Khai thác nguồn lực văn hóa trong phát triển du lịch di sản dựa vào sự tham gia của cộng đồng (Nghiên cứu trường hợp tại tháp Po Ina Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa)

Sự gia tăng của du lịch đại chúng tác động lên kinh tế - xã hội và văn hóa mang đến lợi ích song cũng hàm chứa ảnh hưởng tiêu cực. Trong bối cảnh phát triển du lịch di sản của tháp Po Ina Nagar, khai thác nguồn lực văn hóa, xây dựng sản phẩm du lịch vừa là giải pháp tăng sức hút của điểm đến đồng thời là cơ hội để bảo tồn văn hóa. Tuy nhiên, quá trình này cần thiết phải đảm bảo sự tham gia của cộng đồng, trao đổi ý kiến và trình diễn nghi lễ. Nhu cầu trải nghiệm của du khách không chỉ đến từ phong cảnh, kiến trúc mà còn đến từ hoạt động nghi lễ, lễ hội hoặc những diễn xướng dân gian truyền thống giàu tính nghệ thuật. Nghiên cứu này cũng cho thấy xu hướng xây dựng sản phẩm du lịch gắn liền với trình diễn văn hóa của cộng đồng địa phương, đồng thời hạn chế hoạt động nghệ thuật dàn dựng mà để cho diễn xướng, nghi lễ, lễ hội, hành hương diễn ra chân thật. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng gợi mở về cách thức gia tăng sự tham gia của cộng đồng địa phương trong bảo tồn văn hóa truyền thống. Sự tham gia là vấn đề quan trọng bậc nhất trong khai thác văn hóa phát triển du lịch hiện nay. Nghiên cứu này đề xuất giải pháp đối với quá trình tham gia khai thác nguồn lực văn hóa gồm ba giai đoạn như sau: 1) xác định mức độ tham gia của cộng đồng; 2) xây dựng cơ chế hợp tác; 3) đóng góp vào quá trình ra quyết định theo mức độ tham gia. Qua đó cung cấp góc nhìn mới về việc khai thác văn hóa trong mối tương tác với nhiều bên tham gia khác nhau, trong đó cộng đồng phải trở thành một bên tham gia/liên quan như các bên tham khác. Từ quá trình tái hiện tính chân thực trong thực hành thờ cúng cho đến sản phẩm du lịch, cộng đồng là tác nhân quan trọng nhất để thúc đẩy sự trải nghiệm của du khách, nhờ đó củng cố và bảo vệ nguồn lực văn hóa. Nghiên cứu này cũng gợi mở một số khả năng mới trong hợp tác song phương hoặc đa phương giữa nhà quản lý với các đối tượng khác thông qua sự thành công của sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, sự phát triển du lịch tại một không gian tín ngưỡng tôn giáo chỉ là hoạt động có tính chất phụ trợ, yếu tố chính vẫn là thực hành thờ cúng và sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng. Việc phát triển du lịch chỉ là một yếu tố để tạo nên môi trường trao đổi, chia sẻ liên văn hóa và tạo động lực thúc đẩy sự hợp tác giữa cộng đồng với nhà nghiên cứu, quản lý và một số bên tham gia khác.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khai thác nguồn lực văn hóa trong phát triển du lịch di sản dựa vào sự tham gia của cộng đồng (Nghiên cứu trường hợp tại tháp Po Ina Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46 Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 Khai thác nguồn lực văn hóa trong phát triển du lịch di sản dựa vào sự tham gia của cộng đồng (Nghiên cứu trường hợp tại tháp Po Ina Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa) Nguyễn Thị Thanh Xuyên1* 1Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ *Tác giả liên hệ, Email: xuyenthanh27@gmail.com THÔNG TIN TÓM TẮT Ngày nhận: 25/05/2020 Ngày nhận lại: 21/07/2020 Duyệt đăng: 23/08/2020 Từ khóa: du lịch dựa vào cộng đồng, nghi lễ/lễ hội, nguồn lực văn hóa, sản phẩm du lịch, tháp Po Ina Nagar Keywords: community – based tourism, cultural resources, cultural product, Po Ina Nagar tower, ritual/festival Khai thác sản phẩm du lịch tại một số địa điểm di sản là xu hướng mới trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Bên cạnh một số lợi thế của điểm đến như giá trị lịch sử, kiến trúc thì sức hút của điểm đến di sản còn liên quan trực tiếp đến chiến lược xây dựng sản phẩm du lịch từ nghi lễ diễn xướng dân gian. Nghiên cứu trường hợp tại tháp Po Ina Nagar (thành phố Nha Trang) với mục đích tìm hiểu nguồn lực văn hóa và sản phẩm du lịch đã được tái tạo, xây dựng trong quá trình phát triển du lịch thông qua phương pháp nghiên cứu của ngành Nhân học là quan sát tham gia và phỏng vấn sâu có chủ đích. Phát hiện chính bao gồm hai nội dung như sau: nghi lễ, lễ hội và diễn xướng dân gian là một trong những nguồn lực văn hóa phát triển du lịch; xây dựng sản phẩm du lịch bền vững và hiệu quả dựa trên sự tham gia của cộng đồng địa phương và tộc người. Hàm ý thực tiễn của nghiên cứu là đóng góp quan điểm phát triển du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng nhằm đảm bảo tính bền vững và cân bằng trong mối quan hệ giữa kinh tế du lịch và văn hóa. ABSTRACT The exploiting cultural products is a new trend of community- based tourism development at some heritages. The attraction of heritage tourism is not only historical, architecture values but also tourism products based on folk performing and ceremonies. The cultural practices of the community spread traditional cultural values for visitor experiences. This is a case study at Po Ina Nagar (Nhatrang city, Khanh Hoa province, Vietnam). The research purpose is identifying cultural resources and tourism products constructed during tourism development by qualitative methodology is participant observation and in-depth interview. The main findings are as follows: festivals and folk performances are one of the cultural resources for tourism development; building sustainable and effective tourism products based on participation communities. The practical implication contributes to a policy recommendation for community-based tourism development to ensure sustainability and balance the relationship between tourism and culture. Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 47 1. Giới thiệu Trong nhiều năm gần đây, sự phát triển du lịch đã lan tỏa đến không gian di sản, trình diễn nghi lễ, lễ hội như tại một số địa điểm tín ngưỡng của cộng đồng, chẳng hạn như điện Hòn Chén (Huế), tháp Po Ina Nagar (Nha Trang), miếu bà Chúa Xứ (Châu Đốc, An Giang). Những di tích này vừa là địa điểm hành hương đồng thời là điểm đến du lịch di sản có sức hút đối với du khách trong và ngoài nước. Quá trình phát triển du lịch di sản diễn ra cùng với sự hồi sinh thực hành văn hóa tín ngưỡng dân gian, trong đó tục thờ nữ thần, là một khía cạnh nổi bật của sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và trọng tâm của động thái kiến tạo văn hóa truyền thống. Quá trình biến đổi văn hóa trở thành nguồn lực phát triển du lịch thể hiện sự vận dụng giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện đại hóa. Trong đó, nguồn lực văn hóa gắn liền với chiến lược phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, tôn trọng tính chân thực của văn hóa truyền thống, trao quyền cho cộng đồng để đi đến mức độ tham gia sâu sắc hơn (Theodossopoulos, 2010; Okazaki, 2008). Do vậy, du lịch di sản thể hiện tính tương thích giữa nhu cầu trải nghiệm của du khách với khả năng đáp ứng văn hóa của cộng đồng theo theo hướng gia tăng sự tham gia và trình diễn văn hóa của cộng đồng. Nghiên cứu này đặt trong bối cảnh khai thác phát triển du lịch tại tháp Po Ina Nagar (thành phố Nha Trang) với sức hút từ hoạt động nghi lễ, lễ hội và sản phẩm du lịch được xây dựng trên nền tảng nghi lễ diễn xướng dân gian của cộng đồng. Phạm vi của nguồn lực văn hóa trong nghiên cứu này là hoạt động nghi lễ/lễ hội và diễn xướng của cộng đồng. Từ đó sáng tỏ vai trò của thực hành văn hóa dân gian trong tăng cường sức hút của điểm đến. Đồng thời nhận diện một số đặc điểm về vai trò tham gia của cộng đồng đối với khai thác và bảo tồn văn hóa truyền thống trước tác động của phát triển du lịch. 2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua điền dã dân tộc học với hai công cụ là quan sát tham gia và phỏng vấn sâu có chủ đích. Quan sát tham gia được tiến hành trong thời gian diễn ra lễ hội và diễn xướng phục vụ du khách nhằm mô tả sản phẩm du lịch và quá trình tham gia của cộng đồng, người trình diễn. Phỏng vấn sâu có chủ đích, bao gồm ban quản lý tháp, đại diện đình, chùa, người Chăm và người Việt hành hương, trình diễn nghi lễ nhằm thu thập ý kiến đa chiều về quá trình xây dựng sản phẩm du lịch, hiệu quả và khả năng phát triển của sản phẩm du lịch trong tương lai. Qua đó nhận diện sự tham gia của cộng đồng và các bên tham gia khác trong khai thác nguồn lực văn hóa. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Bối cảnh lịch sử và nguồn lực phát triển du lịch Tháp Po Ina Nagar (tên thường gọi là Tháp Bà hoặc Tháp Bà Ponagar Nha Trang) tọa lạc tại phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định xếp hạng số 54-VHTT/QĐ ngày 29/4/1979 của Bộ Văn hóa Thông tin. Trước năm 1653, tháp Po Ina Nagar là trung tâm tôn giáo của người Chăm ở xứ Kauthara (thuộc vương quốc Champa) (Maspero, 1928; Parmentier, 1902; Schweyer, 2004). Sau năm 1653, người Việt di cư vào Nha Trang và tiếp quản tháp Po Ina Nagar, tiếp đó cư dân làng Cù Lao tham gia tế cúng tại tháp và đình Cù Lao chịu trác nhiệm tổ chức nghi lễ hằng năm. Cho đến thập niên 1990, thực hành múa bóng thờ cúng nữ thần Thiên Y A Na tại khu vực xóm Bóng vang tiếng một thời là biểu trưng cho tôn giáo tín ngưỡng của đất Nha Trang xưa. Hiện nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích quản lý và tổ chức hoạt động của tháp như bảo tồn, tổ chức nghi lễ/lễ hội dành cho cộng đồng cư dân trong tỉnh và các tỉnh khác thuộc Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, bao gồm người Việt (Kinh) và người Chăm. Diễn trình lịch sử của vùng đất Nha Trang và bối cảnh lịch sử của cư dân tiền trú người Chăm và di dân người Việt đã góp phần soi sáng một phần tính chất thờ cúng của tháp Po Ina 48 Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 Nagar. Thờ cúng của tháp Po Ina Nagar ảnh hưởng Ấn Độ giáo thể hiện qua nữ thần Bhagavati, sau đó tích hợp văn hóa thờ nữ thần bản xứ của người Chăm và người Việt. Quần thể tháp Po Ina Nagar vẫn còn bốn ngôi tháp nguyên vẹn, gồm tháp chính (tháp Đông Bắc), tháp Nam, tháp Đông Nam, tháp Tây Bắc; trong đó ngôi tháp chính thuộc phong cách nghệ thuật chuyển tiếp từ Mỹ Sơn A1 sang phong cách Bình Định, khoảng giữa thế kỉ 11 (Nguyen, 2000). Nữ thần được thờ trong ngôi tháp chính, người Việt gọi là Thiên Y A Na, người Chăm gọi là Po Ina Nagar (thần mẹ xứ sở), đồng thờ cũng là nữ thần Bhagavati của Ấn Độ giáo. Trên cái nhìn tổng thể so sánh với các đền tháp Chăm khác ở miền Trung như khu thánh địa Mỹ Sơn, các tháp Chăm ở một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên (trừ Ninh Thuận và Bình Thuận), thì tại tháp Po Ina Nagar Nha Trang, hoạt động tôn giáo tín ngưỡng vẫn còn diễn ra sôi động, chưa có sự ngắt quãng, đặc biệt cả hai tộc người Kinh và Chăm đều cùng có hoạt động hành hương tín ngưỡng hằng năm vào ngày đại lễ của nữ thần Thiên Y A Na. Ngoài ra, hằng tháng diễn ra nghi lễ cúng vào ngày mồng một và rằm. Trong ngày thường, khách hành hương hoặc cư dân khắp nơi trong hoặc ngoài tỉnh có nhu cầu tín ngưỡng đều có thể vào bái lạy và dâng lễ. Như vậy, so với một số di sản dưới dạng phế tích, thì tháp Po Ina Nagar đã vượt ra khỏi cảm quan về một phế tích của người Chăm để lại mà trở nên sống động hơn, thực sự là một trung tâm thờ cúng tôn giáo với hoạt động hành hương, lễ bái, nghi lễ/lễ hội. Để quản lý và tổ chức nghi lễ/lễ hội, Ban tổ chức nghi lễ gồm đại diện của các bên tham gia khác nhau, như đại diện của cơ quan chức năng, đại diện của đình làng Cù Lao, hào lão người Chăm và người Việt và sư thầy. Ban tổ chức nghi lễ vừa có tính chất quản lý và tổ chức, đồng thời cũng vừa thể hiện tính chất đại diện của các loại hình nghi lễ khác nhau. Trên nền tảng chính là nghi lễ thờ nữ thần của người Chăm (nghi lễ tạ ơn, múa bóng) và thờ nữ thần của người Việt (hầu đồng, múa bóng), là nghi lễ của đình làng (tế thần, hát tuồng), nghi lễ của Phật giáo (cầu an). Sự hình thành hoạt động nghi lễ/lễ hội của tháp Po Ina Nagar hiện nay chịu ảnh hưởng của bốn quá trình chính như sau: Quá trình “Việt hóa” tín ngưỡng thờ thần mẹ xứ sở của người Chăm trở thành Thiên Y A Na của người Việt: quá trình này đã tích hợp biểu tượng thần linh và nghi lễ của người Chăm, trở thành nghi lễ múa bóng của người Việt. Khi làng Cù Lao được thành lập vào năm 1683, đình làng quản lý trực tiếp tháp Po Ina Nagar, nữ thần Thiên Y A Na được thờ cúng bởi nghi thức tế thần của đình làng đồng thời kết hợp với diễn xướng múa bóng của các đoàn hành hương. Quá trình dung hợp giữa đạo Mẫu và đạo Phật tại tháp Po Ina Nagar: đây là quá trình dung hợp văn hóa, tín ngưỡng giữa hai biểu tượng thần linh Thiên Y A và Quan âm bồ tát. Thiên Y A Na cũng được xem là Phật mẹ với hệ thống “kinh văn” chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Về nghi lễ, có sự chuyển biến rõ rệt về lễ vật dâng cúng vào trong ngôi tháp chính, đó là lễ vật chay, hoa quả, không sử dụng lễ vật mặn. Vào ngày đại lễ, các sư thầy của chùa Pháp Tánh sẽ đến tụng kinh cầu an. Quá trình chuyển đổi cơ cấu quản lý: Từ thập niên 1990 cho đến nay, tháp Po Ina Nagar không còn thuộc vào sự quản lý của đình làng, mà trở thành di tích lịch sử văn hóa trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao. Quá trình phục hồi văn hóa truyền thống tộc người và sự tôn vinh của UNESCO dành cho thực hành nghi lễ thờ Mẫu Tam phủ của người Việt: quá trình này đã góp phần tạo thêm tính đa dạng của văn hóa tộc người, cụ thể là nghi lễ hầu đồng tứ phủ của người Việt bắt đầu xuất hiện tại tháp Po Ina Nagar trong thời gian gần đây; hoạt động hành hương và nghi lễ của người Chăm. Đồng thời nghi lễ múa bóng của người Việt với đầy đủ sắc thái khác nhau cũng góp phần làm sôi động không khí nghi lễ/lễ hội của tháp. Như vậy, sự tổng hợp của các loại hình nghi lễ tại tháp Po Ina Nagar là kết quả của quá trình dung hợp văn hóa, tôn giáo và động thái kiến tạo tính liên kết tộc người, bảo tồn văn hóa Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 49 truyền thống và tôn vinh giá trị nội sinh của đạo Mẫu. Hiện nay, sự đa dạng của nghi lễ trong lễ hội hàng năm vào tháng 3 âm lịch hoặc trong những sự kiện đặc biệt tạo nên sắc thái và dấu ấn riêng của tháp. Tại một điểm đến du lịch, tính chất đa màu sắc của nghi lễ là một trong những điểm nhấn tạo sức hút mạnh mẽ. Với tính chất đa dạng về nguồn gốc tộc người, văn hóa, tháp Po Ina Nagar sớm trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng của vùng Nam Trung Bộ. Đồng thời, tháp Po Ina Nagar cũng là một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn của thành phố Nha Trang. Đặc điểm lịch sử, kiến trúc, văn hóa và tôn giáo của tháp Po Ina Nagar là những khía cạnh nổi trội và có sức hút đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Hoạt động hành hương và du lịch đại chúng theo thời gian đã phát triển đan xen vào nhau. Trong bối cảnh phát triển du lịch, đặc điểm lịch sử, văn hóa và tôn giáo của tháp Po Ina Nagar được xem như một nguồn lực quan trọng phục vụ cho quá trình khai thác để tạo dấu ấn và sức hút cho điểm đến. Một số nghi lễ, lễ hội thờ nữ thần tại tháp Po Ina Nagar Nguồn: Tác giả tổng hợp từ tư liệu điền dã 3.2. Phát triển sản phẩm du lịch văn hóa Tháp Po Ina Nagar là một trong những di tích tôn giáo nổi trội nhờ vị trí địa lý và giá trị văn hóa, đồng thời là một trong những điểm đến di sản có sức thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Bên cạnh giá trị kiến trúc, lịch sử, thực hành tín ngưỡng, sức hút của điểm đến này còn liên quan đến một sản phẩm du lịch được xây dựng từ quá trình khai thác diễn xướng văn hóa dân gian của người Chăm. Hiện nay, hai địa điểm du lịch hấp hẫn của thành phố Nha Trang là tháp Po Ina Nagar và Hòn Chồng thuộc sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích tỉnh Khánh Hòa có doanh thu và lượt khách khá cao. Theo số liệu thống kê và lượt khách và doanh thu của tháp Po Ina Nagar, lượt khách qua 10 năm (2009 - 2018) tăng 6,8 lần và doanh thu tăng 11 lần (theo Trung tâm Bảo tồn Di tích tỉnh Khánh Hòa, 2018). Nguồn doanh thu này chủ yếu từ hoạt động bán vé. Sự phát triển du lịch của tháp Po Ina Nagar trong bối cảnh chung của thành phố Nha Trang là minh chứng cho sức hấp dẫn của điểm đến du lịch. Việc xây dựng sản phẩm du lịch của tháp Po Ina Nagar phụ thuộc vào việc xác định dấu ấn văn hóa đặc trưng, cụ thể nhất là văn hóa thờ nữ thần của người Chăm và người Việt. Tuy nhiên, việc xây dựng sản phẩm du lịch không thuần túy dựa trên nguyên bản của một hình thức nghi lễ nào đó, mà có xu hướng tách yếu tố thiêng ra khỏi sản phẩm du lịch. Có thể thấy rằng, nếu như xu hướng xây dựng biểu trưng văn hóa chấp nhận tính dung hợp đa tộc người, đa tôn giáo, thì sản • Nghi lễ tế thần, hát tuồng • Tính chất xuyên suốt • Nghi lễ cúng cầu an, thả hoa đăng • Nổi trội từ năm 2000 cho đến nay • Nghi lễ tạ ơn, múa bóng • Tính chất xuyên suốt, rõ nét trong thời gian gần đây • Nghi lễ hầu đồng múa bóng • Tính chất xuyên suốt Văn hóa thờ nữ thần (người Việt) Văn hóa thờ nữ thần (người Chăm) Văn hóa đình làng Văn hóa Phật giáo 50 Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 phẩm du lịch phải là hoạt động cụ thể, dễ nhận biết, giàu tính thẩm mĩ và giải trí. Từ bối cảnh và quan điểm trên, cho thấy xây dựng sản phẩm du lịch dựa trên giá trị văn hóa, tín ngưỡng là cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu du khách, tránh sự nhàm chán, thu hút du khách quay lại, xa hơn là nhận diện giá trị và bảo tồn văn hóa. 3.2.1. Sản phẩm du lịch diễn xướng dân gian Quá trình khai thác văn hóa dân gian của người Chăm trở thành sản phẩm du lịch đã khởi đầu từ năm 2004 theo chủ trương phục hồi văn hóa truyền thống, tôn trọng tính đa dạng của văn hóa và đoàn kết dân tộc. Không chỉ tại tháp Po Ina Nagar, diễn xướng văn hóa Chăm còn được phục dựng và trình diễn tại nhiều địa điểm tham quan khác như khu đền tháp Mỹ Sơn, cụ thể là chương trình ca múa nhạc dân gian của người Chăm như múa Apsara do người Việt trình diễn. Năm 2004 và 2005 là thời điểm tháp Po Ina Nagar có sự chuyển đổi về cơ cấu nhân sự và chủ trương khai thác, phát triển du lịch theo nhu cầu thị trường. Do đó, yêu cầu về sản phẩm du lịch mang đậm sắc thái văn hóa địa phương trở nên rất cấp thiết. Trong lúc này, Ban quản lý tháp đã nhận định rằng sự hiện diện của văn hóa Chăm tại tháp Po Ina Nagar phản ánh bản sắc văn hóa của khu vực Nam Trung Bộ, cụ thể là Nha Trang (Khánh Hòa), nơi có sự giao thoa văn hóa giữa người Chăm và người Việt. Bên cạnh những đoàn hành hương người Chăm mang đến những hoạt động trình diễn nghi lễ ấn tượng và sinh động với lễ vật dâng cúng, điệu múa của bà bóng người Chăm và âm nhạc tế lễ; văn hóa dân gian Chăm cần được quảng bá cho du khách trong và ngoài nước bằng những sản phẩm du lịch thực sự. Với chủ trương này, Ban quản lý tháp đã hướng đến một số sản phẩm văn hóa cụ thể như gốm Bàu Trúc, thổ cẩm (dệt vải) để mang về trưng bày tại tháp, đồng thời tạo điều kiện cho người Chăm đến tháp mở cửa hàng bán sản phẩm. Thế mạnh về nghi lễ diễn xướng cũng là một nguồn lực để khai thác sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, để xây dựng một sản phẩm du lịch từ nghi lễ diễn xướng là một công việc rất khó khăn. Do đó, Ban quản lý tháp đã hướng đến nghệ thuật ca múa dân gian Chăm nhằm để phục vụ du khách trong thời gian ngắn, hướng đến sự giải trí và thu hút cái nhìn mới lạ. Ban quản lý tháp đã mời một số thành viên đại diện trong cộng đồng người Chăm ở huyện Ninh Phước, Phan Rang để cộng tác cùng xây dựng và tập luyện đội múa dân gian Chăm. Làng Chăm Mỹ Nghiệp (thị trấn Phước Dân, Ninh Phước, Ninh Thuận) là nơi đội múa và đánh trống được chọn lựa. Đây là làng Chăm vẫn còn gìn giữ nét văn hóa truyền thống lâu đời. Với yêu cầu của Ban quản lý tháp, cộng đồng làng Chăm Mỹ Nghiệp đã thống nhất và đồng thuận trong việc chọn lựa thành viên của đội múa Chăm, gồm các cô gái người Chăm và nghệ nhân đánh trống, thổi kèn. Hình thức cộng tác là thông qua hợp đồng của Trung tâm Bảo tồn Di tích với một số nghệ nhân biểu diễn múa và đánh trống ghi-năng, thổi kèn sanarai. Đội múa người Chăm thực hiện hợp đồng ngắn hạn theo mỗi năm, vào năm 2019, mức lương của nghệ nhân khoảng 3 triệu/tháng và được cung cấp chỗ ở. Đội múa biểu diễn hằng ngày, nhất là khi có đoàn khách du lịch đến tham quan. Ngoài tiền lương hằng tháng, thỉnh thoảng đội múa còn nhận được tiền tip của du khách. Một số điệu múa đã được trình diễn từ năm 2005 cho đến nay là múa đội lu, múa quạt và múa Apsara. Đây là những điệu múa dâng lên cho nữ thần xứ sở của người Chăm, vừa có tính chất nghi lễ vừa giàu tính nghệ thuật dân gian. Vì vậy, các cô gái Chăm múa dưới chân tháp thờ nữ thần Po Ina Nagar là một hình ảnh đẹp phản ánh giá trị văn hóa truyền thống của người Chăm. Mặt khác, những điệu múa này không nặng về yếu tố tín ngưỡng thuần túy, có thể trình diễn ở không gian đền tháp hoặc trong không gian làng Chăm. Ngoài ra, những điệu múa do nghệ sĩ dân gian Chăm sáng tạo cũng giàu tính nghệ thuật và giải trí. Thời gian trình diễn là 15 phút/tiết mục trên sân trải tấm bạt (không trang trí sân khấu) nhằm đảm bảo tính chân thực khi tái hiện tiết mục múa dân gian Chăm. Một số sản phẩm du lịch của người Chăm ở tháp Po Ina Nagar góp phần lan tỏa văn hóa truyền thống của người Chăm ra khỏi không gian làng Chăm và hội nhập vào không gian du lịch. Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 51 Đây được xem là một cách thức bảo tồn văn hóa truyền thống rất hiệu quả trong bối cảnh xã hội đương đại. Bên cạnh đó, phương pháp bảo tồn này còn có ý nghĩa thực tiễn là khẳng định thương hiệu của sản phẩm du lịch như gốm Chăm, thổ cẩm Chăm và múa dân gian Chăm. Trong bối cảnh phát triển du lịch, văn hóa truyền thống đứng trước hai xu thế, hoặc là hội nhập, biến đổi để phát triển hoặc tự tách ra khỏi bối cảnh hiện đại với nỗ lực bảo tồn trong không gian truyền thống. Sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch của người Chăm đã đáp ứng xu hướng thứ nhất, đã vươn ra khỏi không gian truyền thống làng Chăm để du khách chiêm ngưỡng tại một địa điểm thiêng. Ông Th. là người đi đầu trong chủ trương và thực hiện kế hoạch xây dựng sản phẩm du lịch, cho rằng việc xây dựng sản phẩm du lịch mang lại hai lợi ích cơ bản là phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người Chăm, nuôi dưỡng văn hóa Chăm trong hoàn cảnh mới và tạo điều kiện thu nhập cho nghệ nhân để họ dành tâm huyết bảo tồn văn hóa bằng chính hoạt động nghệ thuật của mình. Sự tham gia của cộng đồng với tư cách là người cộng tác và hưởng lợi đã phản ánh cụ thể trong quá trình gắn bó với hoạt động trình diễn sản phẩm du lịch trong suốt thời gian dài với một mức thù lao vừa phải. Mức thù lao hợp đồng dành cho nghệ nhân biểu diễn tăng dần qua nhiều năm, đáp ứng một phần nhu cầu việc làm trong hoàn cảnh khó khăn về sinh kế. Trong trường hợp nghệ nhân C. (Phan Rang, Ninh Thuận) là người đã gắn bó với đội múa Chăm hơn 10 năm, phụ trách chơi trống ghi-năng, vốn xuất phát từ niềm say mê với văn hóa, nghệ thuật dân gian Chăm và mong muốn bảo tồn văn hóa truyền thống đang mai một, do đó đã tham gia đội múa để đưa làn điệu dân gian của dân tộc mình đến với du khách trong và ngoài nước. Ông C. cho rằng thu nhập hằng tháng khá thấp nhưng khoản tiền tip của du khách khá lớn đã đóng góp thêm vào thu nhập, cùng với niềm say mê và trách nhiệm bảo tồn văn hóa truyền thống đã giúp ông trụ vững cùng đội múa hơn một thập kỉ qua. 3.2.2. Hiệu quả của sản phẩm du lịch Múa Chăm, gốm Chăm và thổ cẩm Chăm là những sản phẩm du lịch đầu tiên và thành công tại tháp Po Ina Nagar tính đến thời điểm hiện nay. Trong đó, múa Chăm là sản phẩm diễn xướng độc đáo nhất tạo nên hiệu quả giải trí và tái tạo cảm xúc cho du khách. Hơn thế, múa Chăm diễn ra trong không gian tín ngưỡng kết hợp với nghi lễ tạ ơn của người Chăm hành hương thực sự đã kiến tạo hình ảnh văn hóa của cộng đồng người Chăm. Đây cũng là hàm ý quảng bá văn hóa trong phát triển du lịch, cụ thể là du khách không cần phải đến các làng Chăm cũng có thể chiêm ngưỡng và tìm hiểu văn hóa Chăm trong một điểm đến du lịch vốn đã biểu hiện một cách chân thực nghi lễ diễn xướng truyền thống, cùng với sự tăng cường hỗ trợ và minh họa của sản phẩm du lịch. Mặc dù trải qua 15 năm hình thành và phát triển, song các sản phẩm du lịch của người Chăm đã đạt đến trạng thái bão hòa về lượng và chất, chỉ diễn ra sự thay đổi về nhân sự. Đối với vấn đề này, tồn tại nhiều quan điểm tranh luận khác nhau, một là quan điểm của nhà quản lý trước đây cho rằng sản phẩm du lịch của người Chăm được xây dựng với mục đích chính là bảo tồn văn hóa và lan tỏa cái đẹp của văn hóa đến du khách, tạo thêm sức hấp dẫn cho điểm đến, nhưng không phá vỡ tính chất ổn định, cổ kính của không gian thiêng; hai là quan điểm của những nhà quản lý hiện nay cho rằng cần tăng cường thêm sản phẩm du lịch bên cạnh sản phẩm du lịch của người Chăm đã tồn tại nhiều năm nay. Cả hai quan điểm trên đều hướng đến mục tiêu bảo tồn văn hóa. Trong chủ trương phát triển du lịch ở điểm thiêng của các nhà quản lý hiện nay ở Khánh Hòa đều thống nhất không thương mại hóa và không phát triển bằng mọi giá. “Thật ra tháp Bà có lợi thế vị trí trung tâm, cảnh quan đẹp, kiến trúc đẹp, thêm giá trị văn hóa tác động vào nâng nó lên, cho dù không có du khách tham quan thì hằng ngày người hành hương, đi cúng rất nhiều làm cho di tích sinh động. Phần diễn xướng múa Chăm chừng đó là đủ, nếu làm hoành tráng nữa thì không phù hợp, vì khách du lịch nhanh đến nhanh đi, nên không thể sân khấu hóa, dàn trải cho họ xem như vậy là hợp lý. Hồi chú còn 52 Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 làm, luôn khuyến khích người nước ngoài vào cùng múa, cùng nhảy, giao lưu, phải mời khách vào để múa cùng với nhau, chỉ cần chụp ảnh chung lưu niệm là đã thú vị. Du khách thích lắm”. (PVS, ông T., Nha Trang) “Mình tạo nên sản phẩm gì đó, không phải riêng gì nghệ thuật không đâu, cái giá trị đó thì phải giá trị cốt lõi, không ăn xổi ở thì, không chạy theo kinh tế, nó phải bộc lộ bản sắc của dân tộc mình. Quan điểm của trung tâm không đặt nặng lắm vấn đề doanh thu. Nó là một nơi để thu hút khách, đồng thời phục vụ công tác tín ngưỡng, không chỉ là khách Việt mà khách Trung Quốc và khác họ cũng đến với Mẫu, họ cũng chắp tay lạy, họ cũng thực hiện theo cách của người Việt người Chăm là xoa tay lên tượng, họ cũng rất tâm linh. Giờ đầu tư bằng cách là tôn tạo cảnh quan xanh sạch đẹp, con người ngày một hoàn thiện hơn, phong cách phục vụ tốt hơn, văn minh lịch sự hơn. Còn về phía đầu tư chuyên môn sẽ đầu tư thêm, đồng thời công tác mang tính tín ngưỡng sẽ nâng tầm lên”. (PVS, ông N., Nha Trang) Thành công tiếp theo của sản phẩm du lịch của người Chăm đó là tính hiệu quả của mô hình du lịch dựa trên sự tham gia của cộng đồng, trong đó các thành viên của cộng đồng được tham gia và hưởng lợi từ hoạt động này, thể hiện qua một số đặc điểm như sau: cộng đồng có quyền thảo luận để lựa chọn người tham gia (giai đoạn đầu), người tham gia là nghệ nhân dân gian với khả năng chơi trống hoặc những cô gái có niềm đam ca múa được cộng đồng tuyển chọn; chính sách thù lao và ràng buộc trách nhiệm; thu nhập từ hoạt động biểu diễn được chia sẻ cho các thành viên trong đội múa; hỗ trợ về chỗ ở và chế độ nghỉ phép. Tóm lại, thông qua những phát hiện của nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của khai thác nguồn lực văn hóa trong phát triển song cần phải đảm bảo tính bền vững của văn hóa và du lịch. Mặc dù sản phẩm văn hóa giàu tính giải trí và thẩm mĩ song sự chân thực của trình diễn văn hóa vẫn luôn tạo sức hút đối với trải nghiệm của du khách. Do vậy, đối với những địa điểm di sản giàu giá trị lịch sử và văn hóa truyền thống, cần thiết phải vận dụng chính sự phát triển của du lịch trở thành cơ hội bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đồng thời việc khai thác cần dựa trên quá trình tham gia của cộng đồng địa phương. 4. Thảo luận Quá trình khai thác văn hóa trong phát triển du lịch tại tháp Po Ina Nagar thể hiện qua việc xây dựng biểu trưng văn hóa và sản phẩm du lịch. Xây dựng biểu trưng văn hóa phản ánh sự hợp tác thành công giữa nhà quản lý và một số bên tham gia khác nhằm tăng cường sự hiện diện của trình diễn văn hóa giàu tính chân thực tạo sức hút cho điểm đến. Ở đây, cộng đồng có vai trò trung gian tạo nên tính chân thực đó. Họ hoàn toàn không tham gia hoặc chỉ cung cấp thông tin cho nhà quản lý và một vài bên tham gia với tư cách là một tín đồ hành hương và lễ bái. Trong khi đó, các bên tham gia đã có uy quyền tác động đến quyết định kiến tạo biểu trưng văn của nhà quản lý. Mặc dù vậy uy quyền này luôn thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào chủ trương phát triển du lịch và bảo tồn văn hóa. Xây dựng sản phẩm du lịch thực sự là một “sân chơi”, trong đó, cộng đồng bước đầu khẳng định sự tham gia của mình thể hiện qua tính chất cộng tác bằng hình thức hợp đồng với nhà quản lý. Múa Chăm (cùng một số sản phẩm khác như thổ cẩm, gốm Bàu Trúc) là sản phẩm du lịch thành công tại tháp Po Ina Nagar trong suốt 15 năm qua. Trong quá trình này, cộng đồng đóng vai trò như người cộng tác và thực hiện chế độ hợp đồng với nhà quản lý, khá gần với vai trò của một bên tham gia/liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình cộng tác, người tham gia không có nghĩa vụ đóng góp ý kiến với nhà quản lý, ngoài ra, họ phải tuân thủ theo các quy định theo hợp đồng. Có thể thấy rằng, mô hình du lịch dựa vào cộng đồng này chỉ dừng lại ở sự tham gia mang tính cộng tác của cộng đồng đối với nhà quản lý mặc dù cũng có hơi hướng của một bên tham gia thông qua sự ràng buộc về hợp đồng. Ngoài ra, do tính chất bão hòa của sản phẩm du lịch, cho nên cơ hội đóng góp ý kiến của người tham gia rất thấp. Nguyễn Thị Thanh Xuyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 46-53 53 5. Kết luận và khuyến nghị Sự gia tăng của du lịch đại chúng tác động lên kinh tế - xã hội và văn hóa mang đến lợi ích song cũng hàm chứa ảnh hưởng tiêu cực. Trong bối cảnh phát triển du lịch di sản của tháp Po Ina Nagar, khai thác nguồn lực văn hóa, xây dựng sản phẩm du lịch vừa là giải pháp tăng sức hút của điểm đến đồng thời là cơ hội để bảo tồn văn hóa. Tuy nhiên, quá trình này cần thiết phải đảm bảo sự tham gia của cộng đồng, trao đổi ý kiến và trình diễn nghi lễ. Nhu cầu trải nghiệm của du khách không chỉ đến từ phong cảnh, kiến trúc mà còn đến từ hoạt động nghi lễ, lễ hội hoặc những diễn xướng dân gian truyền thống giàu tính nghệ thuật. Nghiên cứu này cũng cho thấy xu hướng xây dựng sản phẩm du lịch gắn liền với trình diễn văn hóa của cộng đồng địa phương, đồng thời hạn chế hoạt động nghệ thuật dàn dựng mà để cho diễn xướng, nghi lễ, lễ hội, hành hương diễn ra chân thật. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng gợi mở về cách thức gia tăng sự tham gia của cộng đồng địa phương trong bảo tồn văn hóa truyền thống. Sự tham gia là vấn đề quan trọng bậc nhất trong khai thác văn hóa phát triển du lịch hiện nay. Nghiên cứu này đề xuất giải pháp đối với quá trình tham gia khai thác nguồn lực văn hóa gồm ba giai đoạn như sau: 1) xác định mức độ tham gia của cộng đồng; 2) xây dựng cơ chế hợp tác; 3) đóng góp vào quá trình ra quyết định theo mức độ tham gia. Qua đó cung cấp góc nhìn mới về việc khai thác văn hóa trong mối tương tác với nhiều bên tham gia khác nhau, trong đó cộng đồng phải trở thành một bên tham gia/liên quan như các bên tham khác. Từ quá trình tái hiện tính chân thực trong thực hành thờ cúng cho đến sản phẩm du lịch, cộng đồng là tác nhân quan trọng nhất để thúc đẩy sự trải nghiệm của du khách, nhờ đó củng cố và bảo vệ nguồn lực văn hóa. Nghiên cứu này cũng gợi mở một số khả năng mới trong hợp tác song phương hoặc đa phương giữa nhà quản lý với các đối tượng khác thông qua sự thành công của sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, sự phát triển du lịch tại một không gian tín ngưỡng tôn giáo chỉ là hoạt động có tính chất phụ trợ, yếu tố chính vẫn là thực hành thờ cúng và sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng. Việc phát triển du lịch chỉ là một yếu tố để tạo nên môi trường trao đổi, chia sẻ liên văn hóa và tạo động lực thúc đẩy sự hợp tác giữa cộng đồng với nhà nghiên cứu, quản lý và một số bên tham gia khác. Tài liệu tham khảo MacCannell, D. (1976). The tourist: A new theory of the leisure class. Berkeley, LA and London: University of California Press. Macleod, D. V. L., & Carrier, J. G. (Eds.) (2010). Tourism, power and culture: Insights from Anthropology. Bristol, UK: Channel View Publications. Maspero, G. (1928). Le royaume de Champa. Paris et Bruxelles: Les Edition G. Van Oest. Nguyen, B. C. (2000). Khái quát về văn hóa tiền - sơ sử Khánh Hòa. Khánh Hòa diện mạo một vùng đất [An overview of prehistoric culture - Khanh Hoa. A new look of Khanh Hoa]. Phân Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Khánh Hòa, 2, 11-12. Okazaki, E. (2008). A community-based tourism model. Journal of Sustainable Tourism, 16(5), 511-530. doi:10.2167/jost782.0 Parmentier, H. (1902). Le sanctuaire de Po-Nagar à Nhatrang. Bulletin de l'Ecole franҫcaise d'Extrême-Orient, 2, 17-54. Schweyer, A.-V. (2004). Po Nagar de Nha Trang (1re partie). Aséanie, 14, 109 - 140. Theodossopoulos, D. (2010). Tourists and indigenous culture as resources: Lessons from embera cultural tourism in Panama. In D. V. L. Macleod & J. G. Carrier (Eds.), Tourism, power and culture: Insights from Anthropology (pp. 115-132). Bristol, UK: Channel View Publications. Tư liệu điền dã tại Nha Trang (Khánh Hòa), 2019.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhai_thac_nguon_luc_van_hoa_trong_phat_trien_du_lich_di_san.pdf
Tài liệu liên quan