Đề tài Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam thời kỳ 2001-2010

Thủ tục hành chính trong tất cả các khâu sản xuất,lưu thông,giao nhận vận chuyển và xuất khẩu hàng hoá vẫn còn là ván đè không ít khó khăn phiền hà cho người sản xuất kinh doanh,lam cho họ phải rất vất vả,tốn kms mới có thể vận dụng được nguồn vốn tín dụng nhất là tín dụng ưu đãi tiếp cận các nguồn nguyên liệucó thể giải phóng nhanh lô hàng bảo đảm thời hạn giao hàng theo hợp đồng xuất khẩu Một doanh nghiệp sản xuất gốm mỹ nghệ xuất khẩu mà chỉ được phép hạch toán tiền công không quá( 18-20)% giá trị sản phẩn,nếu vượt quá thì phải loại ra để tính thu nhạp chịu thuế là không hợp lý,vì trong sản xuất hàng này tiền nguyên vật liệu không đáng kể ( chỉ có đất men .) còn chủ yếu là tiền công trả cho công nhân,hoạ sĩ đó là một thí dụ về những quy định hành chính bất hợp lý gây khó khăn cho sản xuất.

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vị có thể nghiên cứu dựa trên một số các tham số cơ bản sau: - Sản phẩm: Mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất bởi các hãng khác nhau sẽ có chất lượng khác nhau do nguyên liệu đầu vào thay đổi giữa các nguồn đầu vào và sự khác nhau bởi qui trình sản xuất. Tuy nhiên về cơ bản là dựa trên sự học hỏi mẫu mã của nhau để chế tạo sản phẩm. Trong việc nghiên cứu sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, các đơn vị cần tìm hiểu thêm mẫu mã, các ưu điểm nổi bật cũng như những điểm chưa hoàn chỉnh trong các sản phẩm đó, từ đó có thể đưa ra các sản phẩm có đặc tính ưu việt hơn. - Thị trường của các đối thủ cạnh tranh: Thực chất của việc nghiên cứu thị trường của đối thủ cạnh tranh là việc xác định thị phần của họ. Qua việc nghiên cứu này, các đơn vị có thể xác định lượng tiêu thụ và mức gắn bó của họ với thị trường. Việc nghiên cứu thị trường mà các đơn vị có thể khai thác đòi hỏi phải được tiến hành lâu dài, kiên trì kết hợp với các phương pháp quảng cáo để khơi dậy được tiềm năng của thị trường. - Giá cả của đối thủ cạnh tranh: đối với các mặt hàng mà nhu cầu thị trường để thể hiện tương đối rõ ràng, giá cả trở thành một vấn đề quyết định tới cạnh tranh. Khi đó các đơn vị không thể bỏ qua việc nghiên cứu giá cả cùng các dịch vụ sau bán của các đối thủ cạnh tranh nhằm đưa ra một mức giá phù hợp với sản phẩm của mình. c. Lựa chọn thị trường trọng điểm: Việc xác định các thị trường mục tiêu của các đơn vị chủ yếu dựa trên những thông tin đã có sẵn, qua các số liệu từ các đại diện thương mại của các đại sứ quán ở nước ngoài. Mặc dù qui mô hiện tại của thị trường sẽ làm chắc chắn thêm các quyết định thâm nhập thị trường và đưa ra các gơị ý tốt về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhưng trong kinh doanh, người làm công tác thị trường cần phải xác định được qui mô tương lai của thị trường các đơn vị có thể khai thác được. Mặc dù nhu cầu của thị trường đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà các đơn vị đang hoặc có thể đáp ứng là rất cao và có dấu hiệu ổn định nhưng trong tương lai nhu cầu đó như thế nào và liệu các đơn vị có khả năng đưa ra một chính sách cạnh tranh giành thắng lợi không? Mặt khác, việc phân đoạn thị trường theo tiêu thức khu vực địa lý, như đã trình bày ở trên, gây chi phí lớn cho xuất khẩu, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh cũng như đòi hỏi phải có nghiên cứu sâu sắc hơn, lựa chọn đúng thị trường trọng điểm. Như vậy, có thể nói rằng việc xác định đúng thị trường trọng điểm là một mục tiêu chiến lược vô cùng quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của các đơn vị. Để có thể lựa chọn được thị trường trọng điểm, các đơn vị phải đưa ra các tiêu chuẩn và việc nghiên cứu thị trường sẽ phải định hướng vào các tiêu chuẩn đó thông qua các mục tiêu mang tính chất chiến thuật. Các tiêu chuẩn lựa chọn sẽ là: - Qui mô của thị trường (hiện tại và tương lai) về mặt hàng thủ công mỹ nghệ. - Sự phát triển nhu cầu thị trường. Liên quan đến tiêu chuẩn này, các đơn vị cần tập trung nghiên cứu các yếu tố hình thành nên nhu cầu thị trường. Kinh tế xã hội, chính trị, nền văn hoá, các trào lưu và xu thế tiêu dùng mặt hàng thủ công mỹ nghệ. - Các chi phí kinh doanh có thể xuất hiện: chi phí vận tải, chi phí bán hàng, thuế nhập khẩu của nước đó. - Những ưu thế cạnh tranh của đối thủ: các yếu tố giá cả, mẫu mã, thị phần… - Mức độ rủi ro khi kinh doanh trên thị trường. Trên nguyên tắc toàn bộ các thị trường của các đơn vị trên thế giới đều được chọn lọc thông qua các tiêu chuẩn trên. Song điều kiện của các doanh nghiệp không cho phép tìm hiểu một cách đầy đủ tất cả các thị trường trong từng khu vuực thị trường, các đơn vị sẽ phải chọn một số thị trường chủ yếu để đưa vào phạm vi nghiên cứu. Trên khu vực Châu á, các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan sẽ là những thị trường trọng điểm được đưa vào mục tiêu nghiên cứu. Trên khu vực Tây Âu, các thị trường Pháp, Đức. Khu vực Trung Đông có Iran là thị trường có khả năng tiêu thụ tương đối lớn. Các đơn vị cần phải khảo sát nhu cầu của các thị trường này để thu thập các thông tin, đẩy mạnh lượng bán và khai thác các nhu cầu của thị trường. Trong quá trình nghiên cứu xử lý thông tin các đơn vị cần phải quan tâm tính đồng nhất của các thị trường, từ đó có thể tìm được cách khai thác trên các thị trường khác nhau. Trên thực tế, sự phân ranh giới địa lý giữa các nước chỉ mang tính chất tương đối đối với các nhà kinh doanh. Đặc điểm nổi bật mà họ quan tâm là sự khác nhau về nhu cầu và các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu. Khi thấm nhuần tư tưởng này các đơn vị sẽ lựa chọn được những thị trường trọng điểm của mình không chỉ trên một nước, mà trên một nhóm nước có điểm tương đồng về nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ. d. Lựa chọn mặt hàng chiến lược và nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn xây dựng được các mặt hàng chiến lược phải dựa trên những thế mạnh đó là nguồn nguyên liệu. Nguồn lao động và có thị trường. Qua nghiên cứu chiến lược cho kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, các đơn vị cần phải xác định được cho mình thế mạnh cả ở đầu vào và đầu ra. - Về mặt thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng này, thể hiện qua nghiên cứu thị trường là các thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… cho các mặt hàng thêu, gốm, gỗ mỹ nghệ và cói; Pháp, Đức cho mặt hàng thêu và gỗ mỹ nghệ; Trung Đông về mặt hàng cói… - Về mặt nguyên liệu, nguồn lao động: Đối với hàng thủ công mỹ nghệ thì nguồn nguyên liệu có sẵn ở trong nước và nguồn lao động dồi dào. cụ thể: nghề thêu phát triển ở Nam Hà, Ninh Bình; nghề gốm phát triển ở Bát Tràng, Quảng Ninh; cói phát triển ở Ninh Bình, Nam Hà, Thanh Hoá; gỗ mỹ nghệ ở Hà Bắc, Ninh Bình, Hà Nội. Tại những vùng này bên cạnh nguồn nguyên liệu dồi dào là cả một đội ngũ lao động lành nghề. Cũng ở vùng này đã sinh ra những nghệ nhân tài hoa với đôi tay vàng đã tạo ra những sản phẩm độc đáo Nhà nước nổi tiếng ở cả trong và ngoài nước. Trên cơ sở những mặt hàng chính đã được xác định là việc nâng cao chất lượng hàng và đa dạng hoá hình thức mẫu mã để thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu thị trường quốc tế. Thực ra đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ thì chất lượng và hình thức có tầm quan trọng tương đương nhau. Muốn tăng kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này cần chú trọng đến cả hai. Chất lượng hàng mỹ nghệ phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu và sử lý nguyên liệu. Thực tế cho thấy sản phẩm mỹ nghệ của Việt Nam nói chung rất độc đáo, tinh xảo, mang tính mỹ thuật cao, nhưng khi xuất khẩu trải qua thời gian với điều kiện khí hậu khác nhau hàng hoá bị xuống cấp nhanh chóng. Đây thực chất phụ thuộc vào quy trình sử lý nguyên vật liệu cũng như sử lý sản phẩm sau giai đoạn sản xuất. Một vấn đề hết sức khó khăn cho việc đảm bảo chất lượng hàng hoá là sự phụ thuộc rất lớn của sản phẩm vào thời tiết, ví như hàng cói gặp khí hậu ẩm là dễ mốc. Tương tự như vậy là sản phẩm gỗ mỹ nghệ nếu không được sử lý cẩn thận thì khi gặp thời tiết nóng, lạnh sẽ cong vênh, nứt nẻ…đòi hỏi những sản phẩm phải được sử lý thật kỹ từ khi còn là nguyên liệu thô. Quá trình sử lý càng kỹ thì sự biến chất càng giảm, chất lượng được nâng cao. Bên cạnh những việc nâng cao chất lượng là cải tiến mẫu mã hình thức. Đối với hàng thủ công mỹ nghệ có một lợi thế đó là việc cải tiến mẫu mã không đòi hỏi tốn kém lại dể thực hiện. Ví dụ như hàng cói, chỉ cần pha chế tỷ lệ phẩm khác nhau là đã có những mầu sắc phong phú da dạng hay việc cải tiến những đường nết hoa văn của các sản phẩm khác. Từ đó tạo nên sức hấp dẫn với khách hàng quốc tế. e. Lựa chọn mức giá tối ưu. Giá cả là một yếu tố quan trọng trong việc kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Thực tế ở Việt Nam, giá bán của các đơn vị phụ thuộc nhiều vào giá bán của đối thủ cạnh tranh và luôn luôn thay đổi. Trong kinh doanh, đành rằng giá cả là một yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua của khách hàng. Song khi giá cả quá thấp cũng có thể đưa tới sự ngờ vực của họ về sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Mục tiêu của nghiên cứu giá cả trước hết phụ thuộc vào sản phẩm của công ty cũng như sản phẩm của đối thủ cạnh tranh cùng mức giá các đối thủ đưa ra. Trong nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, đặc điểm chung là các sản phẩm đều là các hàng khảo giá hay hàng mua sắm, nghĩa là khi lựa chọn sản phẩm, các khách hàng sẽ đưa ra sự so sánh giữa các sản phẩm khác nhau để lựa chọn trên cơ sở những ưu điểm của sản phẩm và mức giá của những nhà xuất khẩu khác nhau. Một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có đặc điểm đồng nhất. Khi đó, giá cả trở nên quan trọng và các đơn vị buộc phải nghiên cứu các mức giá khác nhau trên thị trường. Ngược lại một số sản phẩm lại là các hàng khảo giá không đồng nhất. đối với các mặt hàng này, đặc tính ưu việt của hàng hoá sẽ quyết định tới giá cả và các đơn vị có thể áp dụng chính sách linh hoạt giá cả với các sản phẩm khác nhau của mình. Việc xác định giá cả còn phụ thuộc vào các điều kiện giao hàng trong trường hợp xuất khẩu trực tiếp, thông qua các kênh trung gian. Nghĩa là giá bán cũng có thể bao gồm cả việc bảo hiểm hoặc phí vận tải hàng hoá. Nghiên cứu, xác định giá cả trong hoạt động xuất khẩu là một mục tiêu rất quan trọng và phải được tiến hành rất thường xuyên, nhất là đối với các sản phẩm đồng nhất với các đối thủ cạnh tranh. Một điều cần chú ý trong việc xác định giá cả là các đơn vị phải có đầy đủ thông tin cần thiết trước khi đưa ra các quyết định bớt giá, chiếu cố hay tăng giá. Và các đơn vị cũng phải xác định việc nghiên cứu nhằm vào các mục tiêu làm giá là lợi nhuận được định hướng hay tăng cường thị phần trên các thị trường cụ thể… Ngoài việc nghiên cứu và nắm bắt thị trường theo các phương pháp trên, để cải thiện tốt hơn tình trạng hiện nay về công tác thị trường trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các đơn vị cần phải thực hiện các biện pháp sau: áp dụng các biện pháp tích cực để giữ vững thị trường và khách hàng truyền thống, đặc biệt là các khách hàng lớn. Nghiên cứu để hình thành các cam kết với khách hàng có quan hệ buôn bán thường xuyên nhằm bảo đảm hai bên cùng phát triển và cùng có lợi. Cần thường xuyên quan hệ với các cơ quan ngoại giao, thường vụ, văn phòng đại diện, các tổ chức thương mại tại Việt Nam và nước ngoài để tìm kiếm khách hàng. Trong đó cần quan tâm giải quyết các công việc từ gửi thư, chúc mừng năm mới, ngày lễ quốc khánh, gửi danh thiếp, gửi bản chào hàng, gửi qùa lưu niệm cho đến có cơ chế hợp lý để trả công môi giới ký kết hợp đồng. Cần xây dựng trước kế hoạch tham dự hội chợ triển lãm trong nước cũng như hội chợ triển lãm quốc tế để có đủ thời gian cần thiết nghiên cứu thị trường và chuẩn bị mọi mặt được chu đáo nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Qua hội chợ triển lãm, các đơn vị có điều kiện giao dịch ký kết hợp đồng, tìm hiểu khả năng và nhu cầu của khách hàng đồng thời là cơ hội của khách hàng hiểu hơn nữa về các đơn vị và sản phẩm. - Khuyến khích mọi người phát huy khả năng năng động sáng tạo trong việc tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng thông qua chế độ thưởng, hoa hồng cho người môi giới. - Thành lập một phòng thị trường thay cho sự kiêm nhiệm của phòng kinh doanh. phòng thị trường có tính độc lập tương đối và nhân sự phù hợp sẽ phát huy được vai trò là xây dựng chiến lược thị trường toàn diện gắn thị trường với sản xuất trong nước nhằm “ bán hàng mà khách hàng cần chứ không phải bán cái mình có”. Cụ thể phòng thị trường sẽ chịu trách nhiệm tổ chức tốt kênh thông tin để thu thập đầy đủ thông tin về thị trường, tổ chức tốt việc xử lý thông tin thật nhanh, kết hợp với năng lực phán đoán thị trường và dự báo thị trường một cách chính xác từ đó đưa ra các quyết định đungs đắn về thị trường. 2. Kết hợp sản xuất với xuất khẩu. Để tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như nâng cao hiệu quả xuất khẩu các đơn vị nên kết hợp sản xuất với xuất khẩu thông qua việc hình thành các xưởng sản xuất. Sự kết hợp này cho pheps nâng cao hiệu quả kinh doanh vì các đơn vị có thể thu lợi nhuận từ hai nguồn: sản xuất + xuất khẩu. đồng thời với sự kết hợp này cho phép tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu bởi những lý do sau: - Đáp ứng tốt, kịp thời nhu cầu thị trường: qua hoạt động xuất khẩu các đơn vị nắm được khách hàng với nhu cầu thị hiếu và thói quen tiêu dùng của họ từ đó có cơ sở để tổ chức sản xuất. - Tạo được nguồn hàng chất lượng ổn định, mẫu mã phù hợp với nhu cầu thị trường. - Chủ động về mặt hàng: vì trực tiếp sản xuất nên các đơn vị có thể chủ động về số lượng, chất lượng, giá cả. Có khả năng cải tiến kỹ thuật mặt hàng để phù hợp với từng thị trường riêng biệt. - Hình thành xưởng sản xuất không đòi hỏi chi phí nhiều về cơ sở vật chất, trang bị, chi phí đào tạo không nhiều và thời gian đào tạo không lâu. Về địa điểm, xưởng sản xuất có thể đặt tại Hà Nội, hoặc cũng có thể ở các vùng có sẵn nguyên liệu. Nếu xưởng đóng ở Hà Nội thì phải có tổ chức cung ứng vật tư nguyên vật liệu kịp thời cũng như baỏ đảm dự trữ đầy đủ, đồng bộ. Nếu xưởng sản xuất đóng tại các tỉnh xa thì phải làm tốt công tác quản lý và tổ chức sản xuất, để đảm bảo vừa tổ chức sản xuất trực tiếp vừa có sự chỉ đạo trực tiếp, hỗ trợ sản xuất của các đơn vị. Xưởng sản xuất là một đơn vị sản xuất có chức năng: + Nghiên cứu sáng tác, cải tiến những công nghệ kĩ thuật sản xuất các mặt hàng mỹ nghệ, tạo ra nhiều đề tài mẫu mã mới. + Quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. + Tổ chức sản xuất kinh doanh. Để thực hiện tốt các chức năng trên, các xưởng phải thực hiện những nhiệm vụ sau: * Nghiên cứu sáng tác chế thử: - Nghiên cứu đề ra các tiêu chuẩn kĩ thuật và biện pháp đối với việc sử lý các nguyên liệu cho sản xuất đảm bảo cho hàng hoá xuất khẩu đạt chất lượng cao. - Thực hiện chế thử và lập qui trình sản xuất hàng loạt theo mẫu hoặc theo thiết kế của khách. - Sưu tầm nghiên cứu thị hiếu thị trường để sáng tác mẫu mới phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và yêu cầu thị trường. - Giải quyết chế độ bản quyền cho các đơn vị sản xuất, đăng ký bản quyền đối với những mẫu mã đề tài do đơn vị mình đặt ra cho xưởng nghiên cứu và sản xuất thử thành công. - Tổ chức trưng bày các sản phẩm mẫu mã hoàn chỉnh, có hệ thống để giới thiệu, chào bán và bán tại chỗ. * Tổ chức thu hoá, đóng gói bao bì, giao hàng. - Tổ chức thu hoá hàng rời để đóng gói và giao hàng đối với các hợp đồng yêu cầu chất lượng cao, trị giá hàng hoá lớn, đặc biệt là giao hàng bằng container và các thương nhân Nhật Bản, Tây Âu. Chịu trách nhiệm về phẩm chất hàng hoá sau khi đã thu hoá. - Kết hợp hoạt động phục vụ công tác kinh doanh của các đơn vị trong lĩnh vực xuất khẩu với việc tổ chức sản xuất, mở rộng quan hệ giao dịch, trưng bày bán hàng tại chỗ, tăng thêm thu nhập cho các đơn vị kinh doanh. - Tuân thủ mọi qui chế quản lý kinh tế của Nhà nước và các qui định khác của đơn vị mình. 3. Tạo nguồn hàng kịp thời và có chất lượng. Việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt góp phần đáp ứng kịp thời chính xác nhu cầu của thị trường, thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng tốt. Kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ của các đơn vị chỉ phát triển, đạt hiệu quả cao khi các đơn vị có những biện pháp đồng bộ, cân đối từ thu mua, thực hiện hợp đồng, thanh toán, giao hàng.Trong đó khâu tạo nguồn hàng, ổn định có chất lượng là khâu cực kỳ quan trọng và là khâu đầu tiên, khâu quyết định trong quy trình nghiệp vụ, đồng thời chứng tỏ liệu các đơn vị có khả năng phát triển ở giai đoạn sau hay không. Như vậy để tạo được nguồn hàng ổn định có chất lượng các đơn vị phải có mối quan hệ tốt với các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Mối quan hệ này phải dựa trên cơ sở bình đẳng, hợp tác tương trợ lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi. Các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đa phần là thiếu vốn. Để đảm bảo cho các cơ sở sản xuất có thể cung ứng vốn cũng như máy móc thiết bị cần thiết. Trên cơ sở có vốn, cơ sở sản xuất mua được nguyên liệu chất lượng cao và ổn định, máy móc thiết bị sẽ cho phép tăng năng suất lao động và ổn định chất lượng. Cùng với việc cung ứng là cải thiện chế độ thu mua. Các đơn vị cần áp dụng giá mua như như thế nào cho hợp lý đồng thời giải quyết được vấn đề lãi của đơn vị với tạo động lực khuyến khích người lao động sản xuất. Đối với những cơ sở sản xuất mà đơn vị có quan hệ thường xuyên lâu dài cần phải nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các đơn vị về cải tiến mẫu mã cho phù hợp nhu cầu thị trường. Đồng thời có chế độ kiểm tra chặt chẽ mặt chất lượng đúng như cam kết. Tạo được mối quan hệ tốt như vậy giữa các đơn vị và các nguồn hàng kịp thời và có chất lượng là một sự thành công chắc chắn. Mặc dù vậy, tạo được nguồn hàng kịp thời và có chất lượng theo những phương pháp được đề xuất ở trên rất phù hợp cho các hợp đồng xuất khẩu vừa và nhỏ của các đơn vị, còn đối với các hợp đồng lớn? Những hợp đồng mà khả năng đáp ứng về vốn vượt ra ngoài khả năng huy động vốn của các đơn vị Trong trường hợp này, các đơn vị không thể tập trung đủ hàng cho hợp đồng, bởi lẽ các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ qui mô thườn rất nhỏ, tư bản ít, họ không có khả năng bán chịu để giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài hay để được hưởng các mức giá cao hơn. Hoạt động kinh doanh trong mấy năm qua, các đơn vị đã bỏ lỡ một số cơ hội có được hợp đồng kinh doanh có giá trị lớn, có khách hàng mới với nguyên do là không đủ năng lực thực hiện hợp đồng. Do vậy, trong thời gian tới để tăng cường hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình, đồng thời tạo dựng quan hệ làm ăn tốt với các chân hàng các đơn vị cần phải mở rộng liên doanh liên kết với các đơn vị khác trong cùng ngành. Cụ thể của mối quan hệ này là các đơn vị sẽ giao một phần của hợp đồng mà tự mình không thể thực hiện được cho đơn vị liên kết, ngược lại công ty sẽ được thực hiện một phần hợp đồng của các đơn vị liên kết khi họ cũng không thể tự mình gánh vác mà thu lãi. Mối quan hệ này phải được thực hiện với các điều kiện các bên cùng có lợi cho từng hợp đồng liên kết thực hiện, đó thực sự là nền tảng của sự hợp tác hữu hảo và bền vững. Như vậy với sự liên doanh liên kết này có thể phát huy được lợi thế của các bên, khắc phục được tình trạng khi thừa khi thiếu năng lực kinh doanh xuất khẩu của các đơn vị như hiện nay. 4. Duy trì, củng cố quan hệ làm ăn với bạn hàng cũ và tìm kiếm bạn hàng mới. Trong quá trình kinh doanh, việc thực hiện một số hợp đồng với các điều kiện về cơ bản là tương đương nhau, chỉ khác một phần là một chủ thể của hợp đồng là khác nhau mà kết quả là khác nhau, nhiều khi lại trái ngược. Có hợp đồng được thực hiện rất thuận lợi, có hợp đồng gặp rắc rối, phải huỷ bỏ, có khi phải thưa kiện cũng chỉ khác nhau về đối tác thực hiện. Vấn đề bạn hàng thực sự có được là rất khó khăn, còn giữ được bạn hàng lại khó hơn nhiều. Để chiến thắng trong cạnh tranh, cần thiết có sự nỗ lực vươn lên trên đối thủ cạnh tranh và hợp tác chặt chẽ với các bạn hàng. Muốn giữ được bạn hàng trong quan hệ làm ăn lâu dài, các đơn vị cần tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản sau: - Cần thiết có sự tin tưởng lẫn nhau, việc thận trọng trong quan hệ là tốt nhưng không qúa đa nghi. Sự tin tưởng sẽ đảm bảo quan hệ có thể phát triển tốt, nếu như đồng thời ta biết sử sự hợp lý trong quan hệ lợi ích kinh tế. - Nền tảng của quan hệ kinh tế vững bền là sự hoà đồng về lợi ích kinh tế. Nói như vậy nhưng không phải là khẳng định rằng tình cảm, sự hiểu biết lẫn nhau, tin tưởng lẫn nhau… là không quan trọng. - Trong mối quan hệ cần giữ chữ “tín”, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua chữ tín của các đơn vị trên thương trường. Nếu chúng ta bỏ qua chữ “tín” thì đồng nghĩa với việc bỏ đi bạn hàng và lợi ích kinh tế lâu dài mà nó lại là mục đích hoạt động cuả các đơn vị. Việc mở rộng quan hệ với bạn hàng mới để tránh rủi ro khi làm ăn với họ, trước khi có thể kí kết hợp đồng các đơn vị phải khảo sát và lắm thật rõ về bạn hàng với các đặc điểm sau: - Loại hình doanh nghiệp từ đó ta sẽ biết được phương thức hoạt động của doanh nghiệp. Ai là người chịu trách nhiệm trước hoật động kinh doanh của doanh nghiệp và đặc biệt trong quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp mình. - Sự nổi tiếng của họ như thế nào?. Xem xét trên các khía cạnh về vốn, cơ sở vật chất, khả năng kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng tín dụng. - Hình thức kinh doanh hợp tác với ta có thuộc hình thức kinh doanh chủ yếu của họ không? - Xem xét hiệu quả, quy mô của mối quan hệ so với khả năng của họ và của ta. 5. Ký kết hợp đồng chặt chẽ. Trong thực tiễn kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ các điều khoản của hợp đồng thương mại quốc tế được soạn thảo với sự tham khảo của nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu là thực tiễn hợp đồng thương mại quốc tế, theo cách mà việc buôn bán thông thường được thực hiện mà không tham chiếu tới bất cứ một hệ thống pháp luật cụ thể nào và hệ thống luật quốc gia trong khi việc xuất khẩu của các đơn vị lại đang gắng vươn đến nhiều thị trường khác nhau. Một số hợp đồng đã không được đối tác thực hiện nghiêm túc như trong hợp đồng theo quan điểm của các đơn vị khi kí kết. Một số khác bị thất bại do một trong vài nguyên nhân liệt kê dưới đây. Trong kinh doanh xuất khẩu, các đơn vị kinh doanh cố gắng kí kết theo sự hướng dẫn của ICC (phòng thương mại quốc tế). Vì các hợp đồng mua bán quốc tế của ICC ngày càng phổ thông hơn, đặc biệt áp dụng rất tốt cho hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường như hàng thủ công mỹ nghệ, dựa trên cơ sở trong mua bán quốc tế chủ yếu đều áp dụng một trong các điều kiện của Incoterm, sử dụng thư tín dụng cũng theo thông lệ thống nhất của ICC, đặc biệt hợp đồng mẫu của ICC được tham khảo với nhiều hệ thống luật khác nhau trên khắp thế giới. Khi kí kết hợp đồng mua bán quốc tế các đơn vị nên dựa trên hợp đồng mẫu của ICC cùng với tham khảo luật pháp và tập quán của từng thị trường cụ thể như trong phần bình luật của hợp đồng mẫu kết hợp với tìm hiểu bên ngoài, đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện nghiêm túc. Sau đây là một số sai sót thường gặp mà các đơn vị cần phải tránh khi kí kết hợp đồng ngoại thương. - Choáng ngợp bởi quy mô hợp đồng mà không thấy hết được những bất lợi có thể sẽ gặp phải trong quá trình thực hiện hợp đồng sau này. - Không tìm hiểu kĩ đối tác dẫn đến những hợp đồng thiếu giá trị pháp lý do kí kết với đối tác không đủ năng lực pháp luật, hay dẫn đến những sai sót đáng tiếc, những nhượng bộ không cần thiết. - Vội vàng trong thoả thuận, đàm phán và kí kết hợp đồng dẫn đến những điều khoản không có lợi cho thực hiện sau này như tăng chi phí, giao hàng không đúng thời hạn, số lượng, chất lượng. - Bị đối phương lừa trong kí kết hợp đồng đây xem ra là một lỗi rất không đáng có nhưng lại phổ biến trong kinh doanh thương mại quốc tế ngày nay. - Không chú ý đúng mức đến sự khác nhau trong tập quán buôn bán quôc tế dẫn đến những sai lầm do hiêủ lầm, gây ra những tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng sau này, làm mất quan hệ làm ăn lâu dài. Để ký kết được một hợp đồng chắc chắn và có lợi, các đơn vị cần phải cử ra nhóm đại diện để đàm phán có năng lực, tài giỏi, nhất là đối với các cuộc giao dịch lớn. Các nhân viên đàm phán cần thông thạo các lĩnh vực như thương vụ, pháp luật và tài vụ, họ phải nắm kỹ xảo đàm phán, giỏi ứng chiến và ứng biến, đồng thời biết thống nhất ý kiến, vì có các nhân viên đàm phán có trình độ cao là mấu chốt đảm bảo cho đàm phán thành công. 6. Quản lý chặt chẽ trong khâu thanh toán: Quản lý khâu thanh toán là vấn đề quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế. Các đơn vị cũng như nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam đều nhận thấy sự phức tạp trong khâu này và trong thực tế đây cũng là khâu thường xuyên xảy ra tranh chấp. Hậu quả là các cuộc thưa kiện kéo dài tốn kém và các nhà xuất khẩu thường phải chịu thiệt thòi. Hiện nay, chúng ta hầu như áp dụng phương thức thanh toán L/C cho hoạt động xuất khẩu, đây là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu cho khâu này, các đơn vị phải tổ chức tốt cho khâu này từ khi kí kết hợp đồng, qúa trình thực hiện hợp đồng đến cả sau khi thực hiện hợp đồng. Các rủi ro thanh toán thường gặp mà các đơn vị cần phải tránh, đặc biệt cho thực hiện hợp đồng với khách hàng có quan hệ làm ăn lâu dài, đó là: - Rủi ro biến động tỷ giá bất lợi, đồng tiền thanh toán bị mất giá. - Rủi ro từ phía ngân hàng phát hành L/C không có uy tín trong thanh toán, dẫn đến không giữ đúng cam kết thanh toán của ngân hàng đã ghi trong L/C đối với các đơn vị - Rủi ro xuất phát từ nguồn gốc là do không thực hiện đúng các điều kiện ghi trong L/C có các nội dung cơ bản như sau: thời hạn giao hàng chậm so với qui định trong L/C, chuyên chở hàng hoá không đúng qui định của L/C, cơ cấu mặt hàng không phù hợp nội dung L/C. - Rủi ro thanh toán hình thức hoặc nội dung chứng từ không phù hợp với L/C. - Một số rủi ro khác. Để tránh các rủi ro trên, nâng cao hiệu quả công tác thanh toán quốc tế, các đơn vị nên thực hiện quản lý khâu thanh toán theo cách thức sau: - Trước khi kí kết hợp đồng vẫn tìm hiểu bạn hàng là ai? Nắm bắt thiện chí, nhu cầu nhập khẩu của họ tránh sự lừa đảo đáng tiếc xảy ra. - Tránh sự biến động tỷ giá về đồng tiền thanh toán bị mất giá do từ khi kí đến thời điểm thanh toán thường rất dài, đảm bảo giá trị hợp đồng thu về bằng cách thêm vào các điều khoản bảo đảm tỷ giá ngay khi kí kết hợp đồng, có thể bằng cách bảo đảm sau: + Bảo đảm bằng vàng. + Bảo đảm bằng đồng tiền có giá trị ổn định. + Bảo đảm theo rổ tiền tệ. - Yêu cầu ngay trong hợp đồng chi tiết quan trọng trong nội dung L/C như chỉ định ngân hàng thanh toán, ngân hàng thông báo sao cho đơn vị nắm chắc được quyền hưởng lợi L/C và những nghĩa vụ ràng buộc. - Luôn cẩn thận với L/C do ngân hàng phát hành gửi đến, phân tích kỹ từng nội dung nhỏ của L/C nhận được, không nên chỉ quan tâm đến nội dung chủ yếu mà bỏ qua chi tiết nhỏ thực tế lại rất quan trọng trong thanh toán. Việc xem xét các chi tiết ấy phải được tiến hành chủ động tích cực, Sự phù hợp giữa L/C và hợp đồng, khả năng thực hiện và ý đồ của người nhập khẩu. - Nếu gặp khó khăn trong thời hạn giao hàng, thời hạn xuất trình chứng từ và các chứng từ thanh toán các đơn vị cần phải kiên quyết yêu cầu điều chỉnh L/C cho phù hợp. - Phải hết sức cố gắng để có bộ chứng từ hoàn hảo theo đúng yêu cầu của L/C từng chi tiết nhỏ nhặt nhất phải phù hợp với luật lệ điều tiết của L/C trong thời hạn hiệu lực của L/C. - Nếu cần thiết thì sử dụng cố vấn của ngân hàng để đạt được chứng từ hoàn hảo, nên tôn trọng những lời khuyên của ngân hàng. 7. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu. Nếu các đơn vị huy động vốn được nhiều hơn như hiện nay, điều chắc chắn rằng kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thu lại được nhiều lợi nhuận, sức cạnh tranh lớn. Do vậy các đơn vị phải huy động từ mọi nguồn có thể được và phải sử dụng có hiệu quả. Nguồn vốn mà các đơn vị có thể huy động là từ các ngân hàng, các đơn vị các tổ chức khác và vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty. Muốn sử dụng có hiệu quả các đơn vị cần giải quyết tốt các công việc như thu hồi công nợ, giải phóng hàng tồn kho, chống phát sinh công nợ mới và hàng tồn kho mới. Đầu tư có trọng điểm vào những hoạt động có khả năng mang lại hiệu quả và thu hồi vốn nhanh. Cùng với việc sử dụng vốn có hiệu quả là tiết kiệm chi tiêu, giảm chi phí hành chính, phí kinh doanh, tập trung vốn cho kinh doanh. B. Về phía Nhà nước 1. Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ Với hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện hành, thì trong sản xuất kinh doanh nội địa các dự án đầu tư sản xuất - kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống được ưu đãi ở mức cao hơn các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác không thuộc các ngành nghề truyền thống. Nhưng trong trường hợp xuất khẩu (nếu xuất khẩu đạt giá trị trên 30% giá trị hàng hoá sản xuất kinh doanh của Các doanh nghiệp) thì mức ưu đãi không có gì khác biệt giữa hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề truyền thống và các hàng hoá xuất khẩu khác. Vì vậy đề nghị: hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống theo quy định (thuộc diện khuyến khích, ưu đãi trong danh mục A). Trong trường hợp có xuất khẩu trên 30% giá trị hàng của đơn vị sản xuất - kinh doanh (đây cũng là một nội dung được ưu đãi trong danh mục A) tức là đạt hai nội dung được ưu đãi quy định trong danh mục A, thì cho hưởng mức ưu đãi cao hơn, cụ thể là cho hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, thí dụ: + Dự án sản xuất kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề truyền thống (thuộc danh mục A), có sử dụng nhiều lao động, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm và giảm 50% cho 4 năm tiếp theo. + Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30%(tức là đạt một nội dung khác của danh mục A), thì được hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, tức là miễn ba năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50 % cho 5 năm tiếp theo. 2. Sửa đổi bổ xung các quy định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãi: a. Theo nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29 /6/1999 của chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Thì chỉ những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn (trong đó có các dự án sản xuất hàng xuất khẩu đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động) mới được vay vốn từ quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước. Vì vậy, đề nghị chính phủ mở rộng thêm việc cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã được quy định trong danh mục A không kể là các dự án đầu tư tại vùng nào, đồng thời các dự án này được áp dụng chính sách “ Hỗ trợ lãi xuất sau đầu tư theo quy định tại nghị định 43 nêu trên, hoặc được quỹ này bảo lãnh tín dụng đầu tư. Trường hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thì còn có thể được quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. b. Chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có đói với các làng nghề truyền thống ( theo luật khuyến khích đầu tư trong nước): Là áp dụng cho các dự án đầu tư thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Thực trạng hiện nay là các đơn vị sản xuất - kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn, không vay được vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức sản xuất kinh doanh (mua nguyên vật liệu để sản xuất hoặc mua sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu). Vì vậy, để khuyến khích khai thác các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có tăng nguồn hàng cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hợp đồng xuất khẩu đạt mức 50.000 USD trở nên đề nghị chính phủ cho hưởng các ưu đãi về vốn kinh doanh như sau: - Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất kinh doanh theo hợp đồng đã ký. - Sau khi thực hiện hợp đồng, được quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo qui định tại nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999, tức là hỗ trợ 50% lãi suắt trên số vốn thực tế đã vay của ngân hàng. - Đồng thời, các nhà sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu cũng được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp qui định tại điều 27 nghị định 51/1999/NĐ - CP ngày 08/7/1999 của chính phủ qui định chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước ( sửa đổi), tức là các ưu đãi bổ sung về thuế đối với các nhà đầu tư sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu. 3. Chính sách đối với các làng nghề: Nghề thủ công truyền thống của Việt Nam được duy trì và phát triển chủ yếu là nhờ ở các làng nghề. Trong cả nước có đến hàng nghìn làng nghề. Riêng các tỉnh đông bằng Sông Hồng mỗi nơi có hàng trăm làng nghề: Hải Dương, Hưng Yên,... Nam Định, Hà Nam có trên 200 làng nghề Hà Tây,Thái Bình mỗi nơi có gần 100. Bắc Ninh gần 60 làng nghề. Có những làng nghề tồn tại và phát triển hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm nay (nghề gốm Bát Tràng có từ 500năm, nghề kim hoàn: 1400 năm, nghề tơ lụa Hà Đông: 1700 năm). Theo một số tài liệu nghiên cứu thì ở Việt Nam có đến 52 nhóm nghề thủ công truyền thống.Trong qúa trình phát triển, nhất là trong những năm gần đây hoạt động theo cơ chế thị trường, các làng nghề đã phân hoá rõ rệt: một số làng nghề phát triển mạnh và có sự lan toả sang các vùng xung quanh (như nghề gốm, chạm khảm, chế biến gỗ, mây tre), một số làng nghề phát triển cầm chừng, không ổn định( nghề đồ sành, đúc đồng,...), có những làng nghề gặp nhiều khó khăn ít có cơ hội phát triển (nghề giấy dó, gò đồng, đệt thổ cẩm,...), đồng thời có những làng nghề đang trong quá trình suy vong và có khả năng mất đi( như nghề giấy sắc, tranh dân gian, dệt quai thao,...). Trong quá trình phát triển, những làng nghề có điều kiện và cơ hội phát triển nhanh đều gặp một số khó khăn như thiếu vốn hoạt động, cơ sở hạ tầng yếu kém, ô nhiễm môi trường và hiện nay có nơi vấn đề cơ sở hạ tầng và môi trường đặt ra rất gay gắt, bức xúc, như ở làng gốm Bát Tràng, làng giấy, làng sắt ở Bắc Ninh,... Để các ngành nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh. Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, chủ yếu tập trung trên các mặt sau: a. Đối tượng được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước: Các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh được thành lập theo pháp luật. Vì vậy, các làng nghề phải thông qua các đơn vị sản xuất kinh doanh của mình để tranh thủ khai thác các chính sách khuyến khích ưu đãi hiện hành của Nhà nước cũng như các chính sách sẽ được ban hành trong tương lai. Hiện nay tại các làng nghề các đơn vị sản xuất kinh doanh đăng ký hoạt động dưới nhiều hình thức tổ chức: doanh nghiệp Nhà nước, công ty - doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã hoặc cá nhân - nhóm kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT) ngày 02/3/1992( tại làng gốm Bát Tràng có 15 doanh nghiệp, công ty, hợp tác xã và khoảng 1000 hộ sản xuất kinh doanh). Như vậy, trước hết cần phổ biến, hướng dẫn cho các nhà sản xuất kinh doanh trng làng nghề đăng ký hoạt động theo đúng pháp luật, hiểu biết các chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có hoặc sẽ được Nhà nước ban hành. Chính sách hỗ trợ ưu đãi của Nhà nước đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công truyền thống mà chủ yếu trong chính sách của Nhà nước đối với các làng nghề. b. Mặt khác, làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn vị tổ chức làm ăn có tính phường hội: Cần được sự hỗ trợ của Nhà nước để xử lý một số vấn đề như cơ sở hạ tầng, môi trường... đối với toàn bộ làng nghề. Để xử lý các vấn đề nêu trên, vừa phải tổ chức, động viên” nội lực” của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong làng nghề, vừa cần có chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tương tự như việc Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào của các khu công nghiệp (ở các khu công nghiệp, Nhà nước đảm bảo đầu tư 100%). Từ đó đề nghị chính phủ cho thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, bến bãi, đường dây tải điện...), dự án xử lý các vấn đề về môi trường... Tại khu vực làng nghề, cụ thể là Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để thực hiện các dự án đầu tư cho làng nghề được duyệt hàng năm với mức không thấp hơn 50% tổng số thu vào ngân sách từ làng nghề trong năm trước. Các làng nghề có xuất khẩu trên 30% giá trị sản lượng hàng hoá của làng nghề thì được uỷ bang nhân dân tỉnh thành phố xem xét xét duyệt các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực nêu trên thao quy định của chính phủ và đưa vào dự án ngân sách của tỉnh, thành phố để được cấp vốn theo quy định hiện hành. 4. Chính sách đối với các nghệ nhân. Nghệ nhân, thợ cả có vai trò rất lớn đối với nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân thì không có làng nghề hoặc ít nhất cũng không thể có làng nghề phát triển, làng nghề lừng danh. Từ đó thấy rằng nghệ nhân, thợ giỏi có vai trò rất tích cực bảo tồn và phát triển ngành nghề cũng như làng nghề. Vì vậy muốn duy trì và phát triển ngành nghề truyền thống Nhà nước cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ hỗ trợ, khuyến khích họ phát huy tài năng phát triển ngành nghề, phát triển sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, truyền dạy nghề cho con cháu, đào tạo nghề cho lao động sản xuất... Ngay trong thời kỳ phong kiến ở nước ta, những nghệ nhân, thợ giỏi có công sáng tạo các sản phẩm tinh xảo, những công trình nghệ thuật, kiến trúc nổi tiếng thường được nhà vua phong các danh hiệu “kỳ tài hầu “, ‘hàn lâm đại chiếu ‘, “cửa phẩm bá hộ “... được thưởng và hậu đãi. Trước đây có thời gian, bộ văn hoá và sau đó là liên hợp xã thủ công nghiệp trung ương có hướng dẫn việc tổ chức xét phong tặng danh hiệu “ nghệ nhân” và thưởng huy chương “ Bàn tay vàng” cho những nghệ nhân, thợ giỏi. Hiện nay tại Hà Nội có “ Câu lạc bộ nghệ nhân” do các nghệ nhân tự nguyện thành lập để sinh hoạt trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, thăm viếng động viên nhau hoạt động, có khoảng 100 nghệ nhân tham gia, nhưng không được ai hỗ trợ, đỡ đầu nên nội dung sinh hoạt còn nghèo, hiệu quả chưa cao. Từ tình hình trên, đề nghị chính phủ có chính sách và bán hành quy chế chính thức của Nhà nước về phonh tặng danh hiệu “nghệ nhân” và giải thưởng “Bàn tay vàng” hoặc huy chương “Đôi bàn tay vàng” kèm theo giải thưởng cho các nghệ nhân, thợ giỏi đạt tiêu chuẩn quy định. Tiêu chuẩn để được phong tặng danh hiệu “nghệ nhân” cụ thể là: + Trước hết phải là thợ giỏi, có tay nghề cao, điêu luyện với thủ pháp nghệ thuật, kỹ xảo riêng tạo ra những sản phẩm tinh xảo độc đáo, được đồng nghiệp thừa nhận và suy tôn về trình độ tay nghề. + Có nhiều thành tích trong sản xuất sáng tạo với các sản phẩm có giá trị nghệ thuật được xã hội công nhận” được giải thưởng trong các cuộc thi, triển lãm, sản phẩm được đặt trong các bảo tàng, công trình văn hoá” hoặc sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao “ sản xuất với khối lược lớn cho tiêu dùng và xuất khẩu, tạo nhiều việc làm.. Có sáng kiến cải tiến kĩ thuật sản xuất trong nghề, như sử dụng nguyên liệu mới, cải tiến công cụ làm nghề, cải tiến thao tác kĩ thuật, có hiệu quả trong lao động - sản xuất. + Có thành tích truyền nghề, dạy nghề “ Kể cả việc truyền nghề cho con cháu trong gia đình, họ tộc”, tích cực tham gia sửa chữa, phục chế các sản phẩm, công trình văn hoá, xây dựng công trình văn hoá theo yêu cầu của Nhà nước. Việc xét thưởng và phong tặng dánh hiệu nghệ nhân theo quy chế do một hội đồng ở trung ương thực hiện, có đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành thm gia, hoặc chính phủ uỷ quyền cho uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập hội đồng xét duyệt theo quy chế chung. Chính sách đối xử với nghệ nhân, thợ giỏi được thực hiện tốt là một đảm bảo duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc. 5. Chính sách đào tạo thợ thủ công truyền thống: Thợ thủ công trong các ngành nghề truyền thống thường không học nghề trong các trường lớp như các ngành nghề khác mà chủ yếu được các nghệ nhân, thợ gỏi truyền dạy nghề theo phương pháp “Cầm tay chỉ việc”, “Vừa làm vừa học” tại các làng nghề, trong đó có những thủ pháp kỹ thuật, nghệ thuật, bí quyết nhà nghề thường các nghệ nhân, thợ cả chỉ truyền dạy cho con cháu từ đời này đến đời sau, không dễ gì lộ ra ngoài, họ giữ gìn các bí quyết đó với ý thức đầy đủ và cẩn trọng. Trong các lĩnh vực khác thường được Nhà nước đầu tư xây dựng các trương dạy nghề, vậy Nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ đào tạo thợ thủ công trong các ngành nghề truyền thống phù hợp với đặc điểm như trên. Để thực hiện yêu cầu này có thể áp dụng các chính sách - biện pháp sau: - Mở một số trường mỹ thuật thực hành ở một số nơi có nhu cầu hoặc mở thêm khoa mỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng mỹ thuật hiện có để đào tạo thợ phổ thông theo phương thức vừa học vừa liên doanh sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất nhất là những cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu. Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí và những cơ sở sản xuất có lao động vừa học vừa làm đóng góp một phần. Chi phí Nhà nước hỗ trợ chủ yếu sử dụng để trang trải các chi phí về giảng dạy như mời giảng viên và nghệ nhân giảng bài hướng dẫn thực hành, các chi phí thí nghiệm (nếu có).. Trước đây, thời pháp thuộc ở một số nơi cũng có trường mỹ thuật thực hành như trưòng mỹ thuật thực hành Biên hoà. Khi đó các hoạ sĩ và thợ kỹ thuật được đào tạo khá bài bản đã góp phần quan trọng phát triển nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật trang trí, mỹ thuật ứng dụng ở nước ta, kế thừa và cách tân nghệ thuật thủ công truyền thống của dân tộc Nếu không mở trường, khoa, lớp như nêu trên thì Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí từ quỹ hỗ trợ và việc làm để các cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ chức việc đào tạo nghề. Kinh phí hỗ trợ được thực hiện theo dự án đào tạo hoặc theo kết quả đào tạo nghề do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xét duyệt. - Việc đào tạo nghệ nhân, thợ giỏi cần được Nhà nước hỗ trợ theo cách khác, cụ thể là: + Những người đã được phong danh hiệu nghệ nhân hoặc những thợ giỏi đạt trình độ xấp xỉ nghệ nhân do địa phương đề nghị, được Nhà nước hỗ trợ cho học các lớp bồi dưỡng kiến thức về hội hoạ, mỹ thuật tại các trường cao đẳng theo chế độ miễn phí. + Nghệ nhân nào có thành tích đào tạo thành công một nghệ nhân khác nối nghiệp mình hoặc đào tạo thành công một thợ cả thì được Nhà nước cấp bằng khen hoặc trao huy chương” vì sự nghiệp phát triển ngành nghề truyền thống” kèm theo một khoản tiền hỗ trợ chi phí đào tạo dưới dạng một khoản tiền thưởng xứng đáng. + Nhà nước cử nghệ nhân, thợ giỏi ra nước ngoài tham quan khảo sáthọc hỏi nghề nghiệp theo chế độ miễn phí vừa là quyền lợi của nghệ nhân như đã nêu ở phần trên, vừa là một phương thức đào tạo nâng cao trình độ sáng tạo cho nghệ nhân, tạo điều kiện cho nghệ nhân tiếp cận với thị trường ngoài nước. 6. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Do đặc điểm và khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ như đã trình bày ở trên (cơ sở sản xuất kinh doanh các loại hàng này chủ yếu là các đơn vị nhỏ, ít vốn, hàng hoá thường là loại cồng kềnh, giá trị thấp, không dễ bán vàvận chuyển, giao hàng...) nên đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Mặt khác, trong trong mại quốc tế, không có hoặc ít thấy nước nào không dành một phần kinh phí nhất định của ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại nhất là cho việc khuyếch trương xuất khẩu. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị Nhà nước hỗ trợ dưới các hình thức sau: * Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài. 50% chi phí còn lại được hỗ trợ nếu trong quá trình hội chở triển lãm đơn vị ký hợp đồng xuất khẩu với gía trị trên 20.000 USD. Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia hội chợ triển lãm quốc tế. * Đề nghị cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại (chủ yếu là khuyếch trương xuất khẩu) tại một số nơi ở nước ngoài tương tự như “Việt Nam square” tại Osaka, Nhật (có thể thêm ở vùng Trung Đông, Pháp, Đức, Nga, Mỹ hoặc Canada, mỗi nơi một trung tâm). Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công mỹ nghệ được miễn phí (vừa qua một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã thấy được tác dụng của trung tâm Osaka trong việc thúc đẩy bán hàng và đề nghị được hỗ trợ chi phí). * Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Trên thế giới hàng năm có rất nhiều lễ hội của các dân tộc, nếu nắm bắt nhu cầu, thiết kế mẫu mã hàng phù hợp nhu cầu của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu niệm,... thì có thể có nhiều loại hàng để bán, nhất là các loại hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm của các đồng bào dân tộc ở nước ta. Vừa qua, một công ty của Hà Nội khi qua Tây Ban Nha đã nắm bắt được nhu cầu và ký hợp đồng xuất 40 container 40 feet mũ lá theo yêu cầu phục vụ lễ hội của họ, vì thời gian còn ngắn nên cả làng nghề “nón chuông“ làm không hết việc, phải thêm 4 làng xung quanh hỗ trợ mà cũng rất vất vả mới hoàn thành lịp thời gian giao hàng. Để có thể triển khai việc xuất khẩu phục vụ các nhu cầu lễ hội và Nôen của các nước trên thế giới như là một trong các mũi nhọn khuyếch trương xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, đề nghị: - ở những nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ tìm hiểu khảo sát nhu cầu phục vụ lễ hội và Nôen tại địa bàn, khi phát hiện nhu cầu và đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu mã hàng chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước xuất khẩu và giao hàng. Chi phí cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hàng hỗ trợ 100%. Nếu ký được hợp đồng có giá trị thì được xét thưởng. - ở những nơi ta chưa có cán bộ thương mại thường trú thì giao cho ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ, triển lãm của bộ nghiên cứu có kế hoạch cử nhóm công tác (gồm hoạ sĩ, nghệ nhân, cán bộ kinh doanh ngành hàng thủ công mỹ nghệ) đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã bán hàng theo cơ chế chính sách đã nêu. * Cho phép các tổ chức, cá nhân được nhận tiền thù lao hoặc tiền hoa hồng môi giới và cho phép các công ty xuất khẩu được trả các khoản tiền này theo mức thoả thuận khi ký và thực hiện được hợp đồng xuất khẩu. * Ngoài ra, theo viện nghiên cứu thuộc liên minh các hợp tác xã Việt Nam cho biết, hội đồng hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế thường có mời nghệ nhân ngành nghề thủ công của các nước tham gia hội thảo, biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Hội bảo trợ thợ thủ công ở Mỹ có chương trình hỗ trợ 10.000 làng nghề của thế giới và thường có mời nghệ nhân của các nước sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Tại Arhentina vào tháng tư hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ, có năm mời đến 700 nghệ nhân của các nước tham gia biểu diễn thao tác nghề, có gian trưng bày miễn phí cho nghệ nhân,... Ta nên có chính sách khai thác các hoạt động quốc tế này mở rộng phát triển ngành nghề truyền thống của ta phục vụ đẩy mạnh xuất khẩu. Tuỳ theo trường hợp cần thiết Nhà nước hỗ trợ chi phí cho các nghệ nhân của ta tham gia các hoạt động này, kết hợp với việc giới thiệu mẫu mã hàng của ta, nghệ nhân có thể chào bán ký hợp đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các công ty sản xuất kinh doanh ở trong nước và nghệ nhân được hưởng thù lao hoặc hoa hồng theo kết quả chào bán và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu ký được thông qua các hoạt động này. 7. Mở rộng phương thức bán hàng xuất khẩu: Hàng thủ công mỹ nghệ thường chỉ bán được theo từng lô nhỏ, hợp đồng nhỏ, nhiều khách hàng nước ngoài muốn mua những lô hàng nhỏ để bán thử nghiệm mở rộng thị trường, không muốn mua theo phương thức trả tiền ngay... Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu các loại hàng này theo phương thức bán hàng trả chậm, phương thức gửi bán hoậc đại lý bán hàng ở nước ngoài, có sự bảo lãnh tín dụng xuất khẩu của ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Đề nghị chính phủ giao cho ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các ngân hàng thương mại thực hiện việc ưu đãi về lãi suất và kéo dài thời gian cho vay vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo các phương thức đã nêu. Trong trường hợp cần thiết, đề nghị các ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu bảo lãnh tín dụng xuất khẩu theo các phương thức nêu trên nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp yên tâm mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong thời kỳ trước năm 1990, có thời gian các doanh nghiệp của ta đã thực hiện phương thức gửi bán hàng tại thị trường Nhật Bản. Kết luận Chủ trương của Đảng và nhà nước ta coi xuất khẩu là mũi nhọn để phát triển nền kinh tế một cách cơ bản. Đẩy mạnh xuất khẩu nghĩa là tạo động lực cho công nghiệp hoá đất nước, cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế mở. Đẩy mạnh xuất khẩu là nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút lực lượng lao động tạo nguồn vốn để nhập khẩu, tranh thủ công nghệ, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam trong những năm qua phát triển khá mạnh mẽ đã khẳng định vị trí của ngành hàng ngày trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay thị trường hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới cũng như trong nước luôn biến động và tình hình cung cầu không ổn định. Tuy vậy, với xu thế như hiện nay thì trong những năm tới Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển ngành nghề này. Xong để đạt được những mục tiêu đề ra cho ngành thủ công mỹ nghệ từ nay đến năm 2010, ngành hàng này sẽ còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, từ những vấn đề tồn tại trong sản xuất, xuất khẩu đến những khó khăn từ phía thị trường nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Đề tài “Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam thời kỳ 2001-2010” với một số chính sách, giải pháp chủ yếu hy vọng phần nào tháo gỡ được vướng mắc hiện nay đang còn tồn tại trong khâu tổ chức, quản lý sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, khuyến khích hộ đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu gắn liền với nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đặc biệt là hiệu quả xuất khẩu, đưa hàng thủ công mỹ nghệ lên vị trí cao hơn nữa, xứng đáng với tiềm năng vốn có của nó. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa, đặc biệt là GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng và các cô bác, anh chị ở Vụ kế hoạch thống kê Bộ Thương mại, đặc biệt là TS Hoàng Thịnh Lâm đã tạo điều kiện giúp đỡ em đã hoàn thiện xuất sắc chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế học quốc tế : ĐH KTQT 2. Giáo trình Kinh tế học quốc tế : ĐH TM 3. Giáo trình chính sách kinh tế đối ngoại : ĐH KTQT 4. Dự thảo lần thứ tư “Đề án: Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam” tháng 2 năm 2000 5. Tạp chí TM : Số 16 năm 2000 Số 23 năm 2000 6. Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 - qui định chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu tư 7. Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 – của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển 8. Niên giám thống kê 1999 (Nhà xuất bản Thống kê) Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0454.doc
Tài liệu liên quan