Chuyên đề Thị trường chứng khoán và cách giải quyết để có thể xây dựng và phát triển một thị trường chứng khoán hoàn hảo ở Việt Nam

Như vậy, ta có thể một lần nữa khẳng định rằng thị trường chứng khoán có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự vận hành của nền kinh tế, góp phần giải quyết mâu thuẫn về vốn - vốn đã luôn căng thẳng, xứng đáng là một thể chế tài chính hiện đại, đứa con của nền kinh tế thị trường. Xây dựng được thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh có hiệu quả giúp cho các doanh nghiệp có một chỗ dựa vững chắc về vốn để từ đó có thể yên tâm mở rộng sản xuất, giúp Nhà nước có trong tay những công cụ hữu hiệu để quản lý hoạt động kinh tế của Quốc gia góp phần phát huy vai trò của tiền tệ, là dầu bôi trơn bánh xe lưu thông trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội đầu tư cho mọi cư dân của Quốc gia. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết, em chỉ xin trình bày đôi nét về thị trường chứng khoán cũng như một số giải pháp cho vấn đề xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, với mong muốn góp một chút hiểu biết ít ỏi của mình cho việc hoàn thiện những điều kiện làm nền tảng cho sự ra đời nay mai của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên do thời gian có hạn, hiểu biết còn hạn chế nên thiếu sót, sai lầm về nhận thức, về cách diễn đạt về cách giải quyết vấn đề là không thể tránh khỏi. Vì vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý kiến của thầy cô, bạn bè, những độc giả quan tâm đến thị trường chứng khoán, đến việc hình thành và phát triển một thị trường chứng khoán hoàn thiện ở Việt Nam.

doc52 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thị trường chứng khoán và cách giải quyết để có thể xây dựng và phát triển một thị trường chứng khoán hoàn hảo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 1990, cùng với sự ra đời của luật công ty là sự xuất hiện một số loại trái phiếu với số lượng không lớn mà chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, còn trái phiếu của ngân hàng và các công ty cổ phần cũng có khiêm tốn về số lượng. Sự việc xảy ra tương tự đối với các doanh nghiệp nhà nước, chỉ tính riêng hai doanh nghiệp ngành xi măng số trái phiếu phát hành mới ở mức 330 tỷ- một con số khiêm tốn so với nhu cầu hàng nghìn tỷ của doanh nghiệp. Theo thống kê mới nhất, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chỉ chiếm 5%GDP của cả nước. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn bị đặt trước tình trạng làm thế nào để có vốn, để mở rộng sản xuất một cách có hiệu quả? Câu hỏi dường như có giải đáp khi ta xem xét việc tạo vốn từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tuy nhiên không hẳn là như vậy, bởi vì chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá một cách cưỡng ép, không tạo được động cơ khuyến khích DNNN cổ phần hoá cũng như thiếu kiên quyết với một số doanh nghiệp, dẫn đến rất ít DNNN được cổ phần hoá, các loại trái phiếu phát hành cho đến nay ở Việt Nam có tổng giá trị chiếm khoảng 1%GDP, tập trung vào 10 công ty cổ phần và 10 DNNN đã cổ phần hoá. Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng đã đến lúc cần phải có một thị trường vốn hoàn chỉnh, hoạt động một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chức năng làm cầu nối, chuyển vốn từ những người có nhu cầu cho vay sang những người có nhu cầu vay. Có như vậy các doanh nghiệp sản xuất mới thoát khỏi sự lệ thuộc về vốn vào hệ thống Ngân hàng thương mại- hoạt động còn yếu kém, thủ tục hành chính còn rườm rà, khơi được nguồn tiền tiết kiệm còn tiềm tàng với quy mô lớn trong dân, làm cho các doanh nghiệp linh động hơn về vốn, dân cư có khả năng quyết định việc cho vay hay đầu tư của mình để thu được nhiều lợi nhuận nhất- đây chính là yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, làm cho các hoạt động của nền kinh tế trở nên sôi động, kích thích các nhân tố trong nền kinh tế tham gia một cách tích cực. 2-/ TTCK- một hình thức kinh tế hiện đại. Hiện nay, hầu hết nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đều vận hành theo cơ chế thị trường- trong lịch sử phát triển, kinh tế thị trường đã chứng tỏ tính ưu việt hơn của nó so với kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Ưu việt rõ hơn ở chỗ nào, mỗi chúng ta đều đã thấy rõ. TTCK ra đời trong nền kinh tế thị trường, chỉ có trong nền kinh tế thị trường hình thức TTCK mới xuất hiện và đương nhiên TTCK được coi là hình thức hiện đại. Tính hiện đại ở đây còn được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, giống Ngân hàng, nó huy động vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn đó cho người có nhu cầu vốn số lượng lớn, nhưng ưu việt hơn Ngân hàng ở chỗ đây là kênh chuyển vốn trực tiếp, nghĩa là vốn được đưa trực tiếp từ nhà đầu tư tới nơi có nhu cầu vay vốn mà không phải thông qua một hình thức tài chính trung gian nào cả. Như vậy có nghĩa là: người đầu tư biết chắc tiền của mình giao cho ai, có nên đầu tư vào hay không, đầu tư vào bao nhiêu và được hưởng lãi bao nhiêu. Người vay vốn thì biết đối tượng mình định vay là ai, có thể vay thêm hoặc không muốn vay thì chỉ cần phát hành thêm chứng khoán hoặc mua lại chứng khoán mà không phải qua Ngân hàng với thủ tục rườm rà, phải có vật cầm cố hoặc thế chấp. Thứ hai, cho đến nay, các TTCK đều được điện tử hoá, còn rất ít hình thức giao dịch thủ công, như vậy máy móc thiết bị để trang bị cho TTCK đều rất hiện đại để thông tin kịp thời, nhanh chóng, chính xác. Thứ ba, con người tham gia vào TTCK đều là những phần tử nhanh nhạy, hiểu biết, có kiến thức sâu rộng, quyết đoán nhanh, tác phong công nghiệp- đây là những đức tính yêu cầu nhân loại hiện đại cần phải có nếu không muốn tụt hậu lại phía sau sự phát triển của lịch sử. Thứ tư, trên TTCK, “hàng hoá” để mua bán không phải là hàng hoá thông thường có giá trị và giá trị sử dụng mà là loại “hàng hoá” đặc biệt chỉ có giá trị mà không có giá trị sử dụng. Những loại “hàng hoá” đó là những giấy tờ xác định một khoản tiền mà người sở hữu nó sẽ được trong tương lai- chúng cũng được coi là phương tiện để thanh toán. Như vậy trên TTCK người ta mua bán phương tiện để thanh toán có giá cả và cũng có cả sự “thuận mua vừa bán”, không có độc quyền- một hình thức thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Từ những phân tích trên, chúng ta thấy rõ tính thời đại của TTCK nó sẽ trở thành công cụ đắc lực giúp quốc gia nào biết sử dụng nó hợp lý để phát triển kinh tế. Tất nhiên như vậy không có nghĩa là chỉ có những quốc gia biết sử dụng mới nên có TTCK bởi tất cả các quốc gia muốn có một nền kinh tế hiện đại, ổn định, tăng trưởng, phát triển bền vững đều cần phải có TTCK- với tư cách là một hình thức kinh tế hiện đại và phải biết cách để có một TTCK hoạt động hữu hiệu. Bước ra từ hàng nghìn cuộc chiến tranh giành độc lập đầy máu và nước mắt, đất nước Việt Nam như là một cơ thể ốm yếu đầy thương tích, nghèo đói với một nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp phát triển què quặt. Trong khi đó thế giới đã chứng kiến những thành tựu rực rỡ về khoa học kỹ thuật và có những tiến bộ vượt bậc về kinh tế, chủ nghĩa tư bản với những cái vòi bạch tuộc của nó vươn ra chiếm lĩnh thị trường mọi ngóc nghách trên thế giới làm cho nền kinh tế toàn cầu trở nên sôi động, xuất hiẹn sự gắn kết giữa những nền kinh tế quốc gia nhỏ để tạo nên nền kinh tế quốc tế với những hình thức kinh tế tiên tiến hiện đại. Với xu hướng như vậy, nền kinh tế Việt Nam- một bộ phận của nền kinh tế thế giới phải thay đổi, phải nỗ lực khắc phục khó khăn do chiến tranh để lại, áp dụng những cái sẵn có để phát triển, để bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã phát triển sau các nước tư bản, mà lại gặp nhiều khó khăn, chính vì vậy chúng ta cần rút ngắn thời gian phát triển kinh tế bằng cách tạo ra các điều kiện cho phép vận dụng sớm những hình thức kinh tế hiện đại, có như vậy khả năng bắt kịp nhịp độ phát triển kinh tế thế giới mới có cơ hội xảy ra. Đây không phải là nhận định máy móc, lý thuyết, mà nó đã được chứng minh bằng thực tiễn hơn 10 năm đổi mới tính từ năm 1986, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường vào nền kinh tế, sử dụng ngay từ đầu các công cụ tài chính tiền tệ như là đòn bẩy và xung lực chủ yếu để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng khắc phục được siêu lạm phát, nền kinh tế có sự tăng trưởng đáng kể cao nhất là 9-10%. Chúng ta đã thoát khỏi những năm kinh tế kế hoạch hoá, có một nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, như vậy việc xây dựng và phát triển TTCK là một tất yếu phù hợp với xu thế thời đại để chúng ta có những điều kiện thuận lợi hơn, rút ngắn khoảng cách giữa tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới. Kết luận: Việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam trở thành một nhiệm vụ cấp bách và có tầm quan trọng lớn lao và đã được cụ thể hoá trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 Đảng Cộng Sản Việt Nam: “Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng TTCK phù hợp với điều kiện Việt Nam và định hướng phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”. Như vậy, việc chuẩn bị những điều kiện cần và đủ để sớm cho ra đời TTCK là vấn đề có tầm chiến lược trong công cuộc cải cách kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. II-/ Những thuận lợi và kết quả bước đầu đạt được trong nỗ lực nhằm xây dựng, duy trì và phát triển TTCK ở Việt Nam. 2.1-/ Thuận lợi. 2.1.1- Kinh tế. TTCK là con đẻ của nền kinh tế hàng hoá mà ở mức độ cao là nền kinh tế thị trường, nó ra đời nhằm giải quyết mâu thuẫn về vốn trong nền kinh tế, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn mở rộng sản xuất hàng hoá của các doanh nghiệp. Như vậy không thể tồn tại một TTCK trong nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung- mà ở đó quy mô sản xuất được ấn định một cách chủ quan, các quy luật kinh tế bị triệt tiêu, sản xuất không vì mục đích lợi nhuận. Từ đây, ta có thể thấy rõ thuận lợi đầu tiên của Việt Nam khi xây dựng TTCK là chúng ta đang có một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường- mặc dù có ý kiến cho rằng đây là một điều đương nhiên thôi, không nên coi đó là thuận lợi, nhưng phải khẳng định rằng không có nó thì không có tất cả những thuận lợi kế tiếp. Hiến pháp 1992 xác định chế độ kinh tế của Nhà nước Việt Nam “ Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân”. Từ chiến lược này- bắt đầu từ năm 1986- nền kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới, từ chỗ sản xuất không đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu trong nước,Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 8-9% trong nhiều năm vừa qua, đã có thời gian Việt Nam được xếp vào một trong số những quốc gia đứng đầu khu vực Đông Nam á về tăng trưởng kinh tế. Yếu tố tăng trưởng kinh tế cao và liên tục đã kích thích sự tăng lên về nhu cầu vốn đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn. Bên cạnh đó, cùng với những chính sách hợp lý, chúng ta đã đẩy lùi được lạm phát, đưa lạm phát từ mức ba con số xuống một con số, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ. Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Tỷ lệ lạm phát 14,4% 17,5% 5,2% 14,4% 12,7% 4,5% Những tháng đầu năm 1997 tỷ lệ lạm phát là 1,4% được dự đoán là 2% cho cả năm. Việc giữ lạm phát ở mức cho phép làm giá trị đồng tiền nội tệ, tỷ giá hối đoái được ổn định, cán cân thanh toán được kiểm soát chặt chẽ. Đây là những yếu tố làm yên lòng các nhà đầu tư khi muốn đầu tư vào những mục đích sinh lời khác nhau trong đó có các chứng khoán mua bán trên thị trường. Không những thế, cộng thêm yếu tố về chính trị, kinh tế, một nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được thăm dò khai thác, chúng ta sẽ khuyến khích được đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và tiến tới khai thác theo hướng đầu tư gián tiếp qua TTCK (FPI- Foreign Portfolio Investment) từ đó sẽ thúc đẩy việc mở rộng TTCK Việt Nam trong tương lai thị trường quốc tế. Tuy nhiên, nói như trên không có nghĩa là ngay lập tức nay mai chúng ta đã có thể có một TTCK như mong muốn, không phải thấy cần là sẽ có, mà việc có xây dựng được TTCK hay không phụ thuộc vào việc sản xuất có đủ chủng loại và chất lượng “hàng hoá” để mua bán trên thị trường này hay không. Câu trả lời phụ thuộc vào các định chế tài chính quốc gia, đó là: các doanh nghiệp quốc doanh, thuộc khu vực kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp doanh và công ty cổ phần thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ, thương mại, dịch vụ, tài chính tín dụng và Ngân hàng.Dựa trên chính sách phát triển kinh tế trong những năm gần đây, các định chế tài chính này đã được hình thành và phát triển thuận lợi cho hoạt động của TTCK. Đây là những chủ thể kinh tế tạo ra chứng khoán- hàng hoá của TTCK, họ quyết định số lượng và chất lượng của những hàng hoá đó dựa trên nhu cầu về vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ. Chủ thể kinh tế đầu tiên được đề cập đến là công ty cổ phần- động lực chính thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế- xã hội- họ dùng công cụ cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường. Cổ phiếu được coi là thứ “hàng hoá đặc sản” của TTCK do có đặc điểm là lợi tức và rủi ro rất lớn, cổ phiếu làm TTCK trở nên sôi động. Không có công ty cổ phần, không có cổ phiếu TTCK mất hẳn tính hấp dẫn- do sự sôi động do mua bán cổ phiếu tạo nên. Từ năm 1992, nhà nước đã có chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, điều này đã tạo ra khả năng huy động vốn còn tồn đọng trong nền kinh tế, vừa hình thành nên nền tảng cho sự ra đời của TTCK đó là sự xuất hiện của các cổ phiếu và việc mua bán nó giữa doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Bên cạnh việc phát hành cổ phiếu, công ty cổ phần cùng với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân đã tiến hành phát hành trái phiếu- loại hàng hoá cũng có tầm quan trọng và được mua bán rộng rãi trên TTCK. Cho đến nay, chúng ta đã và đang có một TTCK sơ khai với các loại hàng hoá như: công trái chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu và cổ phiếu công ty. Những chứng khoán này chủ yếu được mua bán trên thị trường cấp 1 hay thị trường sơ cấp, tức là chúng được mua bán, tiêu thu lần đầu tiên sau khi phát hành giữa người phát hành và nhà đầu tư. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không có thị trường thứ cấp, có nhưng nó chưa đi vào hoạt động một cách chính thức công khai, đơn cử một ví dụ: trong đợt phát hành công trái thời hạn 5 năm vừa qua của Chính phủ đã xuất hiện những tổ chức hoặc cá nhân thu mua công trái trong dân và bán cho ngân hàng với mệnh giá thấp hơn - đây chính là những biểu hiện manh nha của việc xuất hiện thị trường cấp hai (thứ cấp ) ở Việt Nam. Chủ thể kinh tế có vai trò không kém phần quan trọng so với công ty cổ phần là hệ thống ngân hàng. Như chúng ta đều biết, không có những ngân hàng- những trung gian tài chính- thị trường tài chính không có được lợi ích trọn vẹn. Lý do là: nếu không có ngân hàng- người thu gom những nguồn tiền tiết kiệm ít ỏi, và đáp ứng nhu cầu vay khiêm tốn, trong một thế giới chỉ có tài chính trực tiếp, những người đi vay và cho vay những khoản nhỏ đó không thể được thoả mãn do chi phí mà họ phải trả cho những dịch vụ đó là quá cao. Trong quá trình cải cách ở Việt Nam, một loạt các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, tín dụng, cơ quan bảo hiểm và một số quỹ đã ra đời như: hệ thống ngân hàng cổ phần (có 52 ngân hàng cổ phần trong đó có 31 ngân hàng thành thị và 21 ngân hàng nông thôn) hợp tác xã tín dụng, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này trong quá trình phát triển phải cạnh tranh, kết quả là sự giảm sút về lãi suất cho vay dẫn đến kích thích việc vay tiền. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng là một yếu tố thuận lợi thúc đẩy sự ra đời của TTCK trên cơ sở một thị trường vốn phát triển. 2.1.2- Hệ thống pháp luật. Để đảm bảo cho TTCK hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả, yêu cầu phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Sở dĩ như vậy là do không phải bất cứ một doanh nghiệp nào khi cần vốn đầu tư là có thể phát hành chứng khoán và dùng nó như một công cụ để huy động vốn. Muốn phát hành chứng khoán, doanh nghiệp phải hội đủ các điều kiện theo luật định phải được một cơ quan chuyên môn có thẩm quyền của nhà nước cho phép. Trên TTCK, diễn ra sự mua bán chứng khoán giữa các chủ thể kinh tế có thể là cá nhân hoặc tổ chức và vì vậy đòi hỏi phải có luật dân sự và luật thương mại, ngoài ra các chủ thể kinh tế đó có thể là doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần.v.v...cũng là những người phát hành chứng khoán trên TTCK dẫn đến việc phải có luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty cổ phần...Xét về tính chất kinh tế, hành động mua bán chứng khoán trên TTCK là hành động đầu tư nên cần có luật đầu tư (đầu tư trong nước và ngoài nước). Hiện nay chúng ta đã có nhiều bộ luật và chúng ngày càng được bổ sung hoàn thiện như luật dân sự, luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật ngân sách, luật thương mại, luật giải thể doanh nghiệp và hàng loạt văn bản dưới luật như lệnh kế toán thống kê, pháp lệnh ngân hàng... Tát cả những bộ luật này sẽ tạo thành một môi trường pháp lý thông suốt, có tổ chức chặt chẽ đảm bảo duy trì cho hoạt động của TTCK, giúp nó thực hiện đúng chức năng và vai trò là cầu nối vốn trong nền kinh tế. 2.1.3- Hệ thống thông tin và yếu tố con người. Với sự lớn mạnh của ngành bưu điện, hệ thống thông tin của chúng ta đang phát triển, điều này đảm bảo mặt thông tin cho việc xây dựng TTCK. TTCK cần có một hệ thống thông tin hiện đại truyền tải thông tin giữa những người mua, bán và môi giới chứng khoán. Điều này giúp cho giao dịch của thị trường trở nên thuận tiện, nhanh chóng, tránh những tổn hại về mặt thiểu thông tin gây ra như: không có thông tin kịp thời về khách hàng, về loại chứng khoán mới phát hành thậm chí lệnh mua, hoặc bán khi đến được với người môi giới thì giá chứng khoán đã lại thay đổi. Như vậy, vai trò của thông tin, hệ thống thông tin là vô cùng quan trọng trong TTCK. Chúng ta chưa có một sở giao dịch chứng khoán chính thứcvà theo tuần tự thì chúng ta phải bắt đầu từ giao dịch thủ công, đến nửa thủ công và cuối cùng là điện tử hóa. Song với sự phát triển rất nhanh của hệ thống tin học của Việt Nam, chúng ta có thể thâm nhập ngay vào TTCK, đốt cháy giai đoạn bỏ qua giao dịch thủ công và tiến thẳng lên điện tử hoá. Về yếu tố con người, đứng trên giác độ xem xét con người với tư cách là những người tham gia vào TTCK, chúng ta có thể khẳng định rằng với tính tiết kiệm, cần cù và ý chí muốn làm giàu, người Việt Nam sẽ có thể cân nhắc chịu rủi ro, mạo hiểm để đầu tư vào những chứng khoán có lợi nhuận. Ngược lại nhìn từ phương diện quản lý và vận hành, vì người Việt Nam thông minh, sáng tạo, chịu khó học hỏi nên chúng ta có thể xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi, có khả năng hoạt động hữu hiệu trên lĩnh vực chứng khoán nếu có sự quan tâm đúng đắn, khuyến khích thích hợp và kế hoạch đào tạo cụ thể. 2.1.4- Một số yếu tố khác tạo sự thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam. Có thể nói rằng chúng ta có lợi thế hơn so với các nước đi trước trong việc xây dựng và phát triển TTCK: Thứ nhất, với những tiến bộ khao học- kỹ thuật sẵn có ở những nước có TTCK, trao đổi khoa học, công nghệ chúng ta có thể rút ngắn thời gian để sớm cho ra đời TTCK Việt Nam. Thứ hai, là người đi sau chúng ta sẽ không va vấp phải những lỗi lầm mà những người đi trước mắc phải, có nhiều bài học quý báu trong xây dựng và phát triển TTCK, có sự giúp đỡ từ phía những nước có TTCK phát triển về mặt kỹ thuật, con người, công nghệ... Thứ ba là, chính sách mở cửa của nền kinh tế, hội nhập với nền kinh tế thế giới để chúng ta có quan hệ nhằm tạo ra một TTCK phát triển lành mạnh, mang tính chất quốc tế. Cuối cùng vàng sụt giá trong thời gian gần đây cũng là một thuận lợi cho phát triển của TTCK, bởi từ trước đến nay chúng ta vẫn duy trì tâm lý dùng vàng như một công cụ để cất trữ của cải do vàng có những ưu việt hơn tiền: không bị ảnh hưởng của lạm phát, lâu bền với thời gian.v.v... vàng sụt giá từ tháng 7 năm 1997 giảm 50 nghìn so với thời điểm đầu năm như một hồi chuông cảnh tỉnh, đánh vào tâm lý thích giữ vàng của người dân Việt Nam nó chứng tỏ rằng vàng không còn là công cụ cất trữ của cải hữu hiệu nữa, như vậy người dân sẽ chuyển sang cất trữ tiền hoặc giữ tiền bằng cách gửi ngân hàng hoặc mua chứng khoán. 2.2-/ Những kết quả bước đầu đạt được trong tiến trình chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK Việt Nam. Với quyết tâm xây dựng một TTCK để giải quyết vấn đề về vốn trong nền kinh tế, thời gian vừa qua chúng ta đã tiến hành chuẩn bị cho sự ra đời trong tương lai của TTCK ở Việt Nam và kết quả đạt được như sau: Về hàng hoá: Trước đây, nhà nước ta đã phát hành công trái dài hạn từ 5-10 năm là những chứng khoán đầu tiên được đem ra bán. Nhưng do lãi suất thấp, thói quen không mua bán công trái, coi công trái như một thứ thuế và mua công trái như là thực hiện một nhiệm vụ bắt buộc đối với Nhà nước nên mức cầu không đáng kể. Mới đây Nhà nước đã chuyển qua hình thức trái phiếu kho bạc, trái phiếu đô thị, trái phiếu đường dây 500KV được đảm bảo bằng vàng. Các ngân hàng cúng phát hành trái phiếu với lãi suất cao hay đảm bảo bằng vàng. Việc làm này được nhân dân bắt đầu hưởng ứng. Vì vậy chúng ta đã có được kết quả đáng mừng như sau: -Kho bạc nhà nước- người phát hành thường xuyên hơn 6000 tỷ đồng tín phiếu kho bạc, trong đó có khoảng 4000 tỷ đồng tín phiếu kỳ hạn hơn 1 năm. Một nửa số lượng tín phiếu do kho bạc trực tiếp bán, nửa còn lại được thực hiện qua nhiều hình thức đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước. -Đã phát hành và bán trái phiếu công trình có kỳ hạn hơn 1 năm. -Trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước chỉ mới có hai nhà máy xi măng Hoàng Thạch và Anh Sơn phát hành với hơn 36 tỷ đồng. -Trái phiếu Ngân hàng cũng được phát hành có tính chất ngắn hạn (1-3 năm) với khoảng 10000 tỷ đồng tính đến năm 1997. -Trái phiếu phát hành ra nước ngoài được thí điểm qua việc Công ty cơ điện lạnh Việt Nam phát hành hơn 5 triệu USD vào tháng 6/1996 lãi suất 4,5%, kỳ hạn 2 năm. -Cổ phiếu được phát hành với tỷ lệ do công chúng nắm giữ là 20%, số còn lại do cán bộ công nhân viên và Nhà nước nắm giữ. Về công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Tính đến tháng 11 năm 1998, Việt Nam có 56 DNNN được cổ phần hoá, nâng con số công ty cổ phần lên tới 299 công ty và hiệu quả cổ phần hoá đang rõ dần, cụ thể: ở Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc sau một năm hoạt động, doanh số đạt 60 tỷ đồng (trước đó cả 6 năm mới đạt 27 tỷ đồng), lãi phát sinh trong năm là 6,588 tỷ đồng (cả 6 năm trước đó, lãi phát sinh trong năm chỉ đạt 2,592 tỷ đồng). Công ty cổ phần cơ điện lạnh sau 4 năm chuyển đổi, doanh thu hàng năm như sau: Năm 1993 1994 1995 1996 Doanh thu hàng năm(đv: tỷ đồng) 4,23 7,28 19,94 27(tăng 60% so với trước CPH) Mức thuế nộp ngân sách tăng hơn 0,5 lần. Lãi suất tăng 1,44 lần. Thu nhập người lao động đạt hơn 1,5 triệu đồng/ tháng so với con số 1,2 triệu đồng trước đó. Công ty giấy Hiệp An: Mức thuế nộp ngân sách tăng 5,6 lần. Lãi ròng tăng 6,1 lần. Thu nhập người lao động tăng gấp 2 lần, đưa năng suất lao động đóng giày từ 4000 đôi lên 10000 đôi. Về pháp lý: Tháng 8 năm 1992 Thủ tướng Chính phủ đã ra văn bản số 4369-KTDN giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì chuẩn bị các nội dung cần thiết về pháp lý, về tổ chức điều hành và các bước triển khai cho việc hình thành TTCK ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cùng ngành tài chính tiến hành khảo sát và xúc tiến xây dựng đề án về TTCK Việt Nam; đã biên soạn dự thảo nghị định của Chính phủ về chứng khoán; nghị định về TTCK; quy chế hoạt động của sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam; quy chế, quy tắc niêm yết chứng khoán; quy chế và nội quy giao dịch chứng khoán; quy chế đăng ký chứng khoán, thanh toán chuyển nhượng chứng khoán; quy chế lưu giữ chứng khoán; quy tắc sử dụng hệ thống giao dịch computer; quy tắc đấu giá; quy chế về chế độ báo cáo thông tin; quy chế về thanh tra giám sát; các quyết và quy chế về tổ chức, hoạt động của Uỷ ban chứng khoán quốc gia, Hội đồng quản trị sở giao dịch chứng khoán... và các quy chế khác. Đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã thiết lập thị trường nội tệ liên ngân hàng và đang tiến hành triển khai thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc Nhà nước, thị trường chứng chỉ tiền gửi, thông qua hệ thống thị trường này Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng các nghiệp vụ thị trường mở nhằm ổn định tiền tệ, tỷ giá tạo nên tiền đề cho TTCK có thể hoạt động được bình thường. Ngoài ra Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với Tài chính để tiến hành các cuộc hội thảo với nhiều tổ chức quốc tế nhằm học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ sự giúp đỡ để nhanh chóng đi đến thành lập TTCK phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển nền kinh tế Việt Nam. Những hoạt động như vậy đã và đang được chỉ đạo một cách chặt chẽ, có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành hữu quan nhằm tạo ra một mô hình TTCKVN phù hợp với các thông lệ quốc tế cũng như khả năng thích ứng với các đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế đất nước. Ngày 11/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. III-/ Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam. 3.1-/ Hàng hoá. Mặc dù đã được phát hành ra công chúng và được chấp nhận, các chứng khoán hiện nay còn rất hạn chế: Thứ nhất, về quy mô chứng khoán đặc biệt là quy mô cổ phiếu còn nhỏ bé manh mún chưa đáp ứng đủ đòi hỏi cuả TTCK khi nó hình thành. Số tiền huy động được bằng việc phát hành trái phiếu chiếm khoảng 5% và phát hành cổ phiếu chiếm khoảng 1%GDP. Cụ thể: -Việc phát hành trái phiếu vẫn còn ở mức độ dè chừng, chưa đều đặn với phương pháp tự phát hành là chủ yếu. -Trái phiếu công trình với kỳ hạn trên 1 năm có số lượng rất nhỏ bé, chưa tương xứng với nhu cầu to lớn của nó. -Các Ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành kỳ phiếu vào những lúc thời vụ nên tính chất thường xuyên của việc phát hành rất hạn chế. -Các loại thương phiếu, hối phiếu chưa được quan tâm sử dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với ngân hàng. -Số công ty đủ các điều kiện để phát hành chứng khoán chưa nhiều (điều kiện gồm: làm ăn hiệu quả, ổn định, chấp nhận phát hành rộng rãi chứng khoán ra công chúng và công khai hoá thông tin) các công ty không chịu công khai thông tin, ít có dự án có lãi suất cao, hấp dẫn đầu tư, khả năng cạnh tranh. -Lại trái phiếu được định giá bằng ngoại tệ rất ít ỏi. -Lượng cổ phiếu được bán ra ngoài công ty rất nhỏ bé, tỷ lệ cổ phiếu do công chúng nắm giữ là rất thấp 20% và chủ yếu là bán cho người Việt Nam vì những cổ phiếu này được định giá bằng VNĐ. Thứ hai, chất lượng cổ phiếu và trái phiếu chưa đạt tiêu chuẩn để có thể mua đi bán lại trên thị trường. Mệnh giá trái phiếu còn qua cao, có loại 1 triệu đồng, có loại 2 đến 100 triệu đồng và chủ yếu là trái phiếu ngắn hạn 1 năm hoặc dưới 1 năm. Đối với cổ phiếu mệnh giá hợp lý hơn (phổ biến là 100000 đồng) có khả năng thu hút vốn của dân chúng nhưng việc phát hành mới ở trạng thái sơ khai, giới hạn trong phạm vi những người sáng lập và tham gia lần đầu, không tính đến khả năng kinh doanh của người đầu tư ngay trong các đợt phát hành và chưa có thể phát hành rộng rãi ngoài công chúng. Bên cạnh đó, việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu chỉ chú ý tới mục tiêu huy động vốn mà chưa chú trọng mục tiêu chuẩn bị nguồn và điều kiện để xây dựng thị trường thứ cấp. Vấn đề cổ phần hoá: Tiến hành cổ phần hoá từ năm 1992, tuy số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá được tăng lên đáng kể, nhưng thực tế cho thấy tiến trình cổ phần hoá diễn ra chậm chạp, đôi khi ngưng trệ, và về mặt hình thức thì khá đơn điệu. Lý do là vì: -Nhận thức của doanh nghiệp về cổ phần hoá sai lệch, không đầy đủ. -Cổ phần hoá là chính sách phù hợp, hợp ý Đảng vừa lòng dân nhưng nó lại đi ngược lại lợi ích của ban lãnh đạo hiện tại và một bộ phận những người lao động kém hiệu quả của doanh nghiệp. Với họ cổ phần hoá đồng nghĩa với việc mất quyền, vị trí, công ăn việc làm. -Cơ chế cổ phần hoá chưa đầy đủ, đồng bộ: quy trình, định giá tài sản, chính sách ưu đãi cho xí nghiệp cổ phần hoá, chế độ với người lao động chưa thoả đáng. -Chưa có danh mục cụ thể cho các doanh nghiệp cổ phần, chỉ chú trọng cổ phần hoá các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. -Chính phủ còn tỏ ra thiếu quyết đoán đối với việc cổ phần hoá. -Thiếu thông tin về doanh nghiệp cổ phần, thông tin kém chất lượng không tạo được lòng tin đối với nhà đầu tư. -Chưa xây dựng hài hoà các chính sách có ảnh hưởng đến cổ phần hoá như: chính sách tiết kiệm, chính sách phân phối lợi tức.v.v... -Chưa có một thị trường thứ cấp để tăng khả năng thanh khoản của chứng khoán cũng là một lý do làm chậm tiến trình cổ phần hoá. -Bản thân các tổ chức tài chính trung gian cũng chưa quen với việc mua cổ phiếu rồi bán lẻ cũng như việc tổ chức được mạng lưới bán lẻ chứng khoán. 3.2-/ Hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật của ta còn thiếu, chưa đồng bộ và đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện dần. Ngoài hiến pháp là một đạo luật cơ bản, chưa có bộ luật nào hoàn chỉnh. Chúng ta chưa có bộ luật cho TTCK, khung pháp chế và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các nhà đầu tư chưa có những bộ luật căn bản cần thiết trong quan hệ kinh tế, đặc biệt trong cơ chế kinh tế hiện nay như: luật thương mại, luật toà án kinh tế, luật kế toán và kiểm toán độc lập. Bởi TTCK bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu cực, những thế lực đen tối sẽ lợi dụng TTCK để làm giàu bất chính làm thiệt hại lợi ích của các nhà đầu tư trong sạch khác. Như vậy cần có hệ thống pháp luật chặt chẽ, ổn định để điều chỉnh hành vi của kẻ lũng đoạn TTCK, bảo vệ những nhà đầu tư trong sạch, tránh cho họ những e ngại không đáng có. Bên cạnh bộ khung pháp lý còn yếu, thiếu, nổi lên vấn đề không thực thi nghiêm chỉnh luật pháp, xử lý hành vi vi phạm thiếu nghiêm minh, vận dụng luật pháp hết sức tuỳ tiện, chuyên quyền, quan liêu ở nước ta là kết quả của việc áp dụng một hệ thống pháp luật chắp vá, chồng chéo, sơ hở và tính pháp lý thấp. Ví dụ: chúng ta có pháp lệnh Kế toán và Thống kê. Nhưng trong thực tế có không ít các doanh nghiệp có 2-3 quyết toán, không báo cáo thống kê hoặc báo cáo sai sự thật. Đây sẽ là những yếu tố làm mất lòng tin của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, doanh nghiệp mất uy tín trên thị trường, trái phiếu, cổ phiếu không bán được. Hơn nữa với cái đà này, chúng ta thử hỏi sẽ có bao nhiêu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ổn định nếu cứ không tuân theo luật pháp như vậy. 3.3-/ Hệ thống kiểm toán và kế toán thống kê. Nước ta đã có hệ thống kiẻm toán mà đứng đầu là công ty kiểm toán Việt Nam (VaCo) nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của TTCK. Do có quá nhiều doanh nghiệp, hệ thống kiểm toán còn chưa đủ mạnh, chất lượng còn chưa cao. Hệ thống kế toán thống kê tuy đã có cải tiến tiến bộ, nhưng nhìn chung còn học tập, chắp vá, chưa xây dựng được thành một hệ thống có chuẩn mực quốc phù hợp thống kê quốc tế. Chất lượng thông tin chưa cao, độ tin cậy thấp. Bên cạnh đó hệ thống thông tin đại chúng, báo chí nhiều khi chưa được uốn nắn tốt, đưa thông tin sai sự thật thường xảy ra. 3.4-/ Con người. 3.4.1- Con người xét trên phương diện là chủ thể tham gia vào TTCK. Mới thoát khỏi những năm nghèo đói và khốn khổ vì chiến tranh, chúng ta lại phải trải qua giai đoạn nền kinh tế phát triển trì trệ của những năm kinh tế kế hoạch hoá, bao cấp và qua liêu bao cấp. Hậu quả của nó là mặc dù là nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường đã có tốc độ tăng trưởng cao ổn định thì thu nhập đại bộ phận dân cư là thấp, nước ta vẫn là một trong những nước có thu nhập quốc dân bình quân theo đầu người thấp nhất thế giới, lương không đủ chu cấp cho những nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của đời sống thì nói chi đến tiết kiệm và đầu tư. Vì vậy, khi cổ phần hoá doanh nghiệp, số lượng người mua cổ phiếu là không đáng kể. Một số bộ phận, một số vùng có tập quán ăn tiêu xa hoa, nhất là một số vùng Miền Nam, nhân dân vẫn chưa quen với TTCK, chưa hiểu luật chơi. Tệ nạn tham ô, tham nhũng thụt két, hối lộ, chiếm đoạt tài sản Nhà nước có xu hướng gia tăng. Tập quán thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn là phổ biến trong dân và đặc biệt kể cả trong các doanh nghiệp, bên cạnh đó là tâm lý thích dự trữ vàng đã ngăn cản người dân gửi tiền vào ngân hàng. Về phía ngân hàng, hệ thống thanh toán qua ngân hàng còn yếu. Sự đổ vỡ của một ngân hàng, quỹ tín dụng làm mất lòng tin của nhân dân vừa qua là ảnh hưởng xấu đối với quá trình xây dựng TTCK. Một trở ngại nữa cũng nên lưu ý đó là tâm lý sợ rủi ro, thích cầu toàn tồn tại trong dân cư, nguyên do là để có những đồng tiền họ đang có là mồ hôi nước mắt, họ không thể đánh đổi nó với cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường- những giấy tờ mà họ không chắc chắn rằng là sẽ mang lại lợi nhuận cho họ không hay họ sẽ mất tất cả. Sự hiểu biết về chứng khoán, TTCK và kinh doanh chứng khoán trong dân chúng hiện nay ở Việt Nam còn ở mức rất thấp. Những khái niệm căn bản về chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu, môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán.v.v... chưa được phổ cập, chưa được lý thuyết hoá và luật pháp hoá ở mức tối thiểu cần thiết. Trong thực tế việc ứng dụng hoàn toàn tuỳ thuộc vào nhận thức chủ quan của từng người. 3.4.2- Con người nhìn từ góc độ là những chủ thể quản lý, vân hành TTCK. Bởi đây là một lĩnh vực còn mới mẻ, chưa được khai thác. Đội ngũ cán bộ điều hành và quản lý TTCK còn non trẻ, thiếu cả về số lượng, kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ, chưa được huấn luyện nhiều, thách thức vẫn ở phía trước. Các nhà quản trị doanh nghiệp chỉ biết một phương cách tạo vốn duy nhất là tự tích luỹ (tích luỹ nội bộ) và vay vốn ngân hàng. Các công ty cổ phần với công cụ huy động vốn hữu hiệu là cổ phiếu, một hình thức “vay” không phải trả, cũng không được sử dụng triệt để, để nó có thể phát huy vai trò là mô hình doanh nghiệp thích dụng nhất trong nền kinh tế hiện đại. Về phía đội ngũ quản lý các doanh nghiệp, trên thực tế do chìm qua lâu trong cơ chế kế hoạch hoá, làm ăn lãi giả lỗ thật, thiếu trách nhiệm. chương III Giải pháp cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Mặc dù đã rất nố lực và cố gắng trong việc sớm cho ra đời thị trường chứng khoán(TTCK) ở Việt Nam, nhưng bên cạnh nhữnh kết quả rất khiêm tốn- chúng ta vấp phải vô vàn khó khăn: về con người, tri thức, luật pháp, kinh tế...v.v Tất cả những cái đó chúng ta sẽ phải khắc phục tùng bước 1 bởi những ưu điểm không thể phủ nhận của nó, TTCK tất yếu sẽ phải được xây dựng ở Việt Nam cho dù có khó khăn đến đâu đi chăng nữa. Sau đây là một số biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam. I-/ Tạo “hàng hoá” cho TTCK Muốn xây dựng “chợ” trước tiên chúng ta sẽ phải trả lời câu hỏi sẽ mua bán gì ở đó? Hơn nữa chợ muốn hoạt động tốt đòi hỏi phải có lượng hàng hoá phong phú về chủng loại, số lượng, đảm bảo chất lượng. Đối với TTCK cũng vậy, chứng khoán được mua bán trên thị trường phải là loại chứng khoán trung và dài hạn, muốn chứng khoán được niêm yết tại trung tâm giao dịch CK thì phải đáp ứng được tiêu chuẩn niêm yết của trung tâm. Hiện nay chúng ta có rất các loại ck hội đủ những yêu cầu đó. Như vậy, trong thời gian tới, để có thể có TTGDCK chúng ta phải giải quyết vấn đề trên càng sớm càng tốt bằng cách: 1) Tạo ra một lượng CK đảm bảo về qui mô và chất lượng đáp ứng nhu cầu mua bán trên TTCK mà cụ thể sắp tới là TTGDCK; -Sử dụng biện pháp phát hành trái phiếu của các NHTMQD để đưa vào các công trình lớn, vì chúng có uy tín, sức hấp dẫn cao, xuất phát từ việc qui định lãi suất cao, dễ chuyển nhượng. -Trái phiếu chính phủ loại trung và dài hạn là loại hàng hoá có sức thuyết phục trên thị trường do chúng có ít rủi ro. Nên tăng cường phát hành CK loại này bằng nội tệ và ngoại tệ để bán cho các thể nhân và pháp nhân. Với số vốn huy động dưới hình thức này Chính phủ có thể đầu tư vào các công trình lớn quốc gia về điện, dầu khí... -Khuyến khích các tổng công ty 90,91 trong một số ngành như ngân hàng, bưu chính viễn thông...những doanh nghiệp lớn phát hành trái phiếu công ty loại trung và dài hạn để huy động vốn cho những công trình đang đuợc Quốc hội phê duyệt hoặc đang được tiến hành.Những loại trái phiếu này phải đảm bảo được tiêu chuẩn niêm yết trên TTCK và là cầu nối giữa nhu cầu to lớn về vốn của DN với nguồn vốn tiết kiệm đang trôi nổi ngoài xã hội. Khuyến khích DN có vốn điều lệ lớn hơn 10 tỷ đồng khi có nhu cầu về vốn cũng có thể phát hành trái phiếu loại trung và dài hạn với điều kiện họ phải tuân thủ nghị định 48/CP và qui chế niêm yết CK. -Loại trái phiếu đô thị cũng cần được các tỉnh thành phố quan tâm như là một công cụ để huy động vốn cho các tỉnh thành. Cần mở rộng phát hành trái phiếu đô thị trung hạn. Uỷ ban CK nhà nước cần phải bổ sung qui định qui trình phát hành trái phiếu đô thị. -Tăng cường, chú trọng phát hành trái phiếu có mệnh giá phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân Việt Nam, phát hành CK vô danh ( phiếu, trái phiếu dài hạn) có thể mua đi bán lại được, chuyển ký danh đã có thành các CK vô danh; cho phép mua đi bán lại các CK này. -Riêng đối với cổ phiếu, do những nguyên nhân như đại đa số doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiến trình cổ phần hóa DNNN diễn ra chậm chạp, TTGDCK theo qui định để tránh cho việc TT nhỏ bé, đơn điệu thì cần khoảng 10-20 công ty có CK được niêm yết trên TT, bởi vậy cho nên đến nay chúng ta vẫn chưa có TTGDCK. Để trung tâm này sớm được hình thành và đi vào hoạt động ta cần có những biện pháp trước mắt như: +Sát nhập những công ty cổ phần nhỏ để hình thành những công ty cổ phần lớn hơn, hoạt động an toàn hơn. Những công ty đã được sát nhập này sẽ có vốn điều lệ lớn, đủ tiêu chuẩn để niêm yết trên TTCK, cổ phiếu của họ sẽ có uy tín. Những cổ phiếu nào được uỷ ban CK nhà nước phát hành sẽ mặc nhiên được phép niêm yết ở TTGDCK. +Hiện nay, có loại cổ phiếu phát hành trước NĐ 48/CP như vậy phải căn cứ vào tiêu chuẩn vốn điều lệ tối thiểu đạt 10 tỷ dồng và trong 2 năm liên tục gần đây nhất phải kinh doanh có lãi thì CK của công ty đó sẽ được lưu thông tại TTGDCK còn không đủ điều kiện như trên sẽ được lưu thông ở thị trường phi tập trung đặt tại trong trung tâm để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông. +Về tiến trình cổ phần hóa, muốn thúc đẩy cổ phần hóa được nhanh chóng cần phải thực hiện: Phải tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức cũng như ý nghĩa, mục đích của việc cổ phần hoá để các doanh nghiệp hiểu và có nhận thức đúng đắn về việc làm này. Nhưng cần có những biện pháp, chính sách chế độ thật kiên quyết với những doanh nghiệp phản đối CPH. Có thể dùng những biện pháp khuyến khích tuyên truyền để DN tiến tới CPH kết hợp với xử lý kiên quyết nếu thấy cần thiết. Sớm tổng kết lại các kiểu công ty cổ phần đã ra đời và hoạt động trong cả nước trong thời gian qua, kể cả công ty cổ phần có nguồn gốc tư nhân cũng như từ DNNN để chọn lựa mô hình thích hợp, có hiệu quả từ đó làm mẫu để xây dựng và phát triển công ty cổ phần phù hợp. Trên cơ sở chọn ra các DN không thuộc diện nhà nước gửi lại 100% vốn đầu tư để đưa vào danh sách CPH, với phương châm triển khai cụ thể, dứt điểm từng giai đoạn. Mở rộng các hình thức tiến hành CPH. Không nhất thiết chỉ bán một phần tài sản DN, mà còn có thể triển khai thêm các hình thức như phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn mở rộng và hiện đại hoá DN, đa dạng hóa các loại cổ phiếu và các lĩnh vực phát hành cổ phiếu (đây là hình thức mà Trung Quốc áp dụng thành công). Bằng hình thức thông tin qua báo chí, đài, các tổ chức đoàn thể cung cấp thông tin chính xác, tin cậy về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả tài chính của doanh nghiệp cổ phần hoá đã qua kiểm toán độc lập. áp dụng những điều kiện ưu đãi như nhau đối với các DNNN và công ty cổ phần. Nhanh chóng triển khai và cụ thể hoá cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc cổ phần hoá theo Nghị định 28-CP của chính phủ ban hành ngày 07/05/1996 như: Xác định danh mục loại hình DN cần phải cổ phần hoá ở những mức độ nào. Xác định giá trị DN khi tiến hành cổ phần hoá trên cơ sở phần giá trị còn lại của DN phải sát đúng thực tế. Vai trò làm chủ của những người lao động trong DN cổ phần hóa (trong Nghị định 28-CP qui định về việc bán chịu một số cổ phiếu trong 5 năm với lãi suất 4%/năm...) và thông tư 50 TC/TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ Tài chính còn qui định thêm: “Hàng năm người lao động phải trả tối thiểu 20% giá trị cổ phiếu mua chịu và 4% lãi tiền số nợ vay, nếu người lao động không trả được nợ trong 2 năm tiền giá trị cổ phiếu mua chịu thì phải hoàn trả cho Nhà nước. Như vậy rất khó khăn cho người lao động. Bên cạnh đó, Ngân hàng phải tiếp tục cung ứng vốn tín dụng theo cơ chế cho vay đối với vốn DNNN và tham gia mua cổ phần trong DN cổ phần hoá. Qua vai trò cổ đông, Ngân hàng sẽ nắm được tình hình sản xuất kinh doanh của DN tạo điều kiện thúc đẩy quá trình sản xuất có hiệu quả hơn vì lợi ích DN bao gồm cả lợi ích của NH. 2)áp dụng phương pháp phát hành chứng khoán hợp lý. Phương pháp phát hành có tác dụng rất lớn trong việc phân phối tới người đầu tư một cách nhanh chóng, thu hồi vốn tốt. Đối với trái phiếu, tốt hơn cả là tín phiếu kho bạc nên được phát hành toàn bộ qua đấu thầu tại NH nhà nước, còn trái phiếu kho bạc có thể do kho bạc NN trực tiếp bán. Trái phiếu doanh thì có thể bán dưới nhiều hình thức bảo lãnh phát hành theo NĐ 48/CP. Cổ phiếu của DN có vốn điều lệ lớn hơn 10 tỷ đồng khi phát hành phải tuân theo NĐ 48/CP. Các DN có vốn điều lệ nhỏ hơn 10 tỷ đồng cũng được phép tự phát hành cổ phiếu với sự đồng ý của Uỷ ban CK Nhà nước. II-/ Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp. Có biện pháp xử lý kiên quyết đối với những trường hợp làm trái luật pháp: 1)Đảm bảo sự quản lý của NN đối với TTCK. Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận của nó TTCK còn có nhiều khuyết tật hạn chế có thể dẫn đến tổn thất to lớn như khủng hoảng kinh tế, tiền tệ có tính chất khu vực và thế giới. Những quản lý nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia các quan hệ TTCK, khai thác được tốt những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của TT và hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của nó. Nhà nước có thể quản lý việc hình thành và phát triển TTCK bằng nhiều công cụ dưới nhiều hình thức khác nhau như: ban hành luật để thực hiện các chính sách của nhà nước về tài chính, tiền tệ, lãi suất, đầu tư và thuế khoá... hoặc thông qua việc kiểm tra, giám sát các pháp nhân và thể nhân tham gia TTCK một cách thường xuyên nhằm ngăn chặn, xử lý những sai phạm theo luật định. Uỷ ban CK quốc gia trực thuộc Chính phủ có chức năng quản lý các mặt hoạt động liên quan đến phát hành và kinh doanh CK. UBCKQG sẽ chịu trách nhiệm soạn thảo các căn bản luật liên quan đến CK đệ trình chính phủ phê duyệt. Sau đó tổ chức đào tạo và cấp giấy phép hoạt động cho các nhà môi giới CK. Khi các điều kiện chín muồi, sẽ tiến hành cấp giấy phép hoạt động cho từng sở giao dịch và có trách nhiệm theo dõi giám sát các mặt hoạt động trong suốt quá trình hoàn thành và phát triển TTCK theo hướng nhất định. 2)Xác lập qui chế pháp lý của các chủ thể tham gia TTCK. Các chủ thể tham gia TTCK bao gồm các doanh nghiệp TC, ngân hàng, bảo hiểm, các tổ chức XH (pháp nhân). Các chủ thể này không hoạt động độc lập trên thị trường CK mà chúng có nhiều mối quan hệ khăng khít. TTCK hoạt động có hiệu quả, lành mạnh hay không đều do tính chất của các mối quan hệ này quyết định. Nếu tích cực thì TTCK có thể vận hành một cách hữu hiệu còn ngược lại TT bị lũng đoạn, bị thao túng rất dễ dẫn đến những hậu quả tai hại đôi khi các quốc gia phải trả giá rất đắt như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua. Chính vì vậy cần có luật để điều chỉnh các mối quan hệ đó bằng cách xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào TTCK, không những thế cần phải có luật qui định điều kiện để các chủ thể tham gia vào TTCK, tránh tình trạng tham gia một cách lộn xộn gây rối loạn TTCK, qui định trình tự, thủ tục tổ chức thành lập các pháp nhân tham gia TT, điều kiện đăng ký, xin giấy phép. Pháp luật cần phải qui định rõ trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể liên quan với nhau và với nhà nước và toàn XH. Trong thực tế không phải mỗi chủ thể chỉ có một chức năng và chỉ có một mối quan hệ mà có nhiều chức năng, quan hệ nhiều chiều với các chủ thể khác. Do vậy để đảm bảo có một TTCK vận hành một cách nhịp nhàng có hiệu quả, pháp luật cần qui điịnh một cách cụ thể rõ ràng quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm tương ứng với mỗi chức năng, phù hợp với tính chất và nội dung của từng loại hình hoạt động. 3)Pháp luật đảm bảo cho các hoạt động diễn ra trên thị trường một cách có trật tự, tuân thủ qui luật, điều lệ. Như đã biết, TTCK được phân thành: TT sơ cấp và TT thứ cấp. TT sơ cấp là nơi CK được phát hành lần đầu, làm phát triển vốn đầu tư cho DN phát hành, là tiền để cho sự hình thành và phát triển thị trường thứ cấp. TT thứ cấp là nơi mua bán những CK đã được phát hành trên thị trường sơ cấp tạo điều kiện làm tăng tính lỏng của CK phát hành trên TT sơ cấp, quyết định giá trị của CK ở TT sơ cấp. Như vậy, cần có luật để điều chỉnh hoạt động trên cả hai TT này. Thứ nhất cần có luật qui định về phát hành CK, qui chế phát hành CK phải qui định rõ: ý nghĩa kinh tế, bản chất và vấn đề pháp lý của mỗi loại cổ phiếu, trái phiếu, các hình thức phát hành và thủ tục phát hành CK. Thứ hai cần có qui chế luật pháp về mua bán và chuyển nhượng CK, cụ thể: xác định thể thức và trình tự thủ tục mua bán, chuyển nhượng CK, những vấn đề về trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi đi ngược lại những qui định trong qui chế về các hoạt động như giả mạo CK, lừa đảo, đầu cơ thao túng tiền tệ, chèn ép các chủ thể và đẩy họ vào thể bất lợi. Ngoài ra, thông tin chính xác cho hoạt động TTCK là vấn đề không thể đặt ra ngoài mối quan tâm của chúng ta khi chúng ta muốn có TTCK vì vậy cần có luật pháp điều chỉnh, ngăn chặn đối với những trường hợp cung cấp thông tin thiếu chuẩn xác và cố tình tung tin để lũng đoạn thao túng TT. III-/ Cơ sở vật chất. Sắp tới chúng ta sẽ có trung tâm GDCK lớn được thành lập ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh, nhưng chúng ta hãy thử cân nhắc xem có nên chăng khi tiếp tục thúc đẩy việc thành lập hai trung tâm lớn ở trên. Vẫn biết rằng muốn xây dựng chợ thì phải chọn địa điểm? Liệu Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh có thích hợp? Sẽ thế nào nếu có một người ở Sông Bé, Huế hoặc Thái Bình muồn đầu tư vào TTCK ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh với điều kiện hiện tại họ sẽ phải đi tầu xe để đến được nơi có CK mà mua, liệu đến được đó giá của CK còn ở mức mà họ muốn mua. Đó là chưa kể họ có quen, có thành thạo, có nắm bắt được những thủ tục mua bán ở một trung tâm lớn với tư cách là nhà đầu tư biết rất ít hoặc hiểu lờ mờ về lĩnh vực mà họ sắp tham gia. Như vậy giải pháp cho vấn đề này là chúng ta cần xem xét để mở những TTCK nhỏ dạng như quầy giao dịch OTC ở các tỉnh thành phố thuộc tỉnh- TT này chỉ ở dạng đơn giản như “chợ xanh, chợ cóc” để nhân dân quen dần với TTCK, cách thức hoạt động của nó, TT này không cần những tiêu chuẩn bắt buộc đối với TTCK chính thức, tự thân khi phát triển nó sẽ trang bị cho nó những điều kiện cần thiết để trở trành TT lớn. Điều này ngoài việc để cho nhân dân quen dần với TTCK còn có một lợi ích thiết thực là để nhân dân có cơ hội tiếp cận với TTCK một cách thuận tiện nhanh chóng, giảm chi phí không đáng có, thực hiện được những cơ hội đầu tư có lợi. IV-/ Yếu tố con người. Những bất cập mà chúng ta mắc phải khi chuẩn bị xây dựng và phát triển TTCK cũng một phần là do chúng ta thiếu nguồn nhân lực. Hiện nay chúng ta có rất ít chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực CK- lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ này. Như vậy trước mắt phải đào tạo một đội ngũ chuyên gia về TTCK để phục vụ cho các công ty môi giới, quĩ đầu tư tiền tệ về CK, ngân hàng không những thế còn phải có đội ngũ chuyên gia làm việc trong các DN, giúp đỡ các DN tham gia một cách tích cực vào TTCK. Tiếp đến chúng ta cần phải có một đội ngũ cán bộ điều hành và quản lý TTCK để đảm bảo cho TTCK vận hành một cách có hiệu quả. Có thể gửi cán bộ đến những nước có TTCK phát triển để làm quen học hỏi kinh nghiệm cũng như khả năng nghiệp vụ phát triển chuyên môn. Phổ cập và nâng cao kiến thức về mặt phương pháp luận cho đội ngũ cán bộ công nhân viên làm việc trong các ngân hàng, tổ chức tín dụng, công ty tài chính, bảo hiểm...Cải tiến phong cách làm việc, thái độ, tác phong, coi trọng giờ giấc, làm ăn nghiêm chỉnh, chống tham ô, thụt két, cửa quyền, quan liêu hống hách của một số quan chức trong hệ thống này. Tuyên truyền, giải thích, phổ cập kiến thức để quần chúng nhân dân có thái độ, nhận thức đúng đắn về loại thị trường mới này, giúp họ nhận ra mặt tích cực của TTCK, từ đó thấy được đầu tư vào CK là có lợi. Tránh cho họ khỏi những tâm lý trì trệ thích cầu toàn, phải nhanh nhẹn năng động, bắt kịp với thời cuộc, vận động để nhân dân đưa tiền tiết kiệm vào đầu tư, tránh tâm lý thích giữ vàng, tạo cho họ có thói quen thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Học tập thói quen tiết kiệm, chống lối sống xa hoa lãng phí, không cần thiết. V-/ Các trung gian tài chính. Về hệ thống ngân hàng, phải có cách hoạt động hiệu quả hơn, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân- chúng là cầu nối giữa những người vay vốn nhỏ cũng như những nhà đầu tư nhỏ thấy mình cũng có ích trong TT tài chính. Vai trò của NH là quan trọng nên phải có biện pháp, qui định cụ thể cho hoạt động của NH, bỏ bớt thủ tục rườm rà trong quá trình cho vay vốn, thay đổi cách quản lý tránh những liên kết ngầm giữa các ngân hàng để thụt két, tham ô, chiếm đoạt tài sản XHCN. Ngân hàng phải hoạt đông có hiệu quả thì TTCK mới phát huy đựoc hết tiện ích của nó. Cần phải thiết lập các công ty môi giới CK, buôn bán CK- họ sẽ là trung gian, là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động TTCK. TTCK có hoạt động tốt hay không là do các môi giới, buôn bán CK có đầy đủ kiến thức, năng lực trình độ hay không vì vậy việc thành lập các công ty môi giới CK, buôn bán CK là một việc làm cần thiết cho việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam kết luận. Như vậy, ta có thể một lần nữa khẳng định rằng thị trường chứng khoán có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự vận hành của nền kinh tế, góp phần giải quyết mâu thuẫn về vốn - vốn đã luôn căng thẳng, xứng đáng là một thể chế tài chính hiện đại, đứa con của nền kinh tế thị trường. Xây dựng được thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh có hiệu quả giúp cho các doanh nghiệp có một chỗ dựa vững chắc về vốn để từ đó có thể yên tâm mở rộng sản xuất, giúp Nhà nước có trong tay những công cụ hữu hiệu để quản lý hoạt động kinh tế của Quốc gia góp phần phát huy vai trò của tiền tệ, là dầu bôi trơn bánh xe lưu thông trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội đầu tư cho mọi cư dân của Quốc gia. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết, em chỉ xin trình bày đôi nét về thị trường chứng khoán cũng như một số giải pháp cho vấn đề xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, với mong muốn góp một chút hiểu biết ít ỏi của mình cho việc hoàn thiện những điều kiện làm nền tảng cho sự ra đời nay mai của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên do thời gian có hạn, hiểu biết còn hạn chế nên thiếu sót, sai lầm về nhận thức, về cách diễn đạt về cách giải quyết vấn đề là không thể tránh khỏi. Vì vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý kiến của thầy cô, bạn bè, những độc giả quan tâm đến thị trường chứng khoán, đến việc hình thành và phát triển một thị trường chứng khoán hoàn thiện ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo 1-/ Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính - Frederics. Miskhin 2-/ Việt Nam với Thị trường chứng khoán Chủ biên: Bùi Nguyên Hoàn NXB Chính trị quốc gia - 1995 3-/ Thị trường chứng khoán ở Việt Nam Nguyễn Văn Luận - Trần Quốc Tuấn - Ngô Minh Châu NXB Thống kê - 1995 4-/ Thị trường chứng khoán phương thức trả và Chủ biên: Nguyễn Trần NXB Thống kê. 5-/ Một số tài liệu tham khảo khác. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0091.doc
Tài liệu liên quan