tạo ở các trường đào tạo nghề thường được tuyển dụng trước cả khi kết thúc khóa học. Riêng điều này đủ cho thấy sự mất cân bằng trong nền đào tạo của chúng ta cũng như nhu cầu về công nhân lành nghề lớn đến mức nào. Hơn nữa, bản thân Bắc Việt cũng cần đào tạo lao động thích hợp cho sự hoạt động của công ty, nếu tham gia vào lĩnh vực đào tạo nghề này thì bản thân Bắc Việt có thể có được những công nhân lành nghề, những người giỏi nhất trong trường đào tạo nghề. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng có hiệu quả hoạt động sản xuất, giảm bớt sự khó khăn và chi phí trong công tác tuyển người vào đào tạo nguồn nhân lực. Vậy, việc đầu tư vào ngành giáo dục - đào tạo cũng là một sự đầu tư cho sự phát triển bền vững, vừa đem lại lợi nhuận vừa đem lại đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực hoạt động của Bắc Việt GROUP. Ngoài ra, khi tham gia lĩnh vực đào tạo nghề thì thương hiệu của Bắc Việt GROUP sẽ được nhiều người biết tới hơn, điều này là vô cùng có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với thương hiệu mạnh hơn, được nhiều người biết đến hơn thì không những hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại được cải thiện mà việc đầu tư vào những lĩnh vực mới cũng sẽ có rất nhiều thuận lợi. 3. Điều kiện để thực hiện các phương hướng chiến lược trong tương lai Đề thực hiện tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại cũng như đầu tư vào những lĩnh vực mới thì Bắc Việt cần có những điều kiện sau đây: Điều kiện đầu tiên khi tiến hành mỗi hoạt động đầu tư là phải có đủ tiềm lực tài chính để thực hiện mục tiêu đó nếu không đó chỉ là sự đầu tư trên giấy tờ. Trước khi có ý định đầu tư trước hết doanh nghiệp cần đủ thực lực tài chính để đảm bảo hiện thực hóa những dự định. Tài chính đặc biệt là vấn đề với các doanh nghiệp ngoài nhà nước, những doanh nghiệp hạn chế vê nguồn vốn và không có sự bảo hộ trực tiếp. Đối với doanh nghiệp tư nhân như Bắc Việt thì nguyên nhân tài chính có thể làm cho một hoạt động đầu tư thấy rõ lợi nhuận lớn không thể thực hiện được. Thị trường mục tiêu có tiềm năng đủ để doanh nghiệp tham gia. Nguồn cầu hàng hóa và dịch vụ luôn là một vấn đề phải tính đến khi một doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận phải tính đến khi xem xét để ra quyết định đầu tư. Nếu như hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra mà không thể tiêu thụ thì đó thực sự là một thảm họa cho dự án đầu tư. Do vậy, nếu thị trường mục tiêu không đủ hấp dẫn thì tốt hơn không nên thực hiện hoạt động đầu tư. Cải tiến công nghệ cũ đề cho năng suất cao hơn, có được các phương thức, công nghệ đề có thể sản xuất các mặt hàng mới hiệu quả. Công nghệ là điều kiện để doanh nghiệp có thể tham gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới hay không. Khi tham gia vào hoạt động đầu tư thì công ty cần tìm hiểu về công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm mà mình có ý định đầu tư. Nếu công ty không có được công nghệ thì sẽ không thể sản xuất ra được sản phẩm mới. Không chỉ vây, Bắc Việt còn cần không ngừng cải tiến những công nghệ đã cũ để nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Có đội ngũ nhân lực đủ khả năng làm việc trong những lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp tham gia. Nguồn nhân lực luôn luôn là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn kinh doanh có hiệu quả cần đội ngũ cán bộ công nhân viên đủ năng lực, đặc biệt, khi tham gia hoạt động đầu tư sản xuất sản phẩm mới thì việc tuyển dụng nguồn nhân lực thích hợp càng trở nên quan trọng hơn. III- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược cho Bắc Việt GROUP 1. Nghiên cứu thị trường để lập ra chiến lược kinh doanh thích hợp Trong quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh thì công đoạn nghiên cứu thị trường luôn rất quan trọng, đặc biệt khi ra quyết định chiến lược đầu tư vào lĩnh vực mới thị công đoạn này càng đóng một vai trò không thể thiếu, quyết định đến sự thành bại của việc đầu tư. Nghiên cứu thị trường là một trong những tiền đề để doanh nghiệp có thể định hướng sản xuất những sản phẩm gì, kiểu dáng, mẫu mà, chất lượng ra sao, định giá như thế nào...Nó là tiền đề hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Bắc Việt cần tập trung cho công tác nghiên cứu thị trường vì nghiên cứu thị trường sẽ giúp công ty đạt đươc những lợi ích như: Dự báo được nhu cầu sản phẩm của công ty, tìm được đúng thị trường và đối tượng cung cấp sản phẩm mà công ty có thể đáp ứng, xác định sự phát triển sản phẩm của công ty xem nó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống. Từ đó có đối sách nên thu hẹp hay kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Nghiên cứu thị trường còn giúp đánh giá hoạt động của công ty trên những thị phần sẵn có, phát hiện thị phần tiềm năng, qua đó mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công ty. Nhờ phân tích tốt thị trường mà ban lãnh đạo Bắc Việt đã đưa ra những quyết định kinh doanh đem lại lợi ích cho công ty, họ đã chủ động đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất kết cấu thép với sản phẩm là nhà thép tiền chế đồng thời tìm đến với thị trường chính là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp ở miền Bắc, những doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư về nhà xưởng mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: tập đoàn Vinashin với công trình nhà máy đóng tàu Phà Rừng, nhà máy thiết bị nâng hạ Quang Trung ở Quảng Ninh, công ty Hưng Thịnh với công trình nhà luyện thép và cán thép hình... Trong công tác nghiên cứu thị trường cần xem xét số lượng các công trình đầu tư, lượng thép cung ứng, giá thép ra sao... cũng như phải chú ý vào cầu của thị trường các sản phẩm mà doanh nghiệp đang và sẽ cũng ứng trong tương lai cũng như giá cả của các sản phẩm đó để đưa ra các chiến lược thích hợp. Tích cực tìm kiếm cả những cơ hội kinh doanh mà công ty có khả năng tận dụng để tiếp tục thực hiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm sâu rộng hơn. 2. Nghiên cứu khoa học công nghệ áp dụng trong những hoạt động sản xuất kinh doanh Muốn thực hiện thành công chiến lược kinh doanh thì tất yếu cần phải có công nghệ thích hợp đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh mà chiến lược đề ra. Công nghệ là mắt xích quan trọng trọng hoạt động sản xuất, muốn thực hiện hoạt động sản xuất thì buộc phải có công nghệ thích hợp. Một doanh nghiệp sản xuất không thể tạo ra sản phẩm nếu không có những công nghệ thích hợp để sản xuất ra sản phẩm đó. Vì vậy muốn hoạt động đầu tư được thành công thì trước khi gia quyết định đầu tư cần phải nghiên cứu công nghệ, các thức tạo ra sản phẩm. Nếu như nghiên cứu thất bại thì không được ra quyết định đầu tư cho đến khi nghiên cứu thành công và đã được thử nghiệm. Ví dụ như khi Bắc Việt muốn đầu tư sản xuất container thì trước tiên cần phải nghiên cứu xem làm thế nào để có thể sản xuất? Yêu cầu chất lượng của sản phẩm làm ra như thế nào? Giá thành để công nghệ đó sản xuất ra sản phẩm ra sao?... Không những hoạt động đầu tư mới cần nghiên cứu công nghệ mà ngay cả các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại cũng cần nghiên cứu để cải tiến công nghệ. Công nghệ tốt sẽ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm qua đó nâng cao hiệu quả cạnh tranh. Sự vượt trội về công nghệ sẽ đem lại nhiều doanh thu và lợi nhuận hơn cho công ty. Cho nên, ngay cả khi doanh nghiệp đang kinh doanh thành công cũng phải không ngừng nghiên cứu những kỹ thuật mới, những phương pháp sản xuất mới giúp cho công ty có thể có được hiệu quả sản xuất cao hơn, kết quả kinh doanh tốt hơn. 3- Tổ chức đào tạo, huấn luyện nhân lực phù hợp với các lĩnh vực kinh doanh mà công ty hoạt động Đề có thể có được chiến lược tốt, trước tiên cần cần làm tốt công tác phân tích môi trường trong và ngoài doanh nghiệp tức là cần những người có năng lực đủ để phân tích thị trường cũng như nội bộ doanh nghiệp nhằm đưa ra những nhận định đúng đắn phục vụ cho quá trình hoạch định chiến lược. Do đó, cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao với khả năng phân tích thị trường tốt. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn cần những nhà quản lý tốt, nhưng người có khả năng phân tích, đánh giá cao để có thể đánh giá hoạt động của công ty trên thị phần đã có, phát triển thị trường tiềm năng, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cho công ty. Để tạo ra các sản phẩm đa dạng về kiểu dáng, phong phú về chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước ngoài yếu tố đầu tư cho công nghệ cần phải chú ý tới việc tổ chức, huấn luyện, đào tạo và bồi dường nguồn nhân lực. Vì nhân lực là yếu tố quyết định trong hoạt động kinh doanh, không công ty nào có thể thành công nếu không có một đội ngũ nhân viên có năng lực tốt, thích hợp với yêu cầu của công ty. Nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết để một doanh nghiệp có thê hoạt động được và hoạt động có hiệu quả. Trước tiên phải không ngừng nâng cao năng lực làm việc của đội ngũ nhân viên hiện có. Muốn doanh nghiệp hoạt động suôn sẻ cần không ngừng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân việc hiện tại bằng cách đưa nhân viên đi học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và tay nghề. Đội ngũ công nhân viên hoạt động càng hiệu quả thì doanh nghiệp càng đạt được những kết quả khả quan. Tổ chức đào tạo nguồn lao động có khả năng thích ứng với các công nghệ mới, thích hợp cho các hoạt động đầu tư sản xuất mới. Muốn vận hành được công nghệ cần phải có nguồn nhân lực đủ trình độ, với các lĩnh vực mà Bắc Việt mới tham gia đầu tư sản xuất kinh doanh thì việc đào tạo, tìm kiếm nhân lực càng trở nên quan trọng vì đội ngũ nhân viên cũ khó có thể thích ứng và làm việc có hiệu quả trong những lĩnh vực mà họ chưa từng hoạt động. Có thể nói rằng, tổ chức, đào tạo, huấn luyện và bồi dường nguồn nhân lực là hoạt động không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nó ghóp phần đắc lực trong việc nâng cao kêt quả kinh doanh của cả công ty. KẾT LUẬN Đa dạng hóa sản phẩm là một hướng đi đúng đắn không chỉ riêng với cống ty thép Bắc Việt mà còn đối với nhiều doanh nghiệp khách hoạt động trong cơ chế thị trường. Trong cơ chế đó, nhu cầu của người tiêu dùng hết sức phong phú và đa dạng, cơ hội kinh doanh luôn luôn tồn tại nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn những biến động, những rủi ro lớn. Rõ ràng, trong điều kiện hiện nay, đa dạng hóa sản phẩm là một xu thế khách quan của sự phát triển doanh nghiệp để một mặt đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, một mặt chống lại những rủi ro, biến động bất lợi của thị trường. Nhận thức được điều đó, Bắc Việt đã áp dụng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm dựa trên một mặt hàng cơ sở là sắt thép. Cùng với chiến lược này doanh nghiệp đã đạt được những thành tựu lớn, phát triển mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của của công ty, tăng doanh thu và lợi nhuận lên gấp nhiều lần so với trước đây. Tuy nhiên không phải là không có những khiếm khuyết, khó khăn trong việc thực hiện chiến lược. Đó là vấn đề không phân tán được rủi ro trong kinh doanh và bỏ qua một số cơ hội kinh doanh trong những lĩnh vực không liên quan đến sắt thép. Để khắc phục điều này, công ty cần đầy mạnh nghiên cứu thị trường, mạnh dạn đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh có thể sinh lợi và có thể hỗ trợ nhau khi xảy ra biến động bất lợi của thị trường. Chuyên đề hi vọng đóng góp một phần cho việc hoàn thiện chiến lược đa dạng hóa sản phẩm của Bắc Việt GROUP qua đó giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn trong thời gian tới để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển không ngừng. Tài liệu tham khảo: Chiến lược doanh nghiệp (Raymond Alain- Thiétart)-NXB Thanh Niên. -Chiến lược kinh doanh và doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường (PTS Đào Duy Hoàn)- NXB Giáo dục -Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp (PGS,PTS Nguyễn Thanh Độ và chủ nhiệm trung tâm đào tạo QTKD hỗn hợp thuộc ĐH KTQD Nguyễn Ngọc Huyền. -Quản trị chiến lược (PGS,TS Lê Thế Giới- TS Nguyễn Thanh Liêm- Ths Trần Hữu Hải) -NXB Thống kê. -Hệ thống các website và tài liệu thực tế lấy từ địa điểm thực tập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21876.doc
Tài liệu liên quan