Khóa luận Chiến lược kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia nước ngoài tại thị trường Việt Nam

Phải nhấn mạnh một điều rằng: dù Chính phủ Việt Nam có giúp đỡ hỗ trợ các doanh nghiệp bao nhiêu đi chăng nữa nhưng bản thân mỗi doanh nghiệp lại có thái độ tiêu cực trong kinh doanh thì doanh nghiệp khó mà phát triển được. Việc giúp đỡ hoạt động xuyên quốc gia của các doanh nghiệp Việt Nam từ phía Chính phủ cũng có thể như việc trồng một cây non. Bản thân cây không có sức sống thì dù có chăm bẵm bao nhiêu, cây cũng không thể sống nổi. Chính vì vậy, không ai khác ngoài bản các doanh nghiệp Việt Nam muốn lớn mạnh và thành đạt trong quá trình kinh doanh ở nước ngoài, họ phải tự nỗ lực rất nhiều. Từ những kinh nghiệm và thực tiễn của các TNCs nước ngoài có mặt tại Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải kiện toàn một số vấn đề như: ã Về trình độ và năng lực của chủ doanh nghiệp : Hầu hết lãnh đạo các tập đoàn xuyên quốc gia lớn đều là những tiến sỹ hoặc có trình độ tương đương. Họ là những sản phẩm của các trường đại học hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Chủ tịch hãng điện tử NEC Nhật Bản, tiến sỹ Kobayashi đã từng là giảng viên của Đại học Havard. Chủ tịch tập đoàn Sumitomo, tiến sỹ Kenji Miyahara đã từng là quan chức cao cấp của Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế Nhật Bản (MITI).v.v.Và rất nhiều người khác đều là những viên chức cao cấp trong chính phủ các nước, sau khi về hưu đã làm chủ tịch các tập đoàn lớn. Tuy nhiên, nếu so sánh với tỷ lệ 45% chủ doanh nghiệp Việt Nam có bằng đại học thì việc so sánh quả là khập khiễng. Nhưng đây thực sự là vấn đề đáng quan tâm, nhất là trong thời đại nền kinh tế tri thức bùng nổ như hiện nay, một yêu cầu đặt ra là chủ doanh nghiệp phải thực hiện được một cách nhanh chóng và quyết đoán các quyết định, nếu anh ta không muốn bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Một chủ doanh nghiệp thực sự cần có năng lực, có tầm nhìn xa trông rộng để có thể chèo lái con thuyền doanh nghiệp qua thời kỳ khó khăn, đồng thời hướng doanh nghiệp vào những lĩnh vực kinh doanh tiềm năng. Tất cả những khả năng đó không thể bỗng dưng có được mà phải trải qua những tháng năm học hỏi, nghiên cứu và đặc biệt phải được đào tạo một cách chính thống. Tuy vậy, yếu điểm hiện nay về trình độ học vấn cũng như khả năng quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Kinh nghiệm ở Nhật Bản cho thấy, để có được đội ngũ những chủ tập đoàn có học vấn và thực sự có năng lực, Chính phủ Nhật Bản đã kiến thiết thành công một hệ thống giáo dục có thể là bậc nhất thế giới. Những đứa trẻ ngay từ ngày đầu cắp sách đến trường đã được xác định rằng muốn tiếp tục sinh tồn thì không có cách nào khác là phải học tập và vượt qua các kỳ thử thách. Dẫu rằng còn có nhiều quan điểm không đánh giá cao kiểu cách giáo dục tại Nhật Bản, nhưng bất kì ai cũng phải thừa nhận rằng, nhờ vào nó mà Nhật Bản có thể làm được điều kỳ diệu mà không ai sống ở những năm 40, 50 của thế kỷ 20 có thể tưởng tượng nổi. Và chính hệ thống giáo dục đó đã không những đáp ứng mà còn vượt quá nhu cầu của nền kinh tế về một lực lượng lao động có trình độ cao.

doc96 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chiến lược kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia nước ngoài tại thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế (the Economic Expansion Incentives), cung cấp một cơ cấu tài chính cho các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời các chính sách thay thế nhập khẩu trước đó được nhanh chóng loại bỏ và các hàng rào thuế quan cũng không còn tồn tại. Chính sách công nghiệp hoá của Singapore đã đạt được khá nhiều thắng lợi. Cho đến năm 1973, kinh tế Singapore đã bước vào thời kỳ phát triển mạnh cho đến ngày nay. Đó là kết quả của sự đầu tư to lớn, có hiệu quả của hơn 3000 TNCs nước ngoài và sự điều hành quản lý khoa học, năng động của Nhà nước. Bên cạnh việc nhận FDI, Singapore đã đủ lực để tiến hành đầu tư ra thị trường thế giới: Trung Quốc, Việt Nam, các nước ASEAN, Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ....với tổng số 24.110 công ty hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài. Malayxia với những chính sách kinh tế mới. Sự phát triển kinh tế-xã hội của Malayxia trải qua ba giai đoạn. Trong những năm 1960, nền kinh tế Malayxia dựa chủ yếu vào xuất khẩu cao su và thiếc. Những năm tiếp theo, Malayxia đã có nhiều cố gắng để đa dạng hoá nền kinh tế và củng cố các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Trong những năm1970, Malayxia thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) vơi tư tưởng chủ đạo là nhằm điều chỉnh vấn đề mất cân bằng trong thu nhập giữa người Malayxia và người dân tộc thiểu số khác. Năm1982 là thời kỳ có nhiều biến động của nền kinh tế Malayxia và một kế hoạch công nghiệp (IMP) chủ chốt được đề xuất để vạch ra chiến lược công nghiệp hoá mới. Chiến lược này được hoàn tất vào năm 1985 và dự định sẽ tiến hành công nghiệp hoá trong 15 năm. IPM cũng đề cập đến vấn đề sử dụng lao động kém hiệu quả của Malayxia, do đó, bản kế hoạch này đưa ra các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng thiếu lực lượng lao động được đào tạo, có đủ trình độ để tiếp nhận công nghệ như các nước công nghiệp mới Singapore và Nhật Bản. Chính sách này đem laị một kết quả to lớn là đến cuối năm 1990, một khối lượng đầu tư nước ngoài lớn 4 tỷ USD, đặc biệt từ Nhật Bản và Đài Loan, đã được đưa vào Malayxia. Khối lượng ĐTNN này chiếm 5,5% tổng FDI vào 10 nước nhận đầu tư nước ngoài lớn nhất ở khu vực các nước đang phát triển [phụ lục 3]. ở Thái Lan, ngay từ kế hoạch phát triển lần thứ nhất thời kỳ 1961-1962, Chính phủ Thái Lan đã cố gắng thúc đẩy đầu tư tư nhân trong lĩnh vực chế tạo, nhằm mục đích bảo hộ các nhà sản xuất trong nước. Cho đến kế hoạch lần thứ ba (1972-1976), việc tập trung cho các ngành xuất khẩu mới được chú ý, đến giai đoạn 1982-1986 đầu tư nước ngoài mới bắt đầu có ảnh hưởng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đẩy mức tăng GNP của Thái Lan lên mức 8% một năm từ sau 1987. Chính sách giảm thuế 8 năm liền cùng với những đặc ân khác nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài của Thái Lan đã tạo lên sự bùng nổ đầu tư ở nước này, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế 1997-1998 diễn ra ở nước này, việc các nhà đầu tư TNCs rút vốn hàng loạt cho thấy chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài của Thái Lan vẫn còn nhiều hạn chế. Đây cũng là một bài học lớn cho chúng ta trong việc kiểm soát lượng ngoại tệ ra vào trong nước của các TNCs. II. Những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác với các TNCs nước ngoài tại Việt Nam Chúng ta cần khẳng định việc hợp tác với các TNCs nước ngoài là một vấn đề mang tính tất yếu kinh tế. Bởi lẽ, việc khai thác nguồn lực quốc tế (thông qua FDI, công nghệ hiện đại và thương mại quốc tế)_ điều mà tất cả các quốc gia đều phải thực hiện để phát triển kinh tế đất nước_ trước hết và chủ yếu phải hướng vào các TNCs. Kinh nghiệm các nước trong khu vực, nhất là các nước công nghiệp mới, đã chỉ ra rằng, mặc dù còn có những mặt hạn chế (và đương nhiên là khó tránh khỏi), song do biết hợp tác với các TNCs mà họ đã tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm buôn bán, mở rộng thị trường... để phát triển rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến. Với nước ta, những thành tựu kinh tế-xã hội mà các TNCs đem lại trong 15 năm qua thật có ý nghĩa, nhưng so với các nước trong khu vực còn rất nhỏ bé. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hợp tác với các TNCs, chúng ta cần quan tâm đến một số quan điểm và giải pháp sau: 2.1. Những quan điểm 2..1.1. Chủ động thu hút các TNCs nước ngoài Tính chủ động trong thu hút các TNCs nước ngoài là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động đầu tư của họ tại thị trường Việt Nam. Có nâng cao tính chủ động thì mới tạo ra được môi trường đầu tư hấp dẫn, mới hướng các hoạt động đầu tư vào những mục tiêu đã xác định trước như vậy mới hạn chế được bị động trong việc thu hút các TNCs, làm cho việc thu hút đạt hiệu quả cao và có ý nghĩa. Tính chủ động phải được thể hiện thông qua việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và bố trí các dự án theo định hướng của sự phát triển cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của việc thu hút các TNCs của ta là nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế. Do đó, chiến lược thu hút đầu tư của các TNCs phải phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược đó, căn cứ vào thực lực và khả năng của từng giai đoạn cụ thể để có kế hoạch định hướng đầu tư vào từng ngành, lĩnh vực và vùng được ưu tiên. Cùng với việc xây dựng kế hoạch định hướng đầu tư, việc xây dựng các dự án khả thi là cần thiết để chủ động kêu gọi các nhà đầu tư. Mục tiêu chiến lược thu hút các TNCs còn là cơ sở để định hướng cho việc tạo lập môi trường đầu tư và việc xây dựng khung pháp lý, chính sách khuyến khích cũng là nhằm mục đích bảo đảm thực hiện các mục tiêu. 2.1.2. Hợp tác nhưng đảm bảo nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ, cùng có lợi Mục đích đầu tư ra nước ngoài của các TNCs là tối đa hoá lợi nhuận và họ luôn tìm cách đạt được mục đích đó. Đối với Việt Nam là nước nhận đầu tư; mục đích của ta là vốn, kỹ thuật công nghệ, thị trường, nhưng không vì thế mà bị lệ thuộc, bị chèn ép, thiệt hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong quá trình hợp tác đầu tư, chúng ta hợp tác nhưng vẫn bảo vệ được chủ quyền quốc gia (bao gồm: độc lập, chủ quyền lãnh thổ, quyền lựa chọn chế độ chính trị, xã hội, định hướng XHCN). "Chấp nhận trả học phí cần thiết nhưng vẫn phải bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi". Thu hút hợp tác đầu tư với các TNCs nước ngoài, có nghĩa là chúng ta tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc, giữa các bên đối tác đầu tư là không thể tránh khỏi, mỗi bên đều phải tuân theo những quy tắc chung và cần phải có sự nhượng bộ phần nào, nhưng chúng ta cũng phải đấu tranh để giành phần lợi cho mình. Hợp tác với các TNCs, thì không thể đạt được tất cả các mục tiêu cùng một lúc trong điều kiện các nguồn lực có hạn. Việc chấp nhận "trả học phí" cũng có nghĩa là lựa chọn mục tiêu phát triển theo mô hình mất cân đối trong chừng mực nhất định. Nói cách khác, trong điều kiện của thời gian đầu, việc mất cân đối về kinh tế, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thâm hụt cán cân thương mại, chênh lệch trong phân phối thu nhập... là khó tránh khỏi. Những vấn đề này chỉ có thể giải quyết được từng bước cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nó phụ thuộc vào chính hiệu quả thu hút TNCs gắn với chính sách khôn khéo của mỗi nước. Việc thu hút TNCs chỉ trở thành tất yếu và có ý nghĩa khi nó đem lại lợi ích cho các bên tham gia theo nguyên tắc cùng có lợi. Việc thu hút và hợp tác với các TNCs, một mặt chúng ta phải biết thích nghi với những tập quán và quy tắc quốc tế; mặt khác, phải đấu tranh để đảm bảo nguyên tắc cùng có lợi, giữ vững chủ quyền quốc gia, định hướng XHCN và bản sắc văn hoá dân tộc. 2.1.3. Cần có nỗ lực chung của Nhà nước và doanh nghiệp Sự hấp dẫn các TNCs không chỉ ở môi trường đầu tư được tạo lập mà còn phải có được các doanh nghiệp có năng lực kinh doanh, nơi tin cậy để họ bỏ vốn đầu tư cùng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần có sự kết hợp nỗ lực chung của Nhà nước và các doanh nghiệp. Nhà nước cần thực hiện xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược kế hoạch để tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, là " sân chơi" thuận lợi để vừa kích thích các doanh nghiệp trong nước nỗ lực vươn lên, vừa thu hút được các TNCs vào những lĩnh vực ưu tiên theo định hướng của mình. Các doanh nghiệp cần phấn đấu để phát triển và hoàn thiện, nâng cao năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của mình, nâng cao sức cạnh tranh và trở thành đối tác có tiềm lực có vị thế bình đẳng không rơi vào thế bị động, bất lợi hoặc lệ thuộc trong quan hệ đàm phán, hợp tác với các TNCs, vươn lên để từng bước hoạt động đầu tư ra nước ngoài, thực hiện xuyên quốc gia hoá trong kinh doanh. Chính các doanh nghiệp trong nước chứ không ai khác là người biến sự nỗ lực của Nhà nước thành hiện thực. Sự vươn lên của các doanh nghiệp trong nước để có được quan hệ bình đẳng với các TNCs sẽ góp phần làm cho nền kinh tế phát triển độc lập tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước khác. Nhà nước chẳng những tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng mà còn là người bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, trên cơ sở đó mà bảo vệ quyền lợi quốc gia, dân tộc. Sự nỗ lực chung của doanh nghiệp chính là sự nỗ lực phấn đấu vì sự phát triển của đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. 2.1.4. Phải nội lực hoá ngoại lực để phát triển bền vững Thu hút các TNCs là để tăng cường vốn đầu tư, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, thị trường..v.v.biến nó thành nguồn lực nội sinh để tăng trưởng và phát triển. Nếu chúng ta không đủ năng lực để biến những cái nhận được từ các TNCs thành cái của mình và phát huy nó lên, thì chúng ta không thể phát triển hoặc phát triển không lâu bền, dòng vốn có nguy cơ chảy ngược vào các TNCs, ngoại lực vào rồi lại ra đi, như vậy thì không trở thành yếu tố nội sinh được. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải phát huy được sức mạnh nội lực phải biết tận dụng yếu tố ngoại lực, làm điều kiện để tăng cường sức mạnh nội lực của đất nước. Nội lực là yếu tố giữ vai trò quyết định sự phát triển của đất nước. Điều đó giúp chúng ta có thể tiếp tục đổi mới, mở cửa và hội nhập, có chính sách huy động mọi nhân lực, vật lực và tài lực đến mức tối đa, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tham nhũng.v.v. Còn ngoại lực thì có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới khuynh hướng, kết quả vận động và phát triển kinh tế nước ta. Ngoại lực có cả tính tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của ngoại lực thể hiện ở chỗ nó có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ tạo điều kiện cho quá trình vận động và phát triển. Mặt tiêu cực của ngoại lực cũng không thể xem thường, nó có thể gây nên những khó khăn, cản trở thậm chí đi đến phá hoại làm chệch hướng vận động và phát triển của đất nước. Việc thực hiện mở cửa, tăng cường giao lưu quốc tế, tiếp nhận và sử dụng vốn ĐTNN của các TNCs đòi hỏi chúng ta vừa phải phát huy tối đa hiệu quả tích cực của nó, thực hiện sự chuyển hoá, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển, đồng thời phải hạn chế được hậu quả tiêu cực đến mức tối thiểu. Nội sinh hoá ngoại lực và hiện đại hoá nội lực có thể được hiểu là việc tiếp thu và chuyển hoá ngoại lực thành nội lực, làm cho nội lực được phát huy, ngày càng được tăng cường và phát triển. Trong quá trình đó, con người là yếu tố quyết định. Vì vậy, đầu tư phát triển con người, chăm lo giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nhân cách, nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển nhân lực, khoa học - công nghệ, văn hoá, giữ gìn phát huy truyền thống tốt đẹp của bản sắc dân tộc là hoạt động đầu tư quan trọng nhất để đẩy mạnh CNH - HĐN phát triển đất nước, đảm bảo nội sinh hoá được ngoại lực và hiện đại hoá nội lực, tiếp nhận việc sử dụng đầu tư của TNCs nước ngoài có hiệu quả. 2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác với TNCs nước ngoài tại Việt Nam Những giải pháp chủ yếu sau đây nhằm phát huy những thuận lợi đồng thời khắc phục những tồn tại của môi trường đầu tư Việt Nam, tạo niềm tin của các TNCs khi vào hoạt động tại Việt Nam và góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. 2.2.1. Mở rộng và cải thiện chính sách khuyến khích đầu tư Chính sách khuyến khích đầu tư được điều chỉnh và cải thiện là một trong những nhân tố làm tăng sức hấp dẫn đối với các TNCs. Vì cùng với hệ thống luật pháp đồng bộ, thông thoáng, chính sách khuyến khích đầu tư tạo ra những điều kiện thuận lợi, ưu đãi đối với nhà đầu tư để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn; đồng thời bằng chính sách khuyến khích của mình, nước chúng ta có thể định hướng hoạt động đầu tư vào các mục tiêu kế hoạch định trước. Trong thời gian tới, việc hợp tác với các TNCs sẽ có hiệu quả tốt hơn nếu tiếp tục các chính sách cải thiện môi trường đầu tư theo các hướng sau: Thứ nhất, mở rộng việc thu hút theo hướng cho phép thí điểm nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất vào việc xây dựng chung cư để cho thuê hoặc bán cho người Việt Nam và cho thuê đối với người nước ngoài; cho phép doanh nghiệp có vốn ĐTNN kinh doanh siêu thị, du lịch lữ hành, kiểm toán, giám định hàng hoá, từng bước mở rộng thị trường bảo hiểm... Thứ hai, giải quyết linh hoạt hơn việc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng như việc chuyển doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; đa dạng hoá hình thức đầu tư và phương pháp huy động vốn bằng việc cho phép cổ phần hoá, phát hành trái phiếu huy động vốn tại Việt Nam; cho phép nhà đầu tư TNCs thành lập công ty cổ phần, công ty đa mục đích, quỹ đầu tư hoặc công ty quản lý vốn để điều hành, quản lý các dự án tại Việt Nam cũng như được phép tham gia mua cổ phần đối với doanh nghiệp cổ phần hoá. Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển nhượng, thế chấp sử dụng đất theo hướng: cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp quyền sử dụng đất cho các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Nhà nước cần ban hành các quy định về thế chấp, cầm cố bảo lãnh tài sản doanh nghiệp có vốn ĐTNN để vay vốn ngân hàng cũng như những quy định cụ thể việc chuyển lợi nhuận về nước. Thứ tư, mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong việc tuyển dụng lao động Việt Nam, tổ chức lại doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh nghiệp được trực tiếp tuyển dụng lao động theo nhu cầu, trên cơ sở tuân thủ luật lao động Việt Nam và tạo cơ chế linh hoạt, phù hợp hơn với điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời cần có chế tài xử lý nghiêm khắc hiện tượng các doanh nghiệp có vốn ĐTNN vi phạm luật lao động, điển hình là các truờng hợp bóc lột sức lao động của nhân công Việt Nam (kéo dài giờ làm việc, trả lương thấp hơn mức quy định) hoặc các hành vi xúc phạm nhân phẩm, đánh đập công nhân đã từng xảy ra ở các liên doanh với Đài Loan và Hàn Quốc gần đây. Thứ năm, cần công bố lộ trình để tiếp tục điều chỉnh giá, phí một số loại dịch vụ và hàng hoá áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN và người nước ngoài. Tiến tới thực hiện chế độ một giá. Tiếp tục điều chỉnh lại chính sách thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, các loại chi phí đối với lao động địa phương và các chi phí khác. Thứ sáu, cần có chính sách khuyến khích đặc biệt đối với các dự án lớn, có ý nghĩa chiến lược của các TNCs tầm cỡ quốc tế, nhất là các TNCs từ các nước phát triển như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản để thực hiện đa dạng hoá chủ thể đầu tư. 2.2.2. Xúc tiến mạnh việc tạo lập đối tác đầu tư trong nước Đối tác đầu tư có năng lực hợp tác với nước ngoài là nhân tố hấp dẫn đối với các TNCs. Thông thường các nhà đầu tư nước ngoài nói chung cũng như các TNCs nói riêng muốn đầu tư kinh doanh ở một nước nào đó, ngoài việc tìm hiểu thị trường, tình hình chính trị, xã hội .v.v. ra, họ rất quan tâm đến việc tìm hiểu đối tác đầu tư. Vì khi đầu tư vào một nước, họ thường gặp một số khó khăn, như chưa quen phong tục tập quán, luật pháp, chưa khai thông được các mối quan hệ với chính quyền các cấp, chưa am hiểu thị trường.v.v.Mặt khác, trong hợp tác kinh doanh, các TNCs đều muốn giảm bớt vốn để hạn chế rủi ro. Cho nên các TNCs thường tìm các đối tác là công dân nước chủ nhà, để giảm bớt những khó khăn đó và chia sẻ rủi ro nếu có. Bên cạnh đó, nước chủ nhà cũng cần phải có đối tác mạnh để có thể quan hệ bình đẳng với các TNCs, tăng thêm thế thương lượng của nước mình. ở nước ta, thực tiễn những năm qua cho thấy, trong các liên doanh với nước ngoài, nếu đối tác Việt Nam có năng lực, có vốn đóng góp thì thu hút thêm được vốn nước ngoài, mở rộng dự án đầu tư, không bị chèn ép bởi phía nước ngoài. Ngược lại, thì bị thu hẹp quy mô, phải chuyển hình thức đầu tư, hoặc bị rút giấy phép. Để tạo lập được các đối tác trong nước thực hiện liên doanh, hợp tác đầu tư với các TNCs một cách có hiệu quả, chúng ta cần phải tiếp tục củng cố và phát triển các doanh nghiệp, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh, khuyến khích đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong đó, việc xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh doanh mạnh vừa có ý nghĩa trong việc thu hút, tiếp nhận đầu tư từ các TNCs, vừa là cách tốt nhất để thực hiện ĐTNN. Bên cạnh việc xây dựng và phát triển các Tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh tế, thực tế ở nước ta, nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã nhanh chóng mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản xuất và vùng lãnh thổ hoạt động. Xu hướng hình thành một nhóm doanh nghiệp độc lập có tư cách pháp nhân, nhưng đặt dưới sự chỉ đạo quản lý của một nhóm chủ sở hữu đã trở nên rõ nét. Đây cũng là con đường hình thành tập đoàn tuy chậm nhung chắc chắn, tạo thành một sức mạnh kinh tế trên thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ để họ vươn lên trở thành những doanh nghiệp mạnh thực hiện liên doanh, liên kết được với các TNCs. Đặc biệt là phải có chiến lược và biện pháp xúc tiến việc xuyên quốc gia hoá của một số doanh nghiệp có đủ điều kiện trên cơ sở có sự chọn lọc, thí điểm. Đây là việc làm khó, song có ý nghĩa lớn, bởi vì, xuyên quốc gia hoá hiện đang là một xu hướng và chính việc vượt ra khỏi biên giới quốc gia để kinh doanh quốc tế là một dịp tốt để các doanh nghiệp tự thử thách. Cũng từ đó, họ sẽ có điều kiện thuận lợi để tìm kiếm đối tác phù hợp với mình. Cùng với sự nỗ lực của Nhà nước, các doanh nghiệp phải tự có sự nỗ lực cao, phấn đấu vươn lên, tránh trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhà nước. Sự nỗ lực này phải được thể hiện bằng ý chí, quyết tâm đổi mới cơ chế, tổ chức quản lý, tự chủ, năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh để trở thành đối tác tương xứng, liên doanh có hiệu quả với các TNCs. 2.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư Cơ chế quản lý và năng lực quản lý của Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc tạo lập môi trường đầu tư. Bởi vì, mọi hoạt động đầu tư đều có liên quan trực tiếp với cơ chế điều hành và quản lý của nước chủ nhà, các TNCs đều phải làm việc trực tiếp với bộ máy quản lý các cấp. Cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện với hệ thống luật pháp rõ ràng minh bạch, đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế cũng như công cụ, đòn bẩy mềm dẻo linh hoạt được thực hiện bởi bộ máy quản lý mạnh, trong sạch sẽ tạo được sự tin tưởng của các TNCs vào sự ổn định, cởi mở của môi trường đầu tư. Nếu ngược lại, sẽ là một cản trở rất lớn đối với việc thu hút đầu tư, nhất là các nhà đầu tư TNCs. Bởi vì, các TNCs là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại, hoạt động trên phạm vi quốc tế theo những quy tắc, thông lệ, thể chế quốc tế, khi đầu tư vào bất cứ nước nào họ rất cần một môi trường đầu tư đồng dạng để dễ hoạt động. Vì vậy, chúng ta muốn thu hút được ĐTNN cần sự quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý và bộ máy quản lý của mình để vừa tăng sức hấp dẫn đầu tư, vừa thực hiện quản lý hoạt động ĐTNN một cách hiệu quả. Trong nhiều năm qua, Nhà nước ta đã có những bước tiến bộ trong công tác điều hành, quản lý đất nước nói chung và trong quản lý hoạt động ĐTNN nói riêng. Cơ chế quản lý đầu tư ngày càng thông thoáng hơn, công tác xúc tiến đầu tư bước đầu được thực hiện. Tuy nhiên, sự cải tiến đổi mới này chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực ĐTNN vẫn còn những ách tắc cản trở, như đã phân tích một phần ở chương II1.2. Vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước là những vấn đề cần thiết hiện nay và để thực hiện cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính. Đây là vấn đề có ý nghĩa lớn và cũng là một trong những yếu kém hiện đang tồn tại, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng. Đối với hoàn thiện luật pháp cần quan tâm đến tính đồng bộ, cụ thể rõ ràng. Song điều quan trọng hơn là tính chân thật, rõ ràng, hiệu lực và nhất quán trong việc thi hành pháp luật cũng như chính sách ở các cấp chính quyền và ban ngành Việt Nam. Đó cũng là điều băn khoăn của các nhà đầu tư trong Diễn đàn đầu tư Singapore (15/03/2001). Đối với thủ tục hành chính vẫn phải coi đó là khâu đột phá trong cải cách hành chính. Cần tiếp tục đơn giản hoá thủ tục ở mọi khâu, mọi cấp, mọi ngành, đặc biệt là phải thực hiện công khai hoá các quy trình, thời hạn trách nhiệm xử lý thủ tục. Toàn bộ quá trình tiếp nhận cho đến việc cấp giấy phép đầu tư phải thực hiện theo nguyên tắc "một cửa, một đầu mối". Tăng cường kiểm tra giám sát tiến độ thực hiện đầu tư để kịp thời hỗ trợ, điều chỉnh hoạt động đầu tư khi cần thiết. Việc phân cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư là cần thiết. Song cần có cơ chế phối hợp của Nhà nước, các cấp nhằm kiểm soát hữu hiệu từ một trung tâm là Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đảm bảo quản lý thống nhất, hạn chế những tiêu cực và cạnh tranh không lành mạnh (lẽ ra không nên có) giữa các tỉnh, các khu công nghiệp để giảm bớt thiệt hại cho quốc gia, đồng thời tránh bị các nhà đầu tư TNCs lợi dụng. Thứ hai, tăng cuờng công tác thông tin, tư vấn, đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, tận dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới, cập nhật thông tin, nắm chắc tình thình hoạt động đầu tư trên phạm vi cả nước để có những quyết định quản lý kịp thời, thống nhất. Thứ ba, nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất của đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài cũng như đội ngũ cán bộ làm việc trực tiếp với các TNCs đặc biệt phải kiên quyết xoá bỏ tận gốc tệ sách nhiễu, hối lộ của cán bộ quản lý. Thứ tư, cần tiếp tục đổi mới công tác xúc tiến đầu tư về tổ chức bộ máy và hình thức. Về bộ máy cần tạo lập cơ quan xúc tiến đầu tư với những phương tiện hiện đại, cung cấp thông tin nhanh nhạy, chính xác có khả năng tư vấn có hiệu quả đối với doanh nghiệp. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức như triển lãm, quảng cáo, diễn đàn ở trong và ngoài nước, với sự tiếp xúc rộng rãi giữa các TNCs với doanh nghiệp trong nước, với các quan chức cao cấp Nhà nước để hiểu biết lẫn nhau và giải toả những vướng mắc.v.v. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, chính sự tiếp xúc với các quan chức cao cấp của Nhà nước là dịp tốt nhất để xoá đi những mặc cảm, tạo sự hiểu biết lẫn nhau. 2.2.4. Tiếp tục phát triển và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế-kỹ thuật Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật được coi như là một hệ thống "xương cốt bắp thịt"của nền kinh tế để tiếp nhận, thu hút ĐTNN nói chung, thu hút đầu tư của các TNCs nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, sự phát triển của kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật là điều kiện tiên quyết để phát triển công nghệ cao, đáp ứng nhanh yêu cầu đòi hỏi của thị trường. Với một kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và hiện đại của giao thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ, thương mại, văn hoá giáo dục, thông tin và những thể chế vận hành nền kinh tế phù hợp sẽ đảm bảo cho các TNCs thực hiện di chuyển vốn nhanh, ứng phó kịp thời với những biến động nhanh chóng của các yếu tố trên thị trường, tránh được những thiệt hại về những chi phí trực tiếp do kết cấu hạ tầng vật chất yếu kém gây ra, vì vậy, các TNCs thường ưu tiên hơn khi lựa chọn đầu tư vào nước có kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ và hiện đại. Kết cấu hạ tầng của nước ta tuy đã được chú ý đầu tư phát triển, nhưng đến nay vẫn còn ở tình trạng yếu kém, lại thiếu đồng bộ, chưa thích hợp cho hoạt động đầu tư của các TNCs nước ngoài. Yêu cầu đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam rất cấp bách. Nhưng đầu tư vào xây dựng một kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ đòi hỏi những khoản vốn, kỹ thuật vô cùng to lớn, vốn lại luôn chuyển chậm, lợi nhuận không cao, tư nhân không đủ khả năng và cũng không muốn đầu tư vào lĩnh vực này, nên Nhà nước phải gánh vác. Tiềm lực tài chính của Nhà nước tuy to lớn, nhưng không thể dồn toàn lực vào xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và toàn diện được. Do đó, đòi hỏi phải có giải pháp linh hoạt để vừa tiếp nhận được ĐTNN, vừa đảm bảo hoạt động tài chính bình thường của mình. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, một trong những mâu thuẫn gay gắt là kết cấu hạ tầng chưa phát triển mà tiềm năng kinh tế lại chưa cho phép chi những khoản đầu tư lớn vào lĩnh vực này. Từ bài kinh nghiệm của các nước ASEAN (đặc biệt là Singapore, Thái Lan, Malayxia) và thực tiễn đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật ở nước ta cho thấy, hai giải pháp thích hợp hiện nay vẫn là: thứ nhất, cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức kinh tế, quốc tế để có được những khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư vào các đề án xây dựng hạ tầng. Thứ hai, xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế bao gồm: khu chế xuất, khu thương mại tự do, khu công nghệ cao, với quy mô thích hợp để tiếp nhận các nguồn vốn và kỹ thuật cao của nước ngoài. Vì trên một mặt bằng không lớn, việc huy động tài lực tập trung vào xây dựng một kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh và hiện đại là khả năng phù hợp và hiện thực trong giai đoạn trước mắt. Ngoài ra, phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các tiềm năng của toàn dân (nhà nước, địa phương và các tầng lớp dân cư) cho xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Trong thời gian tới, để phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cần chý ý mấy điểm sau: Phải có chiến lược kế hoạch cụ thể cho cả trước mắt và lâu dài, từng bước phát triển vững chắc kết cấu hạ tầng (điện, năng lượng, đường bộ, đường sắt, cảng biển, vận tải biển, hàng không) theo hướng hiện đại, xác định những công trình, dự án trọng điểm, cấp bách cho từng giai đoạn để tập trung đầu tư dứt điểm nhưng phải đảm bảo theo đúng quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm cho việc hình thành và phát triển đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng, tránh làm dàn trải không mang tính hệ thống, đồng bộ, thiếu tính khả thi, kém hiệu quả. Các dự án, công trình xây dựng kỹ thuật hạ tầng được xây dựng trước hết phải là những công trình thiết yếu, có tác dụng trên phạm vi rộng lớn đối với nhiều ngành, lĩnh vực và địa phương khác nhau, có tính mấu chốt quyết định để sự phát triển chung của toàn vùng cũng như của cả nước. Tránh làm tràn lan theo kiểu phong trào, địa phương, tỉnh nào cũng có cảng, khu công nghiệp, mặc dù thực tế yêu cầu không đặt ra và chưa phải là cấp bách. Cần có chính sách khuyến khích để các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn xây dựng các công trình hạ tầng ở quy mô vừa và nhỏ đổi mới hình thức BOT. Xem xét, đánh giá lại hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại tự do. Mạnh dạn loại bỏ những nơi không cần thiết, những khu công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại có vị trí thuận lợi, có tác dụng lớn nhưng chưa có hiệu quả, Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ để các khu công nghiệp này phát triển trở thành nơi thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư TNCs. Phát triển mạng lưới thông tin đa dịch vụ, sử dụng hệ thống thông tin hiện đại trong hệ thống lãnh đạo quản lý và điều hành, mở rộng khả năng hoà mạng viễn thông, phủ sóng phát thanh truyền hình mở rộng đến nhiều nơi trên thế giới với chất lượng ngày càng cao. "Kết cấu hạ tầng mềm" như hệ thống dịch vụ, thương mại, văn hoá giáo dục và các thể chế vận hành nền kinh tế nước ta còn nhiều bất cập. Chất lượng hoạt động của các loại dịch vụ không cao, hiệu quả thấp. Hoạt động thương mại, du lịch yếu kém cả về cơ sở vật chất, điều kiện và phương thức hoạt động. Dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn, bảo hiểm.v.v. phát triển chậm, chỉ chiếm khoảng 2% GDP. Sự yếu kém về năng lực tiếp thị, nghiên cứu thị trường, thông tin kinh tế... đã gây ra không ít khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Văn hoá giáo dục, dịch vụ y tế có bước phát triển nhưng chưa ngang tầm với thời đại, ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao chất lượng lao động; đã gây nên những trở ngại không nhỏ trong việc thu hút ĐTNN và đặc biệt là giảm sự hấp dẫn đối với các TNCs. Cần chú trọng hơn nữa đến việc phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn, đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu, tạo ra tiền đề và điều kiện cần thiết để những vùng này có thể tăng trưởng phát triển nhanh hơn. Đồng thời, đây cũng là yêu cầu cần thiết để có thể thu hút đầu tư vào những vùng đã được Nhà nước định hướng, khuyến khích. Để thực hiện cần huy động các nguồn vốn tư nhân, thực hiện Nhà nước và nhân dân cùng làm với những hình thức linh hoạt, thích hợp nhất là hình thức BOT. 2.2.5. Phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ bức xúc để nâng cao chất lượng lao động, bảo đảm tính bền vững của phát triển kinh tế, đồng thời cũng là tạo điều kiện để tăng tính hấp dẫn đối với việc thu hút các TNCs. Với một đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật, các doanh nghiệp có năng lực với các chuyên gia quản lý giỏi sẽ rất thuận lợi cho các TNCs khi thực hiện hợp tác liên doanh. Nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo cho việc tiếp thu công nghệ mới, làm chủ kỹ thuật và quy trình công nghệ sẽ đảm bảo cho các TNCs có thể sử dụng lao động tại chỗ nhưng vẫn triển khai được công nghệ tiên tiến. Với một quốc gia để phát triển bền vững có sức cạnh tranh cao phải dựa trên cơ sở chất lượng và kỹ thuật cao chứ không chỉ đơn thuần chỉ cạnh tranh trên cơ sở giá cả của các nguồn tài nguyên hay giá lao động thấp. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao là việc làm có ý nghĩa rất lớn cho cả trước mắt và lâu dài. Trong 5 bài học kinh nghiệm mà các nhà ĐTNN đã thành công ở Việt Nam báo cáo tại Diễn đàn đầu tư Singapore (15/03/2001) thì đầu tư con người được nhấn mạnh. Điều đó nói lên tầm quan trọng của vấn đề này. Mặt khác, đây không chỉ là yêu cầu đặt ra đối với các nước đang phát triển như Việt Nam mà cũng là yêu cầu đối với các nước công nghiệp phát triển. Hiện nay, các nước công nghiệp cũng đang phải đặt trọng tâm vào công tác giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá và tăng thêm được sức cạnh tranh. Singapore, quốc gia điển hình trong việc đầu tư cho giáo dục đào tạo, hàng năm nước này đã dành một phần khá lớn ngân sách (15-20%) để đầu tư cho giáo dục đào tạo. Kết quả là từ những năm 1996-2001, Singapore luôn được xếp là quốc gia có sức cạnh tranh thứ hai trên thế giới. Bảng 11- Xếp hạng về sức cạnh tranh của Singapore trên thế giới 2001 Năm 2000 2001 Tổng quát 2 2 Hoạt động kinh tế 8 Hiệu quả của Chính phủ 1 1 Hiệu quả kinh doanh 6 10 Cơ sở vật chất 3 50 Tính hấp dẫn: Chế tạo Nghiên cứu và Phát triển (R&D) Dịch vụ và Quản lý 1 4 2 1 3 3 Nguồn: World Competitiness Yearbook 2001, International institute for Management Development Đối với Việt Nam, một trong những nguy cơ chúng ta đang phải đương đầu là nguy cơ tụt hậu, trong đó sự tụt hậu về giáo dục đào tạo là nguy hiểm nhất và sẽ phải trả giá đắt nhất, nếu không có nỗ lực để vượt qua. Chúng ta đang thiếu một đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật, đội ngũ các nhà doanh nghiệp thạo kinh doanh trong cơ chế thị trường và đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên môn cao. Nhất là đối với yêu cầu mở rộng và tăng cường hợp tác đầu tư với các TNCs, thì sự thiếu hụt này ngày càng lớn. Cho đến năm 2000, lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật chuyên môn chỉ chiếm có 13,11% so với tổng số lực lượng lao động cả nước là một thực tế đáng phải quan tâm. Từ thực tế trên, để phát triển nguồn nhân lực cho cả trước mắt và lâu dài, công tác giáo dục đào tạo nước ta phải có chiến lược, kế hoạch cụ thể, sát hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, coi giáo dục là "quốc sách hàng đầu" như Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trước mắt, để nâng cao chất lượng lao động, chúng ta cần quan tâm đến một số mặt sau: 1. Cần có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có và phổ cập nghề cho lực lượng lao động xã hội. Gắn đào tạo và dạy nghề với thực tế đời sống xã hội, đảm bảo cho lao động được đào tạo thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động hiện nay, đặc biệt đáp ứng được yêu cầu về trình độ ngoại ngữ và tin học. 2. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo hợp lý giữa việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, lao động có tay nghề cao với đội ngũ cán bộ, các nhà quản lý; giữa các ngành nghề theo yêu cầu phát triển của đất nước, trong đó cần đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng công nhân bậc cao, các doanh nhân quản lý giỏi, bởi vì doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong nền kinh tế thị trường. 3. Mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề, phối hợp với các nhà đầu tư nước ngoài đào tạo nghề cho người lao động ngay tại xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn của họ. 4. Đa dạng hoá các hình thức giáo dục đào tạo. Huy động các doanh nghiệp tham gia vào công tác đào tạo nghề, tài trợ cho công tác giáo dục đào tạo đội ngũ lao động của họ. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nhất là việc đào tạo đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp, các chuyên gia bậc cao, những chuyên viên kỹ thuật giỏi, đảm bảo mặt bằng quốc tế về năng lực, trình độ. 2.3 Một số kiến nghị lớn từ thực tiễn nghiên cứu Qua thực tiễn nghiên cứu về "Chiến lược kinh doanh của các TNCs nước ngoài tại Việt Nam ", em thấy hoạt động của các TNCs tại Việt Nam những năm qua đã góp phần không nhỏ vào xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nền kinh tế đất nước. Việc hợp tác với các TNCs là một vấn đề mang tính tất yếu kinh tế, trong đó việc tạo lập một đối tác Việt Nam có năng lực trong hợp tác với nước ngoài đã và đang được xúc tiến mạnh mẽ. Vì thế, em cho cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam nên chăng cũng cần phải mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh của mình ra thị trường thế giới, tiến hành các hoạt động xuyên quốc gia như các công ty của Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã làm, có như vậy chúng ta mới có thể tận dụng một cách tối ưu các nguồn lực trên thế giới để phát triển kinh tế. ý tưởng trên có thể bị cho là viển vông, nhưng thực tế cho thấy việc các công ty Việt Nam trở thành các TNCs sẽ là một nhu cầu tất yếu. Xin đơn cử một ví dụ về hoạt động xuyên quốc gia của các công ty Trung Quốc - nước láng giềng có nhiều đặc điểm rất tương đồng với Việt Nam. Hiện nay, một số công ty lớn của Trung Quốc như Sinochem, Shanghai Corp đã bắt đầu tiến hành các hoạt động mang tính xuyên quốc gia và đã cho xây dựng một số nhà máy ở châu á và một số khu vực khác thuộc châu Âu và Mỹ LaTinh. Thành tích của họ cũng rất đáng chú ý, nhất là từ năm 1998 Sinochem đã lọt vào danh sách 500 TNCs hoạt động hiệu quả nhất thế giới do tạp chí Forture bình chọn. Chúng ta cũng biết đến các TNCs nổi tiếng khác của Trung Quốc như: Acer Inc. (Đài Loan), Jardine Matheson Holding Ltd. (Đài Loan), HSBG (Hồng Kông)... Còn quá sớm để nói đến sự thành công của các doanh nghiệp Việt Nam khi trở thành các TNCs có quốc tịch Việt Nam nhưng chúng ta hoàn toàn có cơ sở để chắc chắn rằng việc mở rộng phạm vi ra thế giới sẽ đem lại cho các công ty Việt Nam rất nhiều lợi ích. Kinh nghiệm của các TNCs cho thấy, muốn thành công chúng ta cần phải chú ý đến những vấn đề sau: 2.3.1. Về vai trò của Nhà nước Để trở thành các tập đoàn tài chính công nghiệp hùng hậu như hiện nay, ngay từ khi mới "Phôi thai" các TNCs quốc tế đã được sự hỗ trợ rất lớn của Chính phủ. ở Nhật Bản, Chính phủ chính là người khởi sướng quá trình "Tập đoàn hoá" của các công ty Nhật Bản. Với những hỗ trợ về vốn, kỹ thuật công nghệ, về thông tin, tư vấn của chính phủ, các TNCs Nhật Bản thực sự đã có được một nền móng vững chắc để phát triển. Trong giai đoạn đầu hoạt động, một điều đáng chú ý là các công ty này đã được Nhà nước bảo hộ và che chở khỏi cạnh tranh với bên ngoài một cách có hiệu lực. Toàn bộ thị trường nội địa Nhật Bản được dành riêng cho các công ty Nhật Bản, những sản phẩm cùng loại của nước ngoài dù có tốt hơn về chất lượng hay giá thành đều khó có khả năng cạnh tranh với hàng Nhật Bản. Chính vì những khoản lợi nhuận từ thị trường trong nước đó mà các TNCs Nhật Bản có thể phần nào bù đắp chi phí trong giai đoạn thâm nhập thị trường nước ngoài. Ngành sản xuất ôtô Nhật Bản là một minh chứng điển hình cho sự lớn mạnh nhờ nhu cầu trong nước đặc biệt là nhờ tiêu dùng cá nhân. Mặt khác, việc các công ty Nhật Bản thực hiện bán phá giá thành công trên thị trường nước ngoài để đánh gục các đối thủ cạnh tranh cũng nhờ vào khoản hỗ trợ tài chính cần thiết của Nhà nước. Chính vì vậy, hiện nay phần lớn các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam đều ở trong giai đoạn "chập chững" mới phát triển, Nhà nước cần phải ban hành các chính sách bảo hộ hợp lý để giúp các doanh nghiệp tạo dựng sự trưởng thành cần thiết trước khi tham gia vào hoạt động cạnh tranh quốc tế. Trước hết, Nhà nước phải tập trung mọi nguồn lực để phát triển những doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng. Bởi lẽ, Việt Nam là một nước đang phát triển và rất hạn chế về vốn đầu tư, nếu Nhà nước không chọn trọng điểm thì sẽ không đủ khả năng và không đủ vốn để cho cấp cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Khi đã quyết định những ngành nào cần ưu tiên phát triển, Chính phủ phải cùng phối hợp với doanh nghiệp trong việc hoạch định ra các chiến lược phát triển đồng thời hỗ trợ về vốn, về tư vấn, về thông tin, đặc biệt là phải bằng mọi biện pháp thu hút những kỹ thuật công nghệ mới áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Để việc quản lý Nhà nước có hiệu quả, Nhà nước chỉ nên đóng vai trò hỗ trợ và cung cấp mọi yếu tố cần thiết cho quá trình hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. Tốt hơn hết là dành cho họ quyền tự chủ cần thiết để có thể điều hành hoạt động kinh doanh của chính mình. Khi một doanh nghiệp đã đủ trưởng thành để mở rộng phạm vi hoạt động của ra thị trường nước ngoài, hơn lúc nào hết Nhà nước khi đó cần phải là đại diện tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để có thể làm tốt những việc kể trên, Chính phủ Việt Nam cần phải hoàn tất việc ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và hệ thống pháp luật đó phải được xem là những công cụ đắc lực để các doanh nghiệp Việt Nam có thể hoạt động một cách thuận lợi. Bởi lẽ hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều không cảm thấy an toàn khi hoạt động ngay tại chính thị trường trong nước khi mà các chính sách pháp luật của Nhà nước thay đổi một cách liên tục và bất ngờ. Chính những điều đó nhiều khi đã làm cho không ít doanh nghiệp phải lao đao. Mặt khác, khi ban hành luật mới, cần có sự phối hợp giữa doanh nghiệp và Nhà nước, phải xuất phát từ nhu cầu phát triển chính đáng của doanh nghiệp có như vậy các doanh nghiệp của chúng ta mới có thể thực sự tin tưởng và cảm thấy an toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.3.2. Về phía các doanh nghiệp Việt Nam Phải nhấn mạnh một điều rằng: dù Chính phủ Việt Nam có giúp đỡ hỗ trợ các doanh nghiệp bao nhiêu đi chăng nữa nhưng bản thân mỗi doanh nghiệp lại có thái độ tiêu cực trong kinh doanh thì doanh nghiệp khó mà phát triển được. Việc giúp đỡ hoạt động xuyên quốc gia của các doanh nghiệp Việt Nam từ phía Chính phủ cũng có thể như việc trồng một cây non. Bản thân cây không có sức sống thì dù có chăm bẵm bao nhiêu, cây cũng không thể sống nổi. Chính vì vậy, không ai khác ngoài bản các doanh nghiệp Việt Nam muốn lớn mạnh và thành đạt trong quá trình kinh doanh ở nước ngoài, họ phải tự nỗ lực rất nhiều. Từ những kinh nghiệm và thực tiễn của các TNCs nước ngoài có mặt tại Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải kiện toàn một số vấn đề như: Về trình độ và năng lực của chủ doanh nghiệp : Hầu hết lãnh đạo các tập đoàn xuyên quốc gia lớn đều là những tiến sỹ hoặc có trình độ tương đương. Họ là những sản phẩm của các trường đại học hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Chủ tịch hãng điện tử NEC Nhật Bản, tiến sỹ Kobayashi đã từng là giảng viên của Đại học Havard. Chủ tịch tập đoàn Sumitomo, tiến sỹ Kenji Miyahara đã từng là quan chức cao cấp của Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế Nhật Bản (MITI)..v..v.Và rất nhiều người khác đều là những viên chức cao cấp trong chính phủ các nước, sau khi về hưu đã làm chủ tịch các tập đoàn lớn. Tuy nhiên, nếu so sánh với tỷ lệ 45% chủ doanh nghiệp Việt Nam có bằng đại học thì việc so sánh quả là khập khiễng. Nhưng đây thực sự là vấn đề đáng quan tâm, nhất là trong thời đại nền kinh tế tri thức bùng nổ như hiện nay, một yêu cầu đặt ra là chủ doanh nghiệp phải thực hiện được một cách nhanh chóng và quyết đoán các quyết định, nếu anh ta không muốn bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Một chủ doanh nghiệp thực sự cần có năng lực, có tầm nhìn xa trông rộng để có thể chèo lái con thuyền doanh nghiệp qua thời kỳ khó khăn, đồng thời hướng doanh nghiệp vào những lĩnh vực kinh doanh tiềm năng. Tất cả những khả năng đó không thể bỗng dưng có được mà phải trải qua những tháng năm học hỏi, nghiên cứu và đặc biệt phải được đào tạo một cách chính thống. Tuy vậy, yếu điểm hiện nay về trình độ học vấn cũng như khả năng quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Kinh nghiệm ở Nhật Bản cho thấy, để có được đội ngũ những chủ tập đoàn có học vấn và thực sự có năng lực, Chính phủ Nhật Bản đã kiến thiết thành công một hệ thống giáo dục có thể là bậc nhất thế giới. Những đứa trẻ ngay từ ngày đầu cắp sách đến trường đã được xác định rằng muốn tiếp tục sinh tồn thì không có cách nào khác là phải học tập và vượt qua các kỳ thử thách. Dẫu rằng còn có nhiều quan điểm không đánh giá cao kiểu cách giáo dục tại Nhật Bản, nhưng bất kì ai cũng phải thừa nhận rằng, nhờ vào nó mà Nhật Bản có thể làm được điều kỳ diệu mà không ai sống ở những năm 40, 50 của thế kỷ 20 có thể tưởng tượng nổi. Và chính hệ thống giáo dục đó đã không những đáp ứng mà còn vượt quá nhu cầu của nền kinh tế về một lực lượng lao động có trình độ cao. Về phương pháp thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài Lịch sử phát triển của các TNCs nước ngoài cho thấy hầu hết mô hình thâm nhập và chiếm lĩnh các thị trường quốc tế như đã phân tích ở chương I đều trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn đầu: theo kịch bản cổ điển của các công ty sản xuất bán hàng hoá ra thị trường thế giới thông qua trung gian các hệ thống phân phối. Thông thường, các công ty sản xuất tiêu thụ sản phẩm của mình nhờ một công ty thương mại, sau đó nếu thấy đủ lực để mạo hiểm, các công ty sản xuất sẽ xây dựng những chi nhánh phân phối của chính mình ở hải ngoại. Giai đoạn hai: khi hàng hoá đã được người tiêu dùng biết đến, các công ty này thiết lập trực tiếp ở nước ngoài các nhà máy sản xuất của họ, đôi khi ngay cả các phòng nghiên cứu thiết kế sản phẩm. Việc đặt cơ sở sản xuất ngay tại thị trường tiêu thụ cho phép các TNCs thiết kế và sản xuất ra những sản phẩm nhằm vào và thích nghi hơn với nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng. Cái lợi trước mắt là giá thành sản xuất giảm nhờ nhân công địa phương rẻ hơn và giảm được chi phí vận chuyển. Cái lợi lâu dài là chiếm lĩnh những phần thị trường mới và cạnh tranh. Giai đoạn thứ ba và cuối cùng: các ngân hàng, hãng bảo hiểm, hãng môi giới đổ bộ lên thị trường nước ngoài. Môi trường tài chính đến lượt nó lại được phi thương mại hoá cho phép họ mua lại liên tiếp các xí nghiệp. Trong khi đó, các công ty thương mại thực sự trở thành những trung tâm tình báo kinh tế và hoạt động hết công suất, nhằm thu thập thông tin trong tất cả các lĩnh vực mua và bán. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, chúng ta không đủ khả năng và cũng không đủ tiềm lực cần thiết để áp dụng một cách máy móc toàn bộ kịch bản chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế như trên, nhưng cách thức đầu tiên là thông qua các công ty thương mại để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng sau đó khi đủ tiềm lực mới xây dựng các cơ sở sản xuất là một kinh nghiệm rất đáng để các doanh nghiệp Việt Nam học tập. Hiện nay, các công ty thương mại Việt Nam thực sự chưa phát huy được vai trò là cầu nối giữa công ty sản xuất với người tiêu dùng nước ngoài. Nếu như ở Nhật Bản, các công ty thương mại đã đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp các xí nghiệp sản xuất phân tán và manh mún, hướng đạo cho việc sản xuất và cung cấp lại, và là đầu mối tiêu thụ có hiệu quả các sản phẩm do các xí nghiệp này làm ra. Ngược lại, ở Việt Nam, dường như các công ty thương mại hay là các công ty thực hiện chức năng xuất nhập khẩu đơn thuần chỉ phát huy tác dụng ở một chiều. Tức là chỉ là đầu mối phân phối và tiêu thụ hàng hoá và chưa tỏ rõ vai trò tập hợp sản xuất từ các xí nghiệp nhỏ hay các hợp tác xã có quy mô không lớn. Điều này làm cho hàng hoá Việt Nam khi ra thị trường nước ngoài không thống nhất về giá cả. Nhiều khi lại xảy ra tình trạng các xí nghiệp Việt Nam làm giảm giá xuất khẩu do cạnh tranh với nhau để có thể tiêu thụ tại thị trường nước ngoài. Đây chính là điều bất lợi của các sản phẩm hàng hoá Việt Nam ở nước ngoài. Mặt khác, các công ty thương mại Việt Nam do chỉ hoạt động một chiều nên cũng chưa thực hiện được vai trò khác quan trọng hơn _ vai trò cung cấp thông tin về tình hình tiêu thụ của thị trường nước ngoài, những thông tin về sản phẩm mới, về các đối thủ cạnh tranh, về những biến động kinh tế-chính trị, về phản ứng của người tiêu dùng..v.v.. đều là những thông tin rất quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam non trẻ. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay nếu toàn bộ sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam được phân phối bởi những doanh nghiệp thương mại thống nhất và nếu có được sự phối hợp giữa doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất chắc chắn hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ được nâng cao giá trị trên thị trường thế giới. Hợp tác và phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã thông qua Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, trong đó chủ trương hình thành một số Tập đoàn trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước ở một số lĩnh vực có điều kiện, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập quốc tế hiệu quả như dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng ..v.v. Qua chủ trương này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải phối hợp nhau lại để củng cố sức mạnh, tập trung năng lực sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên ở đây tác giả không có ý so sánh các Tổng công ty này với các tập đoàn công nghiệp lớn mạnh trong khu vực và trên thế giới, nhưng ở mức độ nào đó chúng ta cần phải xem xét lại mức độ phối hợp hoạt động giữa các thành viên của Tổng công ty 90, 91. ở các TNCs thường có sự liên kết trao đổi nội bộ khăng khít giữa các chi nhánh với nhau về thông tin, về công nghệ.v.v.. vấn đề này ở các công ty trong Tổng công ty Việt Nam chưa thực sự tỏ ra có hiệu quả. Dường như ở Việt Nam, mô hình Tổng công ty được xây dựng nhằm mục đích kết hợp những công ty lớn mạnh với những công ty yếu kém thua lỗ để cùng cáng đáng cho nhau. Một cách khác, đây là việc làm cần thiết nhưng cách thức như vậy sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của các công ty lớn, có đủ sức mạnh và năng lực. Dù để xây dựng được các ngành công nghiệp then chốt trong nền kinh tế chúng ta phải làm như vậy, nhưng nếu cứ duy trì hoạt động của các thành viên yếu kém, hoạt động không có hiệu quả thì chắc chắn mục tiêu đặt ra trong việc xây dựng quy mô Tổng công ty sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, Chính phủ Việt Nam bên cạnh chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nên chăng kết hợp song song với việc thực hiện chủ trương giải tán các doanh nghiệp làm ăn thua lổ trong Tông công ty. Có như vậy thì Nhà nước mới có thể tập trung các nguồn lực cần thiết để hỗ trợ cho các công ty có tiềm năng hơn. Kết luận Các công ty xuyên quốc gia_TNCs ra đời dưới sự tác động của các quy luật kinh tế, trong đó cạnh tranh và tích tụ tư bản là nguyên nhân trực tiếp. Ngày nay, các TNCs đã trở thành một thực thể kinh tế có sức mạnh, nắm giữ 90% FDI, 80% công nghệ mới, và 64% thương mại quốc tế. Với các chiến lược chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế, các TNCs tăng cường hơn nữa sức cạnh tranh và sự ảnh hưởng của mình đối với nền kinh tế thế giới. Trong chiến lược "Hướng về châu á" của mình, các TNCs nước ngoài ngày càng quan tâm hơn đến thị trường Việt Nam. Hoạt động tại Việt Nam, họ đã tận dụng được những thuận lợi cơ bản về tiềm năng lợi thế của nền kinh tế nước ta, song cũng gặp không ít khó khăn bởi sự yêú kém của một nước nông nghiệp lạc hậu đang trong giai đoạn chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế; môi trường đầu tư chưa thực hấp dẫn, lại luôn có nhu cầu về vốn, công nghệ và trình độ quản lý. Do đó, để chiếm lĩnh và thu lợi nhuận cao, các TNCs nước ngoài ngày càng đẩy mạnh việc hợp tác sâu hơn với Việt Nam thông qua thương mại, đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ. Những kết quả bước đầu của việc hợp tác giữa TNCs và Việt Nam rất đáng kể trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Song để đạt được kết quả hợp tác cao hơn, tương xứng với tiềm năng của đất nước, chúng ta cần phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút các TNCs vào Việt Nam nhiều hơn: Việt Nam cần có một môi trường đầu tư thông thoáng hơn với khuôn khổ pháp lý, chính sách cởi mở và sự ổn định kinh tế - xã hội. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải nhanh chóng tạo lập các đối tác trong nước ngang tầm, tích cực đổi mới có chế quản lý, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác với các TNCs. Từ việc nghiên cứu chiến lược kinh doanh của TNCs tại Việt Nam và những giải pháp khả thi kể trên, hy vọng trong thời gian tới, việc hợp tác của Việt Nam với các TNCs sẽ tạo ra những bước đột phá mới, có hiệu quả hơn nữa, góp phần xứng đáng vào việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuong1-2- 3.doc
  • docBia KL.doc
  • docLoi noi dau - Muc luc.doc
  • docPhan phu luc.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan