Mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch trong giai đoạn hiện nay

Tất cả những nhận định trên cho thấy, để bảo tồn, phát huy di sản văn hóa; để phát triển du lịch có lợi cho việc bảo tồn, phát huy những tinh hoa của dân tộc, cần phải lưu ý đến một số yêu cầu: 1) Khi phát triển du lịch, vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa phải luôn được đặt lên trên mục đích kinh tế; 2) Phải xây dựng hệ thống văn bản pháp lý trong quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch một cách cụ thể tương ứng với từng trường hợp kiểu loại di sản; 3) Phát triển du lịch trên cơ sở tôn trọng tính nguyên gốc và môi trường không gian văn hóa của di sản; 4) Thiết lập các tuyến du lịch liên kết để khai thác những nhu cầu khác nhau của du khách với đối tượng hạt nhân là các di sản văn hóa; 5) Phải có những chính sách, cơ chế phù hợp để tái đầu tư cho di sản văn hóa từ những nguồn thu du lịch; 6) Phải đảm bảo các dịch vụ, cơ sở hạ tầng, môi trường du lịch đáp ứng, thoả mãn nhu cầu của du khách; 7) Đẩy mạnh công tác xã hội hóa du lịch thúc đẩy bảo tồn di sản; 8) Phải phát huy vai trò tích cực và chủ động của người dân ở các cộng đồng, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch vào việc tham gia làm du lịch và bảo vệ di sản văn hóa. Di sản văn hóa của nước ta chỉ có thể được bảo tồn, tôn vinh nếu nó mang lại lợi ích cho xã hội đương đại, mà điều đó dễ nhìn nhận thông qua hoạt động du lịch, nhất là khi có một cách thức quản lý, điều hành tốt và hiệu quả trong hoạt động khai thác các di sản văn hóa, có được sự trân trọng, hiểu biết, tính gắn kết giữa hai lĩnh vực này.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 29 (Tháng 9 - 2019)72 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 1. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thông qua du lịch Có thể nói bây giờ văn hóa Việt Nam còn những gì chứ không phải “có những gì” bởi phần nhiều các giá trị/di sản văn hóa mà các bậc tiền nhân thiết lập và tồn tại trong một thời gian dài nhưng vì lẽ này, hay lẽ khác, mà đặc biệt khi dùng nó để phát triển kinh tế, gần như bị mai một hoặc biến mất. Đó là chưa kể một số di sản văn hóa còn lại, nếu không tính toán kỹ thì rất dễ biến sang dạng khác. Có thể sự biến dạng đó hiện đại, sinh lợi hơn (như thu hẹp khu di tích để xây nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, tạo cảnh quan mới; hay lược bớt nghi thức, đưa thêm những loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại vào lễ hội truyền thống) nhưng khi sắc diện xưa không còn dấu vết, giá trị tinh thần mất MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY BÙI THANH THỦY Tóm tắt Suốt một thời gian dài, chúng ta đã được tiếp cận với những lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận đa dạng của nhiều nhà khoa học, chuyên gia trong nhiều lĩnh vực về vấn đề bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống/di sản văn hóa trong bối cảnh hiện đại hoá, toàn cầu hoá hiện nay, trong đó có gắn với sự phát triển kinh tế mang tính quốc tế và đại chúng - du lịch. Du lịch hiện đang là một điểm sáng (mũi nhọn) cho kinh tế Việt Nam; dân chúng tiếp nhận du khách nước ngoài với lòng hiếu khách của văn minh, văn hóa Việt; xã hội đón nhận du lịch trong nhiều sinh hoạt thường nhật một cách thản nhiên, du lịch sẽ gắn bó với tương lai của đất nước, là thước đo chính xác khả năng của Việt Nam trong cách đón nhận những biến đổi lớn từ toàn cầu hóa. Tiếp bàn về vấn đề nhận thức đối với mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch; giải pháp tạo sự cân bằng cho mối quan hệ này là những vấn đề mà bài viết này xin được trao đổi. Từ khóa: Du lịch, di sản văn hóa, bảo tồn, phát huy Abstract For a long time, we have accessed to the various theories, methodologies, and scientific studies of many scientists and experts in many fields of protecting traditional cultural values/ cultural heritage in the context of modernization and globalization today, in which is linked to the international and mass-tourism economic development. Tourism is currently a bright spot for the Vietnamese economy; people receive foreign tourists with the hospitality of Vietnamese civilization and culture; the society welcome tourism naturally in many daily activities. Tourism will be related to the future of the country and considered as an accurate measure of Vietnam’s ability to receive major changes from the globalization. The paper will discuss the awareness on the relationship between conservation and promotion of heritage values associated with tourism development; solutions to create a balance for this relationship. Keywords: Tourism, cultural heritage, conservation, promotion VĂN HÓA DU LỊCH 73Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA đi thì không còn gọi là di sản nữa. Điều này nằm trong thế mâu thuẫn giữa phát triển và bảo tồn; giữa kinh tế hóa và bảo vệ di sản, môi trường di sản; giữa lợi nhuận trước mắt và lợi ích lâu dài (như trường hợp biệt thự Bảo Đại ở thành phố Nha Trang; bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng; đồi Vọng Cảnh ở Huế; xây cầu trên núi Cái Hạ, Tràng An, Ninh Bình). Nói chung, ở Việt Nam, phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo tồn di sản luôn là bài toán rất khó giải đối với các nhà hoạch định, quản lý đất nước. Di sản văn hóa là tài sản vô giá và không thể thay thế được đối với mỗi một quốc gia và toàn thể nhân loại. Những mất mát do hư hại hoặc biến mất của bất kỳ tài sản nào sẽ mang đến sự nghèo nàn cho hệ thống di sản, nền văn hóa của quốc gia đó và của các dân tộc trên thế giới. Văn hóa, di sản văn hóa khi kết nối với hoạt động du lịch, vừa đánh thức các giá trị văn hóa/ di sản, vừa quảng bá các giá trị văn hóa rộng rãi; góp phần lưu giữ, phổ biến những tinh hoa văn hóa bản địa (hợp thành văn hóa dân tộc). Ý nghĩa lớn nhất của sự phục sinh, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản là đảm bảo tính liên tục không đứt gãy của truyền thống văn hóa dân tộc, làm cho đời sống tinh thần của cộng đồng phong phú, sâu sắc và trở thành một thành luỹ của các giá trị truyền thống, bản sắc trong xu thế hội nhập hiện nay. Để đảm bảo được vấn đề này trong bối cảnh đương đại, du lịch là một phương thức hiệu quả bởi nó thu hút sự chú ý của mọi người dân trong nước và thế giới đối với giá trị văn hóa của di sản ở mọi vùng miền, mọi quốc gia. Qua du lịch, các di sản văn hóa khi được khai thác dưới dạng tài nguyên để tạo thành những điểm đến, sản phẩm du lịch sẽ giúp du khách có cái nhìn rõ nét, sâu sắc hơn về nền văn hoá trong quá khứ và cảm nhận được mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai; đồng thời được tận mắt chứng kiến, tiếp cận cuộc sống văn hóa bản địa xung quanh các di sản đó. Việc nhiều du khách từ các nơi trên thế giới đến tham quan và trải nghiệm di sản văn hóa của địa phương sẽ tạo nên động lực để địa phương bảo tồn, khôi phục, gìn giữ di sản. Và chỉ khi các giá trị di sản được phát huy thì mới có cơ sở, có căn cứ và điều kiện để bảo tồn. Phát huy giá trị di sản qua du lịch không chỉ tạo hướng tiếp cận, ảnh hưởng mới làm cho các giá trị văn hóa không bị lãng quên mà còn bảo tồn được bản sắc của dân tộc. Vấn đề này cũng mang đến sự nhận biết sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc bảo vệ, gìn giữ các di sản văn hóa. Một khi người dân đã nhận ra và đánh giá cao giá trị đặc biệt của các di sản trong cộng đồng của họ, một khi niềm tự hào của họ được củng cố, họ sẽ cố gắng hết sức để bảo vệ di sản. Điều đó thực sự mang tính bền vững vì không một lực lượng nào có thể đối xử tốt với các di sản văn hóa hơn những chủ thể sở hữu, sáng tạo ra nó. Như thế, du lịch nội địa và du lịch quốc tế đóng vai trò là chất xúc tác cho việc bảo tồn các di sản văn hóa, đánh thức và làm trỗi dậy các giá trị văn hóa của các thời đại đã qua đang bị lãng quên hoặc mai một theo thời gian trước những biến cố của lịch sử. Mặt khác, một trong những giá trị của các di sản là trở thành tài nguyên du lịch và đem lại lợi ích kinh tế lớn. Các lợi ích kinh tế ấy lại tiếp tục phục vụ đắc lực cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản. Chúng ta không thể phủ nhận lợi ích to lớn về kinh tế mà du lịch mang lại cho điểm di sản. Cộng đồng địa phương ở bất kỳ vùng nào đã và đang có sự phát triển về du lịch đều nhận ra lợi ích này. Ngoài việc tạo thu nhập, việc làm, nâng cao đời sống kinh tế, tư duy, nhận thức cho người dân địa phương, du lịch còn hỗ trợ việc bảo tồn di sản bằng cách cung cấp nguồn tài chính ổn định. Du lịch phát triển tạo tiềm lực để tôn tạo, trùng tu các di tích, phục dựng các lễ hội, các Số 29 (Tháng 9 - 2019)74 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA loại hình nghệ thuật dân gian, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng cư dân trong việc giữ gìn, phát triển di sản văn hóa. Du lịch tạo ra nguồn thu nhập tại chỗ cho phép các địa phương tích luỹ và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có văn hóa. Nhờ đó các tài sản văn hóa được bảo vệ, tôn tạo, tái sinh, đồng thời với việc xây dựng mới các cơ sở văn hóa làm phong phú thêm các giá trị văn hoá đương đại. Việc tuyên truyền, quảng bá du lịch rộng rãi ở ngoài nước, trong nước và tại điểm du lịch đã truyền tải được giá trị văn hóa dân tộc đến bạn bè quốc tế, khách du lịch và nhân dân. Vấn đề này cũng được nhắc rất rõ trong Hiến chương quốc tế về du lịch văn hóa được Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc tế (ICOMOS) thông qua năm 1999: “Du lịch có thể tận dụng các lợi điểm về kinh tế của cả di sản và khai thác chúng phục vụ cho mục đích bảo tồn bằng cách tạo ra nguồn phí hỗ trợ, giáo dục cộng đồng và tác động vào chính sách” [5]. Ngoài ra, bản thân du lịch có chức năng giáo dục thông qua các hoạt động ngành nghề, nhắc nhở mọi người về cội nguồn văn hóa và giúp du khách xác định, hình thành nên ý thức về bản sắc văn hóa của mình, thúc đẩy mối quan tâm của công dân đến lịch sử, văn hóa, di sản; giúp chính phủ tác động đến dư luận và giành được sự ủng hộ cho những mục tiêu quốc gia (việc triển khai phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Bộ Chính trị từ Nghị quyết 08-NQ/TW là một minh chứng); thúc đẩy những tư tưởng, tham vọng quốc gia, hình thành hình ảnh tích cực về đất nước và bản sắc dân tộc. Di sản văn hóa là bộ phận trọng yếu của nền văn hóa dân tộc. Thái độ ứng xử đối với di sản văn hóa nói lên trình độ nhận thức của mỗi quốc gia, dân tộc và tuỳ thuộc vào việc xem xét vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển xã hội trong từng thời điểm lịch sử. Liên quan đến di sản văn hóa có một tập hợp những cặp phạm trù vừa thống nhất, vừa tương phản: Truyền thống và hiện đại; kế thừa và phát triển; bảo tồn và khai thác Thương mại hóa văn hóa (phát triển kinh tế từ văn hóa, kinh tế hóa văn hóa) luôn có hai mặt. Trong trường hợp đối với các di sản văn hóa, nếu các hoạt động khai thác, phát huy giá trị di sản được quản lý tốt có thể đem lại những lợi ích cho cộng đồng như lợi ích kinh tế, tạo dựng niềm tự hào, thu hút khách du lịch, xây dựng vị thế cho địa phương, tạo hình ảnh của điểm đến du lịch và quốc gia. Nhưng nếu không được quản lý, điều hành tốt và nếu như không thấy được những lợi ích một cách rõ ràng, cái giá phải trả và những vấn đề nảy sinh sẽ gia tăng, sẽ bị mai một, biến dạng hoặc sẽ mất đi, sự hỗ trợ từ phía cộng đồng và những đóng góp tự nguyện sẽ không còn. Công cuộc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong thời đại mới sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn. 2. Du lịch phát triển dựa vào hệ thống di sản văn hóa Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch Văn hoá là điều kiện và môi trường để cho du lịch phát sinh và phát triển. Các di sản văn hóa là một trong những điều kiện đặc trưng cho việc phát triển du lịch của quốc gia, vùng, địa phương. Giá trị của những di sản văn hóa: Di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, các tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền thống, cùng các thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ sở văn hóa nghệ thuật, các bảo tàng, là những đối tượng cho du khách khám phá, thưởng thức; cho du lịch khai thác, sử dụng. Các di sản không chỉ tạo ra môi trường và điều kiện cho du lịch phát sinh, phát triển mà còn quyết định quy mô, thể loại, chất lượng và hiệu quả hoạt động du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Di sản văn hóa tạo nên sự khác biệt cho hệ thống điểm đến, sản phẩm du lịch Văn hóa là nền tảng của xã hội, thể hiện tầm cao, chiều sâu của sự phát triển dân tộc cũng như tạo nên sự khác biệt giữa dân tộc này với 75Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA các dân tộc khác bởi bản thân nó đã mang tính đặc thù của mỗi quốc gia. Khai thác những yếu tố mang tính bản sắc, đặc trưng của văn hóa dân tộc - di sản văn hóa để hình thành những điểm đến, sản phẩm du lịch chính là tạo nên những sản phẩm du lịch đặc sắc, riêng biệt. Một nguyên tắc khi thiết kế sản phẩm du lịch luôn chú ý đến tính đa dạng trong sự độc đáo, riêng biệt để tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm, hình thành hệ thống sản phẩm đặc trưng, có sức hút lớn và tăng tính cạnh tranh trong kinh doanh cũng như điểm đến. Tính đặc trưng của điểm đến, sản phẩm du lịch được quy định bởi đặc điểm tự nhiên hoặc văn hóa bản địa (mà ở đây là di sản văn hóa) điển hình của địa phương, nơi sản phẩm du lịch được hình thành, phát triển. Di sản văn hóa giải quyết vấn đề sản phẩm du lịch Việt Nam Việt Nam đang sở hữu một “kho báu” để làm nền tảng thiết kế sản phẩm du lịch mà nhiều quốc gia khác không có, đó là một nền văn hóa đặc sắc, nhiều lợi thế về cảnh quan, cấu trúc và biểu hiện dấu ấn văn hóa vật chất, tinh thần. Về cảnh quan, Việt Nam có cảnh quan văn hóa đa dạng được tạo nên bởi sự thích ứng của con người trong từng dạng địa hình. Về cấu trúc, Việt Nam là một quốc gia đa sắc màu văn hóa của 54 dân tộc cùng sinh sống, thống nhất trong đa dạng. Điều đó đã tạo nên một hệ thống di sản văn hoá vật thể, phi vật thể phong phú, độc đáo, khác lạ, trong đó nhiều di sản văn hóa mang đậm dấu ấn đóng góp của văn hóa đa tộc người được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đặc biệt, Việt Nam còn hàm chứa một hệ thống di sản văn hóa thời kỳ cận hiện đại ghi dấu ấn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống di sản: các di tích lịch sử văn hóa, ẩm thực, lễ hội, các trò chơi dân gian, hàng thủ công, là những nguồn tài nguyên độc đáo, đặc sắc để làm nên cái hồn của sản phẩm du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch hiện nay. Di sản văn hóa giải quyết vấn đề gia tăng lượng khách Các hoạt động chủ yếu của du lịch bao gồm: Ăn, ở, du ngoạn, mua sắm, vui chơi giải trí (nhu cầu nội tại của con người). Tất cả các hoạt động đó ngoài việc thoả mãn nhu cầu thiết yếu của mọi thành viên trong xã hội đều mang đến những cảm nhận trải nghiệm về đặc trưng văn hóa, khát vọng về văn hóa - thể hiện sự ngưỡng mộ, theo đuổi với nền văn hóa của nơi khác. Điều đó cho thấy văn hoá với hệ thống các di sản là động cơ, là mục đích tìm kiếm của du khách bởi sự khác biệt. Đây sẽ là tác nhân tạo nên sự hấp dẫn của điểm đến, sự thu hút/lôi cuốn du khách, thúc đẩy tính lưu chuyển của dòng khách. Những ấn tượng về văn hóa làm cho du khách khó quên chuyến đi của mình và họ sẽ giới thiệu, quảng bá nâng cao những giá trị đó. Di sản văn hóa giải quyết vấn đề định vị hình ảnh, nâng cao thương hiệu du lịch địa phương/vùng/quốc gia Khai thác di sản văn hóa sẽ tạo nên các sản phẩm du lịch đặc trưng, khác biệt, giúp định vị hình ảnh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thương hiệu du lịch của một điểm đến và hình ảnh quốc gia. Tính cạnh tranh thu hút khách của một điểm đến, hình thành, định vị thương hiệu cho địa phương/vùng/quốc gia phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản: Mức độ hấp dẫn dựa trên tính khác biệt của sản phẩm du lịch so với những điểm đến khác; tình trạng môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội); sự thuận lợi trong tiếp cận điểm đến (thủ tục ra vào, phương tiện); và hình ảnh, thông tin về điểm đến. Các sản phẩm du lịch được khai thác từ tính độc đáo, riêng biệt của di sản văn hóa sẽ góp phần làm giảm sự cạnh tranh tiêu cực giữa các khu vực phát triển du lịch bởi tạo nên yếu tố không trùng lặp. Tự thân chúng sẽ hấp dẫn và thu hút du khách mà không phải dùng đến các biện Số 29 (Tháng 9 - 2019)76 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA pháp không phù hợp, giúp phát triển du lịch đồng đều ở mỗi địa phương, vùng miền. Đảm bảo sự khác biệt, tăng tính cạnh tranh, giúp định vị hình ảnh, thương hiệu cho điểm đến địa phương, quốc gia là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển du lịch của đất nước. Di sản văn hóa tạo khả năng sinh lời tại chỗ Di sản văn hóa là sơ sở tạo ra một hệ thống các sản phẩm, dịch vụ tại chỗ để đáp ứng nhu cầu của du khách đến tham quan du lịch (bán vé, sách, đồ lưu niệm, đồ ăn, chụp ảnh, khu dịch vụ bán lẻ thương mại) kích thích tiêu dùng, sản xuất ở khu vực xung quanh. Điều đó khẳng định di sản văn hóa có khả năng tạo thành tài sản, tác động kinh tế ở phạm vi vùng, khu vực, quốc gia. 3. Tạo mối quan hệ bền vững giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch trong giai đoạn hiện nay Mối quan hệ giữa di sản và du lịch tốt hay xấu tuỳ thuộc vào cách chúng ta xử lý như thế nào. Sẽ rất lý tưởng nếu kết hợp được hai mục tiêu: Phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa. Có thể đưa những “điều” này vào hai “phạm trù công việc”: Một là những công việc thuộc phạm trù văn hóa (phục dựng, bảo tồn, tôn tạo); hai là những công việc thuộc phạm trù du lịch (cơ sở, tiện nghi, hình thức thực hiện). Những tài nguyên văn hóa của dân tộc sẽ hình thành và tồn tại lâu dài, bền vững, một khi cùng tiến hành song song một cách văn hóa, hai lĩnh vực văn hóa và du lịch. Để thực hiện được mong muốn trên, cần thống nhất quan điểm giải quyết. Trong từng hoạt động mọi điểm mạnh cần phải được duy trì, phát huy; mọi điểm yếu cần phải được cải thiện, xóa bỏ. Trên thực tế, mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển du lịch hiện bộc lộ khá rõ ở các điểm di sản. Một mặt, du lịch là động lực cho sự phát triển kinh tế địa phương và là nguồn cung cấp tài chính bền vững cho di sản, nhưng mặt khác du lịch lại có thể gây hại cho di sản khi số lượng du khách tăng lên. Điều này, khiến cho mối quan hệ giữa hai bên căng thẳng và khó có thể giải quyết trong một sớm một chiều và cần có sự nỗ lực từ hai phía. Nhiều trường hợp cho thấy, việc khai thác các di sản quá mức để phục vụ du lịch sẽ dẫn đến di sản bị huỷ hoại. Dưới ảnh hưởng của du lịch, rất nhiều di sản văn hóa (cả vật thể và phi vật thể) đã bị biến dạng hoặc biến mất. Ví dụ, ở một số quốc gia trên thế giới, khá nhiều di tích phải giảm tải số lượng khách đến tham quan bằng nhiều chính sách khác nhau; một số di tích phải đóng cửa vì lượng khách đến quá lớn, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và cảnh quan di tích, cũng như tác động xấu đến sinh hoạt của cộng đồng địa phương. Nhiều lễ hội khi trở thành lễ hội du lịch đã mất hết những giá trị gốc/bản thể của nó, trở thành những sinh hoạt trần tục. Nói chung, nhiều giá trị văn hóa, những yếu tố đặc trưng, nguyên bản đã biến mất khi bị khai thác du lịch một cách thái quá, thiếu kiểm soát. Hậu quả này không nên đổ lỗi hoàn toàn cho du lịch. Cách thức quản lý, vận hành và phát triển của con người đóng vai trò quyết định trong việc du lịch tác động tích cực hay tiêu cực đối với vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Điều cơ bản là làm sao phát triển du lịch nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc, tính nguyên gốc của di sản, làm cho du lịch và di sản văn hóa không xung đột nhau mà bổ trợ, phục vụ lẫn nhau. Gánh nặng và những thách thức này được đặt lên vai của tất cả các bên liên quan đến chu trình quản lý di sản văn hóa ở một khu di tích, địa phương có di sản nhằm đảm bảo khả năng đạt được sự cân bằng giữa việc bảo tồn và phát triển bền vững tại một điểm di sản. Chính quyền địa phương, ban quản lý địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc 77Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA bảo tồn và mở hướng phát triển cho các di sản văn hóa. Điều cốt yếu là phải nhận thức rõ vai trò của di sản văn hóa đối với cộng đồng và làm mọi điều để giữ gìn cho cộng đồng cũng như nghiên cứu các biện pháp, cách thức tốt nhất khi kết hợp di sản với du lịch. Quá thương mại hóa hoặc quá bảo tồn di sản văn hóa một cách cứng nhắc không phải là phương thức lý tưởng đối với việc bảo vệ và phát huy di sản. Vì thế những chính sách, quy chế, quy định đối với bảo tồn, phát huy di sản cần linh hoạt để thu hút du khách và phòng tránh được những mặt trái mà du lịch có thể tác động. Mặc dù người dân địa phương có thể tự thân bảo vệ di sản để thể hiện đức tin, niềm tự hào, trách nhiệm của chính họ mà không phải sử dụng ngân sách Nhà nước, song không thể phủ nhận vai trò quan trọng của kinh tế đối với sự tồn tại của các di sản văn hóa trong đời sống hiện nay. Bởi ít nhất phải có kinh phí để duy trì một ban tổ chức hoạt động hiệu quả, nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cảnh quan, tôn tạo, sửa chữa, phục dựng, duy trì di sản. Hơn nữa, khi người dân được hưởng lợi từ các di sản này sẽ kích thích hơn việc tham gia tích cực từ phía họ, tình yêu di sản vì thế sẽ lớn dần lên và được duy trì một cách lâu dài, bền vững. Xét trên khía cạnh du lịch, du khách sẽ được chào đón hơn khi đến với địa phương, do người dân địa phương hiểu rằng du khách đến giúp họ phục hưng, bảo tồn chính văn hóa của họ và mang lại lợi ích kinh tế cho họ. Ngược lại, du khách sẽ cảm thấy hài lòng khi đến một nơi du lịch mà người dân nồng nhiệt, mến khách, thân thiện, môi trường hoạt động an toàn và khám phá được nhiều điều mới, lạ, độc đáo. Những nhà đầu tư, tài trợ, các doanh nghiệp kinh doanh cũng sẽ tham gia hăng hái hơn vì nhận thấy có được lợi ích mang đến cho bản thân, đơn vị. Điều đó cho thấy, việc giữ gìn, phát huy di sản văn hóa và những lợi ích từ kinh tế có mối liên kết với nhau. Và như thế, vấn đề thương mại một cách hợp lý, tuyên truyền, quảng bá cho di sản là một việc đáng làm, cần thiết trong phát triển du lịch. Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cần dựa trên quan điểm di sản văn hóa, các giá trị truyền thống đang tồn tại song hành với xã hội, phải có những biện pháp vận hành/phát huy một cách thích hợp với những yêu cầu của thời đại mới, trong bối cảnh chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội nhất định. Đây là mối quan hệ hai chiều, có sự ảnh hưởng và tác động tương hỗ lẫn nhau. Luôn xác định di sản văn hóa là một sản phẩm văn hóa, phải vận hành phù hợp với vai trò của nó trong xã hội hiện tại, phải đáp ứng nhu cầu của xã hội đương đại. Dưới góc độ du lịch, di sản văn hóa có vai trò kích thích nhu cầu du lịch/tham quan của du khách, tạo tính hấp dẫn cho điểm tham quan du lịch, xây dựng hình ảnh cho một vùng đất cũng như là tác nhân tạo sự phát triển kinh tế - xã hội, địa phương, vùng, quốc gia; hình thành loại hình du lịch thay thế và đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững. Quản lý, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa phải có cách nhìn theo nghĩa rộng hơn, không chỉ xoay quanh việc phục hồi, sửa chữa, tôn tạo phát huy bản thân những di sản văn hóa ấy hay cứ mặc định về giá trị để du khách tự tìm đến mà còn liên quan đến các vấn đề như lập kế hoạch; nguồn nhân lực; cách thức tuyên truyền, quảng bá; tìm kiếm nguồn tài trợ/đầu tư; phát triển dịch vụ; đảm bảo về an ninh, y tế, vệ sinh môi trường, hệ thống ánh sáng; cơ sở hạ tầng Do đó, mọi quy chế, quy định khi ban hành cần tính đến những vấn đề liên quan, tác nhân có thể xảy ra và phải có sự phối kết chặt chẽ mang tính liên ngành trong công tác quản lý. Cách thức, phương pháp quản lý cũng phải linh hoạt, vận dụng cho từng trường hợp di sản cụ thể, nhất là khi hệ thống di sản văn hóa của nước ta rất đa dạng và phong phú. Số 29 (Tháng 9 - 2019)78 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Du lịch gắn liền với bảo tồn và khai thác nghiêm túc các di sản vật chất, tinh thần, hay nói cách khác là du lịch mang tính giáo dục, vì vậy, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa du lịch gắn với bảo vệ di sản. Ví như ở nước Anh có hai tổ chức xã hội sở hữu và khai thác các di sản, đó là English Heritage (Di sản Anh) và The National Trust (Niềm tin quốc gia) với các điểm tham quan rộng khắp cả nước. Hai tổ chức này phát hành thẻ hội viên hàng năm với nhiều ưu đãi để khuyến khích nhân dân và du khách nước ngoài. Các cơ sở của hai tổ chức này hầu hết là những di tích lịch sử, các địa phương gắn với thân thế những danh nhân và các khu sinh thái nhân văn. Hoạt động của hai tổ chức này thống nhất với nhau nhưng không trùng lặp. Họ thường xuyên liên lạc với các du khách thành viên. Ở đây, công tác xã hội hóa du lịch đã được thực hiện rất tốt. Tất cả những nhận định trên cho thấy, để bảo tồn, phát huy di sản văn hóa; để phát triển du lịch có lợi cho việc bảo tồn, phát huy những tinh hoa của dân tộc, cần phải lưu ý đến một số yêu cầu: 1) Khi phát triển du lịch, vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa phải luôn được đặt lên trên mục đích kinh tế; 2) Phải xây dựng hệ thống văn bản pháp lý trong quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch một cách cụ thể tương ứng với từng trường hợp kiểu loại di sản; 3) Phát triển du lịch trên cơ sở tôn trọng tính nguyên gốc và môi trường không gian văn hóa của di sản; 4) Thiết lập các tuyến du lịch liên kết để khai thác những nhu cầu khác nhau của du khách với đối tượng hạt nhân là các di sản văn hóa; 5) Phải có những chính sách, cơ chế phù hợp để tái đầu tư cho di sản văn hóa từ những nguồn thu du lịch; 6) Phải đảm bảo các dịch vụ, cơ sở hạ tầng, môi trường du lịch đáp ứng, thoả mãn nhu cầu của du khách; 7) Đẩy mạnh công tác xã hội hóa du lịch thúc đẩy bảo tồn di sản; 8) Phải phát huy vai trò tích cực và chủ động của người dân ở các cộng đồng, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch vào việc tham gia làm du lịch và bảo vệ di sản văn hóa. Di sản văn hóa của nước ta chỉ có thể được bảo tồn, tôn vinh nếu nó mang lại lợi ích cho xã hội đương đại, mà điều đó dễ nhìn nhận thông qua hoạt động du lịch, nhất là khi có một cách thức quản lý, điều hành tốt và hiệu quả trong hoạt động khai thác các di sản văn hóa, có được sự trân trọng, hiểu biết, tính gắn kết giữa hai lĩnh vực này. B.T.T (PGS.TS, Trưởng khoa Gia đình & Công tác xã hội, Trường ĐHVHHN) Tài liệu tham khảo 1. Bùi Hoài Sơn (2009), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 2. Bùi Thanh Thủy (2009), “Nội hàm văn hóa du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (12), tr.45-47. 3. Bùi Thanh Thủy (2009), “Sự thích ứng của văn hóa truyền thống nhìn từ góc độ du lịch”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế Văn hóa trong thế giới hội nhập, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 4. Bùi Thanh Thủy (2013), Tác động của hoạt động du lịch đến đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng cư dân tại các khu du lịch tiêu biểu vùng đồng bằng Bắc Bộ, Đề tài cấp Bộ. 5. Tổng cục du lịch (2007), Du lịch ở các di sản văn hóa thế giới, Hà Nội. Ngày nhận bài: 16 - 6 - 2019 Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 8 - 2019 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmoi_quan_he_giua_bao_ton_phat_huy_gia_tri_di_san_van_hoa_voi.pdf
Tài liệu liên quan