Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, nhu cầu vay tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam để đầu tư vào các công trình đã tăng mạnh trong thời gian qua. Với xu thế đó thì việc nâng cao chất lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp để đảm bảo an toàn trong hoạt động luôn là mục tiêu quan trọng của Sở giao dịch. Do vậy, việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng cho vay luôn là yêu cầu cấp bách không chỉ với Sở giao dịch mà nó còn có ý nghĩa cho cả hệ thống Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam. Do thời gian thực tập có hạn cũng như kiến thức thực tế chưa cao nên bài viết của em không tránh sự thiếu sót, em mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa, cũng như các cán bộ Ngân hàng để bài viết của em được hoàn thiện hơn.

doc84 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và không hoàn thành kịp thời gian đặt ra, do vậy mà các khoản vay tại Sở giao dịch không thể trả nợ theo đúng hạn. Tuy nhiên, có thể xuất phát từ nguyên nhân khách quan hay nguyên nhân thuộc về bản thân các đơn vị thi công xây lắp hay từ các nguyên nhân khác đi chăng nữa thì việc để mức tỷ lệ nợ quá hạn trên 5% là một tỷ lệ quá cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với việc cho vay các đơn vị này. Mức độ rủi ro này sẽ nguy hiểm hơn khi đặt trong quan hệ so sánh với các khoản nợ quá hạn của toàn Sở giao dịch: Bảng 2.12: So sánh chỉ tiêu nợ quá hạn đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 NQH cho vay ngắn hạn các đơn vị TCXL 23,340 62% 18,244 81% 27,547 80% NQH của toàn SGD 37,632 22,340 34,458 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu đã có) Khi đặt trong quan hệ so sánh với tổng dư nợ thì dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp so với dư nợ cho vay ngắn hạn toàn Sở giao dịch thì liên tục giảm từ 49% năm 2003 xuống 23% trong năm 2005. Nhưng xét về chỉ tiêu nợ quá hạn thì lại liên tục tăng từ 62% đến 81%, con số này thể hiện mức độ rủi ro cực kỳ nguy hiểm cho Sở giao dịch trong khi cho vay trong lĩnh vực này không phải chiếm tỷ trọng cao nhất, bởi: Bảng 2.13: So sánh nợ quá hạn giữa các đơn vị thi công xây lắp với các ngành khác tại Sở giao dịch đơn vị: tỷ đồng Ngành Năm 2004 Năm 2005 Dư nợ Nợ quá hạn Dư nợ Nợ quá hạn Cơ khí 201,365 0 183,721 0 Dầu khí 935,124 0 847,401 0 Điện 165,462 0 236,611 0 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2004& 2005) Với sự so sánh này, dư nợ cho vay ngắn hạn tại Sở giao dịch lớn nhất thuộc về ngành điện vào năm 2005 đã lên tới 847,401 tỷ đồng cao hơn gần gấp hai lần so với dư nợ cho vay xây lắp, tiếp ngay sau đó là các ngành cơ khí và điện nhưng lại không phát sinh bất kỳ khoản nợ quá hạn nào. Xét trên thực tế thì hoạt động của các ngành nêu trên có thuận lợi hơn nhiều so với hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, nhưng với những số liệu được phản ánh trên đã đặt ra câu hỏi về tình hình sử dụng vốn vay của các đơn vị này cũng như việc quản lý vốn vay của Sở giao dịch như thế nào? Trên thực tế, hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp còn nhiều biểu hiện tiêu cực, cụ thể: Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp xây lắp đang tồn tại chủ yếu dưới sự kiểm soát và bao cấp của Nhà nước, do đó những công trình lớn được xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách đều do các doanh nghiệp Nhà nước đảm nhận. Tuy nhiên, có một thực tế đang diễn ra phổ biến hiện nay ở Việt Nam đó là: một doanh nghiệp nhà nước trúng thầu thi công công trình xây dựng bằng vốn ngân sách, nhưng công ty này không làm trực tiếp mà lại bán lại hợp đồng thi công cho một doanh nghiệp khác để kiếm chênh lệch, thường sau vụ bán này doanh nghiệp đó đã có được 15% giá trị công trình mà không phải tốn công sức, câu hỏi đặt ra ở đây là doanh nghiệp mua lại hợp đồng thi công đó làm theo đúng thiết kế thì liệu có lãi hay không? và câu trả lời của các công ty này là có hàng trăm cách luồn lách để giảm chi phí xây dựng. Một thực tế đau buồn đang diễn ra phổ biến với bất kỳ công trình nào ở Việt Nam là nếu kiểm tra lại tất cả các công trình đã được thi công thì không có một công trình nào làm đúng thiết kế, nhà thầu không ăn gian nhiều thì cũng ăn gian ít, có nhiều cách tuỳ theo từng công trình mà có thể ngụy trang cho việc này, ví dụ: với công trình làm đường, nếu theo thiết kế lớp đá nền đường được thiết kế có độ dày 45 cm, nếu đào lên kiểm tra lại thực chất chỉ là 35 cm là cao. Dù sao đây cũng chưa phải là cách nguy hiểm nhất bởi các nhà thầu này còn thay đổi chủng loại vật liệu khó phát hiện hơn như: thay vì sử dụng đất pha nhiều đá để làm nền móng cho đường thì các nhà thầu sử dụng đất không pha hay pha ít đỡ tốn tiền, hoặc mua xi măng Trung Quốc nhưng lại khai là xi măng Thái Lan,.... nói chung là có nhiều cách rút ruột công trình mà chúng ta không thể liệt kê và biết hết được. Tuy nhiên, những cách rút ruột công trình trên không thể áp dụng được vào một số công trình quan trọng như đập thuỷ điện, cống ngăn nước,.... các nhà thầu thường không dám bớt xén nguyên vật liệu vì như vậy sẽ gây tai hoạ và dễ bị điều tra hơn. Tuy nhiên, họ vẫn gian lận được bằng cách đút lót với người tư vấn thiết kế để vẽ ra những biện pháp như: thi công rất phức tạp, cần huy động nhiều trang bị, xe cộ,.... nhằm đẩy giá thi công lên càng cao càng tốt. Trong hầu hết các dự án có sử dụng vốn ngân sách nhà nước, thường có một công ty tư vấn được chủ đầu tư thuê để giám sát công việc xây dựng của nhà thầu. Thực chất nếu các giám sát làm việc nghiêm túc thì tình trạng thất thoát vốn do bớt xén nguyên vật liệu sẽ được hạn chế hơn, nhưng thực tế thì các giám sát viên lại dễ bị mua chuộc vì lương của họ rất thấp, và cũng có nhiều trường hợp họ bị ép phải làm ngơ. Vụ tiêu cực điển hình trong thời gian gần đây là việc thanh tra ban quản lý pmu 18 cho thấy tình trạng lãng phí và thất thoát vốn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại Việt Nam đã lên mức báo động. Đây là một thực tế mà cần phải nhìn nhận rõ và đề ra biện pháp cho vay riêng đối với các đơn vị thi công xây lắp để giảm thiểu rủi ro cho Sở giao dịch đồng thời để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay của các đơn vị thi công xây lắp. Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam gắn với tên gọi của nó tức chủ yếu cho vay phục vụ đầu tư phát triển, và thi công xây lắp là rất cần thiết để mở rộng và nâng cấp cơ sở hạ tầng từ đó tạo điều kiện phát triển kinh tế- xã hội, nhưng với tỷ lệ nợ quá hạn của ngành xây lắp chiếm lên tới 81% tổng nợ quá hạn của toàn Sở giao dịch và xét trong tương quan với dư nợ và nợ quá hạn các ngành khác, đồng thời với thực trạng đang diễn ra như trên thì vấn đề cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp phải cần được bàn tới và xem xét kỹ hơn. Tất nhiên qua chỉ mình con số 62% hay thậm chí là 81% thì cũng có thể kết luận được chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp là kém, nhưng để có được cái nhìn tổng quan hơn thì chúng ta cũng phải xem xét những nguyên nhân khách quan nữa, và chất lượng này còn phụ thuộc vào tỷ lệ nợ khó đòi. 2.3.3. Tỷ lệ nợ khó đòi Như đã trình bày ở phần lý thuyết những khoản nợ quá hạn sẽ được chia thành: nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (còn gọi là nợ khó đòi). Tỷ lệ nợ khó đòi này cao hay thấp sẽ phản ánh việc xử lý món vay bị chuyển xuống nợ quá hạn của Sở giao dịch như thế nào. Nợ quá hạn được xem là chỉ tiêu quan trọng phản ánh hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, nhưng nó không phản ánh được nguyên nhân khách quan mà khách hàng không thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng như: tiền về tài khoản chậm, do thiên tai,.... vì thế khi đề cập đến chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp thì ngoài chỉ tiêu nợ quá hạn cần phải xem xét chỉ tiêu nợ khó đòi của Sở giao dịch, cụ thể: Bảng 2.14: Tình hình nợ khó đòi của các đơn vị thi công xây lắp đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Nợ khó đòi 1,958 1,347 2,579 Tỷ lệ nợ khó đòi/ dư nợ cho vay 0,43% 0,35% 0,52% Tỷ lệ nợ khó đòi/ nợ quá hạn 8,3% 7,4% 9,4% (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2004& 2005) Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp qua 3 năm đều dưới 1% điều này chứng tỏ các cán bộ của Sở giao dịch đã có nỗ lực để thu hồi những món vay đã bị chuyển xuống nợ quá hạn, do vậy mà việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho những khoản không thể thu hồi được là ít đi. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là Sở giao dịch nên duy trì tỷ lệ nợ khó đòi ở mức độ này bởi hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp hiện nay có nhiều tiêu cực mà trên các phương tiện thông tin đại chúng đang hàng ngày lên án và trong tương lai nếu Sở giao dịch không có biện pháp mạnh mẽ hơn thì nguy cơ không thu hồi được khoản gốc của món vay là cao. 2.3.4. Lợi nhuận trước thuế Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam là một doanh nghiệp do vậy hoạt động của ngân hàng mục tiêu đầu tiên cũng là tìm kiếm lợi nhuận, lợi nhuận càng cao chứng tỏ ngân hàng này hoạt động có hiệu quả. Do vậy, nếu xem xét chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp mà không đề cập đến lợi nhuận thu được hoạt động này thì việc đánh giá sẽ không đầy đủ. Bảng 2.15: Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 TĐ % TĐ % TĐ % LNTT từ cho vay ngắn hạn đối với TCXL 23 14 8,5 8 15 13 LNTT toàn SGD 164 100 104 100 117 100 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2004& 2005) Với dư nợ cho vay chiếm tới 46% năm 2003 và 23% vào năm 2005 thì lợi nhuận thu được chỉ chiếm khoảng 8% đến 14% là quá ít. Việc lợi nhuận giảm mạnh từ năm 2003 xuống năm 2004 do trong năm 2004 dư nợ cho vay đối với lĩnh vực này giảm gần 70 tỷ trong khi các khoản nợ quá hạn lại tăng cao, con số này có tăng nhẹ trong năm 2005 nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với 2003 trong khi dư nợ lại tăng cao điều này có thể giải thích do: hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp trong năm 2005 có nhiều biểu hiện tiêu cực, dẫn đến thời gian hoàn thành công trình bị kéo dài, vốn vay ngân hàng không thể trả được. Người ta thường nói “rủi ro cao thì lợi nhuận cao” nhưng lại không đúng trong trường hợp này bởi nguy cơ mất vốn của Sở giao dịch là cao trong khi đó lợi nhuận mang lại thì quá thấp. Do vậy, nếu dựa trên dư nợ và lợi nhuận thu được của Sở trong hoạt động này thì chất lượng cho vay chưa được đánh giá cao. Để phân tích kỹ hơn về lợi nhuận này bảng mức sinh lời sau sẽ chỉ ra rõ hơn: Bảng 2.16: Mức sinh lời trên một đồng vốn cho vay đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Dư nợ 454,741 384,887 494,353 LNTT 23 8,5 15 Tỷ lệ 5,06% 2,2% 3,1% (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2004& 2005) Ta có thể thấy khi cho vay đối với các đơn vị thi công xây l một đồng vốn cho vay thu được 0,05 đồng lợi nhuận khi cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp, con số này giảm dần qua hai năm và còn 0,03 đồng trong năm 2005, nhìn chung các con số này đang còn ở mức độ khá khiêm tốn. Tất nhiên, qua tình hình thực trạng của các đơn vị thi công xây lắp được phân tích ở trên ta cũng không thể đòi hỏi lợi nhuận này cao hơn, lợi nhuận cao hay thấp là phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động kinh doanh của đơn vị đó nhưng chính qua con số này nó lại phản ánh được chất lượng cho vay của Sở giao dịch đối với các đơn vị thi công xây lắp còn nhiều yếu kém. 2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DỊCH- NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM. 2.4.1. Thành tựu đạt được Thực tế hiện nay, các công trình xây dựng cơ bản luôn gặp phải một số vấn đề hết sức khó khăn là nguồn vốn thanh toán không kịp thời, đầy đủ, nhất là đối với phần khối lượng phát sinh thêm do chậm phê duyệt diều chỉnh dự toán nên công tác thanh toán không thực hiện được. Điều này đã gây ra khó khăn rất lớn cho các đơn vị thi công xây lắp, đòi hỏi các đơn vị này phải đảm bảo có nguồn tài chính ổn định, đầy đủ mới có thể tồn tại và phát triển được. Để giải quyết bài toán này, ngoài nguồn lực của các đơn vị thì nguồn vốn vay tại Ngân hàng là hết sức quan trọng, có tính chất quyết định đến hoạt động của các đơn vị đó. Sở giao dịch tự hào là nơi cung cấp nguồn lực tài chính để cho hoạt động các đơn vị này không bị gián đoạn, hoàn thành công trình đúng thời gian, từ đó giúp việc phát triển cơ sở hạ tầng của cả nền kinh tế. Không chỉ đơn thuần là trợ giúp, hậu thuẫn về mặt tài chính, Sở giao dịch đã có những tư vấn sâu sắc, những lời khuyên chí tình về quản lý tài chính giúp các đơn vị vay vốn đưa ra quyết sách đúng đắn trong đầu tư, hạn chế tối thiểu được các rủi ro trong kinh doanh, cùng nhau bảo toàn và phát triển đồng vốn. Trong hoạt động cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp, Sở giao dịch luôn thực hiện đúng các quy định của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam như: công văn 925/CV- TDDV1 ban hành 03- 04- 2003 về việc cho vay hỗ trợ ngắn hạn phục vụ thi công xây lắp, công văn số 6676/CV- TD1 ngày 06- 12- 2005 về việc tiếp tục tăng cường chấn chỉnh công tác tín dụng trong lĩnh vực xây lắp,....Bên cạnh đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động này Ban giám đốc Sở giao dịch đã đưa ra một số quy định cụ thể: quyết định 791/QĐ- SGD ban hành 28- 07- 2003 về việc cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp, công văn hướng dẫn các thủ tục cho vay vốn lưu động, quản lý và kiểm tra các đơn vị thi công xây lắp,.... Sở giao dịch vẫn đảm bảo quan hệ tốt với khách hàng lâu năm như: Tổng công ty Sông Đà, tổng công ty xây dựng công trình giao thông. Ngoài ra, Sở giao dịch không ngừng nâng cao đổi mới chất lượng phục vụ để thu hút thêm khách hàng. Vào cuối năm 2005, Sở giao dịch đã ký thoả thuận hợp tác với Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà Hà Nội và Tổng công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng đô thị Hà Nội. Sự hợp tác của Sở giao dịch với các Tổng công ty đều mang tính hỗ trợ toàn diện trên các mặt vì mục tiêu phát triển bền vững và lâu dài trên nguyên tắc bám sát định hướng phát triển kinh tế, môi trường luật pháp, cơ chế chính sách của Đảng và Nhà Nước. Trong quá trình cho vay, Sở giao dịch cũng đề ra phương pháp quản lý đối với từng công trình khác nhau. Hạn mức cho vay đối với từng công trình đang được định dạng, các đơn vị có dư nợ lớn với tình hình tài chính khó khăn như: công ty 246, 230,... được thiết lập những khuôn khổ quản lý mới, nguồn vốn thanh toán cho các công trình mới cũng như cũ được cam kết rõ ràng; giá trúng thầu và giá dự toán của chủ đầu tư được xem xét khả năng lỗ lãi của công trình; tiến độ thi công công trình, sản lượng nghiệm thu và kiểm tra thực tế công trình được xác lập với sự sát sao mới. Từng công trình được theo dõi trên Excel với các thông số dư nợ cho vay, chủ đầu tư chưa thanh toán, tiến độ thanh toán, những khó khăn và thuận lợi trong từng công trình được khách hàng và Sở giao dịch cùng giải quyết. Bên cạnh những thành tựu trên thì việc xử lý các khoản bị chuyển xuống nợ quá hạn tốt, tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn dưới 1% đã thể hiện sự cố gắng của các cán bộ Sở giao dịch trong việc thu hồi nợ, hạn chế tối đa việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp. Với thực trạng của các đơn vị thi công xây lắp như hiện nay thì việc hạn chế được nhiều các khoản vay có nguy cơ mất vốn đã thể hiện sự cố gắng của toàn Sở giao dịch. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì vẫn còn nhiều hạn chế mà Sở giao dịch cần phải khắc phục trong thời gian tới. 2.4.2. Những hạn chế Hiện nay, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam đang phát triển do vậy mà nhu cầu vay vốn cũng tăng mạnh. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của Sở giao dịch và tuân thủ theo quy định cho vay của Ngân hàng Nhà Nước thì Sở giao dịch không thể đáp ứng đủ nhu cầu vay của khách hàng, do vậy trong rất nhiều trường hợp việc thi công các công trình gặp nhiều khó khăn Nhu cầu tài chính của các đơn vị thi công xây lắp trong mỗi lần vay vốn tại Sở giao dịch là rất nhiều. Tuy nhiên, hầu hết ở các đơn vị này nguồn vốn tự có thấp, giá trị tài sản đảm bảo nhỏ (chủ yếu là máy móc thiết bị đã qua sử dụng, hao mòn theo thời gian lớn) nên tiềm ẩn nhiều rủi ro cho Sở giao dịch. Mặc dù vậy, trong hoạt động cho vay đối với các đơn vị này bản thân Sở giao dịch cũng có một số hạn chế sau: Sở giao dịch chưa thu hút được nhiều khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, khách hàng tập trung chủ yếu của Sở giao dịch là các Tổng công ty lớn thuộc khu vực kinh tế quốc doanh, do đó mức độ rủi ro là cao. Mặc dù hoạt động lĩnh vực thi công xây lắp gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng, nhưng Sở giao dịch đã để xảy ra quá nhiều các khoản nợ quá hạn lên đến mức trên 5%, và tỷ lệ nợ quá hạn các khoản cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp chiếm tỷ trọng khá cao (81%) trên tổng nợ quá hạn của toàn Sở giao dịch trong khi đó dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị này chỉ chiếm có 46% vào năm 2003 và tụt xuống 23% vào năm 2005, do đó chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp còn chưa cao. Ngoài ra, lợi nhuận thu được từ hoạt động này chưa cao, không cân xứng với dư nợ cho vay qua các năm trong khi rủi ro thì lại quá cao. Số liệu báo cáo tổng hợp để theo dõi về cho vay xây lắp chưa chính xác do tiêu thức báo cáo được người lập báo cáo và Sở giao dịch chưa đồng nhất nên số liệu báo cáo có thể chỉ là dư nợ liên quan trực tiếp đến cho vay thi công xây lắp, có thể bao gồm cả dư nợ cho vay BT-BOT- Đầu tư hạ tầng, khu đô thị, cũng có thể là tổng dư nợ theo từng khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xây lắp (trong đó có cả dư nợ cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác),... Do vậy số liệu tổng hợp chưa phản ánh đúng bản chất của vấn đề cho vay xây lắp. 2.5. NGUYÊN NHÂN Bất kỳ một hoạt động nào đều xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Tuy nhiên, chất lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp chưa được cao ngoài bản thân Sở giao dịch thì nó cũng chủ yếu phụ thuộc nhiều vào bản thân các đơn vị thi công xây lắp, và ngoài ra còn nhiều yếu tố môi trường xung quanh, cụ thể: 2.5.1. Nguyên nhân thuộc về Sở giao dịch Phương thức cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp mới chỉ dừng lại có hai phương thức chủ yếu là cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo từng món, chưa đa dạng hoá được phương thức cho vay nên mức độ rủi ro cao. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay mà Sở giao dịch áp dụng trong lĩnh vực xây lắp cao hơn so với các ngành khác, ví dụ như: trong những tháng cuối năm 2005 Sở đã nâng lãi suất cho vay trong ngành này lên mức 0,93%/ tháng, trong khi đó các ngành như dầu khí, cơ khí, điện,..... chỉ khoảng 0,84%/ tháng, tất nhiên các ngành nói trên có khoản tiền gửi tại Sở giao dịch lớn nên được ưu đãi về lãi suất cho vay hơn xây lắp, nhưng sự chênh lệch về lãi suất này khá cao (0,1%/ tháng) do đó tạo sự không bình đẳng giữa các ngành kinh tế với nhau. Việc Sở giao dịch để xảy ra nhiều khoản nợ quá hạn do chất lượng thẩm định dự án đặc biệt khâu thẩm định vốn đầu tư chưa cao, do đó trong nhiều trường hợp Sở giao dịch cho vay khi nguồn vốn thanh toán chưa rõ ràng vì thế mà rủi ro càng cao. Đồng thời, công tác kiểm tra, giám sát tiến độ thi công công trình cũng như tình hình hoạt động đối với các đơn vị thi công xây lắp của Sở giao dịch còn nhiều lỏng lẻo, nên tình trạng sử dụng vốn lãng phí và kém hiệu quả đã không được phát hiện sớm và có biện pháp xử lý kịp thời. Cán bộ Sở giao dịch còn quá trẻ (tuổi đời trung bình là 27 tuổi) đặc biệt là cán bộ tín dụng, mặc dù có trình độ chuyên môn cao, năng động và nhiệt tình trong công việc nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên chưa thích ứng kịp với hoạt động cho vay đầy rủi ro này. Đặc biệt là việc nhận diện khách hàng gian lận của cán bộ tín dụng trong quá trình phân tích còn yếu. Vì đối với hoạt động cho vay đầy phức tạp này thì ngoài trình độ học vấn đơn thuần thì cần có nhiều kinh nghiệm thực tế, khả năng tổng hợp, phân tích thông tin trên nhiều khía cạnh thì mới có cách đánh giá chính xác về khách hàng xây lắp này. Hệ thống thông tin phục vụ quản lý rủi ro tín dụng còn chưa chính xác và chưa đầy đủ. Việc cung cấp thông tin phục vụ cho quản lý rủi ro của Sở giao dịch còn nhiều vấn đề đáng phải quan tâm. Đó là chưa có một quy định cụ thể về việc khai thác, xử lý, sử dụng, và lưu trữ thông tin. Việc tìm kiếm thông tin không thường xuyên và đôi khi còn thực hiện theo kiểu chấp vá. Trong lĩnh vực thi công xây lắp, mặc dù có nhiều nguồn thông tin hỗ trợ từ phía các cơ quan như: Bộ Tài Chính, Bộ Giao Thông, Bộ Xây Dựng, Ban thanh tra,.... nhưng việc thu thập, phân tích và xử lý thông tin còn dựa nhiều vào giác quan, cũng như kinh nghiệm của cán bộ. Do đó, nếu sự yếu kém trong thông tin được khắc phục kịp thời thì việc hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay xây lắp nói riêng và hoạt động tín dụng của toàn Sở giao dịch nói chung sẽ đạt hiệu quả cao hơn. 2.5.2. Nguyên nhân thuộc về các đơn vị thi công xây lắp Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều đơn vị hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp do vậy để được trúng thầu các đơn vị này thường phải cạnh tranh gay gắt với nhau, mà phương thức cạnh tranh chủ yếu thường bỏ giá thầu thấp hơn mức giá trị công trình để được trúng thầu. Do vậy, để đảm bảo hoàn thành xong công trình mà vẫn có được lợi nhuận thì các đơn vị này luôn tìm cách cắt giảm nhiều chi phí, vì thế chất lượng thi công công trình kém, công trình xây dựng xong một thời gian ngắn là phải tiến hành sửa chữa, nâng cấp. Chất lượng thi công kém cộng với mô hình tổ chức không chặt chẽ, quy chế trong nội bộ ngành chưa phù hợp tạo ra nhiều khe hở, phát sinh ra nhiều vụ tiêu cực gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí vốn của Nhà Nước, vốn vay Ngân hàng thì không thể trả được đúng hạn Thực tế tại Sở giao dịch, số nợ tập trung nhiều nhất vẫn là ở các công trình dự án giao thông, thuỷ lợi. Một mặt, do sự cấp bách phải thực hiện khi mùa mưa lũ đến gần nên các nhà thầu cho khởi công hoặc đẩy nhanh tiến độ thi công trong khi chưa được bố trí nguồn tài chính. Mặt khác, quan niệm của các nhà thầu các công trình trọng điểm của địa phương sử dụng vốn ngân sách thì sớm hay muộn sẽ được thanh toán nên họ thường ứng trước vốn vay Ngân hàng để thi công. Tuy nhiên, có không ít trường hợp, làm xong công trình nhưng chưa nhận được tiền thanh toán, thậm chí ở nước ta có nhiều công trình sử dụng vài năm nhưng nhà thầu vẫn không được thanh toán trong khi lãi vay của Ngân hàng vẫn phải trả, nợ gốc thì liên tục phải gia hạn do đó xảy ra các khoản nợ quá hạn là điều tất yếu, cụ thể cho nguyên nhân này là các khách hàng như: Công ty công trình giao thông 128, 842, 810, 230, Tổng công ty xây dựng Thuỷ lợi 1,..... Bên cạnh đó, do tình hình tài chính của các đơn vị thi công xây lắp không lành mạnh, tồn tại nhiều vi phạm về các quy định hạch toán kế toán, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay của Sở giao dịch và vốn chiếm dụng (vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng), do vậy nguy cơ xảy ra rủi ro là cao. Có rất nhiều nguyên nhân từ phía các đơn vị này, nhưng nguyên nhân được xem là quan trọng nhất là kinh doanh yếu kém, sử dụng vốn vay sai mục đích, sử dụng vốn sai mục đích trong các đơn vị thi công xây lắp thường gặp như: theo trong hợp đồng tín dụng khách hàng vay tiền mặt để chi lương thì phần chi lớn lại là thanh toán nguyên vật liệu, vay vốn ngắn hạn để bổ sung sự thiếu hụt tài chính tạm thời thì lại dùng vào đầu tư tài sản cố định,.... từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng. 2.5.3. Môi trường luật pháp Luật đấu thầu quy định không rõ ràng, luật đưa ra thì có rất nhiều quan điểm đề ra nên sửa đổi, bổ sung ý kiến khác vào, cho đến nay thì luật này vẫn chưa được hoàn chỉnh dẫn đến xảy ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị thi công xây lắp với nhau. Có rất nhiều quy định hiện hành liên quan đến lĩnh vực thi công xây lắp nhưng cái thiếu lớn nhất ở Việt Nam là chế tài xử phạt chưa nghiêm, cho nên những vụ tiêu cực vẫn liên tiếp xảy ra. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý trong cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp còn chưa đầy đủ, thiếu các văn bản hướng dẫn, cụ thể: Về cơ sở pháp lý cho tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp của các đơn vị thi công xây lắp chủ yếu là máy móc thiết bị thường xuyên được dùng đến chưa có bắt buộc phải đăng ký sở hữu, đăng ký giao dịch đảm bảo đối với quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nên rất khó khăn và trong nhiều trường hợp việc nhận tài sản đảm bảo trên chỉ là hình thức Về phát mại tài sản thế chấp: Thời gian phát mại dài, thủ tục rườm rà,chi phí cao, nhiều trường hợp Ngân hàng không có lợi gì trong việc phát mại tài sản của các đơn vị này. Nhìn chung ở Việt Nam hệ thống pháp luật đang còn yếu kém, quản lý của các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo. Do vậy, để hạn chế bớt vụ việc tiêu cực liên quan đến lĩnh vực này thì trong tương lai pháp luật Việt Nam còn phải thay đổi và bổ sung nhiều hơn nữa. 2.5.4. Sự biến động trên thị trường Thị trường là nơi mua bán trao đổi hàng hoá lẫn nhau. Thị trường được xem là rào cản và thách thức lớn đối với các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh và chịu ảnh hưởng rất nhiều của sự biến động trên thị trường thế giới và việc thay đổi chính sách của Nhà nước. Trong năm 2005, kinh tế Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp như: tỷ lệ lạm phát cao, đồng USD mất giá, giá xăng dầu, sắt thép, xi măng những vật liệu chính được sử dụng trong việc thi công các công trình đều tăng cao, giá vàng không ổn định đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Sở giao dịch cũng như các đơn vị thi công xây lắp, và gây ra thiệt hại không nhỏ đến quá trình thi công của các đơn vị này. Do vậy, việc bình ổn giá các mặt hàng trên thị trường được xem là giải pháp giúp tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị sẽ ổn định hơn Tóm lại: Cùng với nhu cầu đầu tư nhiều để phát triển đất nước, Sở giao dịch đã có những đóng góp nhất định vào công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng, khối lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp liên tục tăng cả về số lượng và chất lượng của món vay. Thông qua việc tìm hiểu thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam cho ta thấy sự cố gắng và hạn chế của Sở giao dịch đang gặp phải. Đồng thời, qua thực trạng trên cho ta cái nhìn tổng quát về tình hình hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp hiện nay. Để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị này, em xin đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị trong chương 3. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DICH- NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DỊCH TRONG NĂM 2006. 3.1.1. Phương hướng kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006 Trước tình hình môi trường kinh doanh đầy thách thức trong năm 2006 và những kết quả đạt được năm 2005 mà Sở giao dịch đã đề ra kế hoạch kinh doanh năm 2006 thông qua các chỉ tiêu sau: Bảng 3.1. Mục tiêu hoàn thành trong năm 2006 Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Thực hiện 2005 Kế hoạch 2006 - Lợi nhuận trước thuế 117 160 - Huy động vốn bình quân 8.704 10.150 - Giới hạn tín dụng cuối kỳ 5.674 6.800 - DPRR trích trong năm 51 50 - Tỷ lệ nợ xấu (%) 4,3 5 - Thu dịch vụ ròng 32,8 41 - Thu nợ đã hạch toán ngoại bảng 6,11 8,5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm2004 &2005) Huy động vốn: Mặc dù tình hình huy động vốn gặp nhiều khó khăn nhưng Sở giao dịch vẫn đề ra kế hoạch huy động được 12.550 tỷ đồng tăng 1.898 tỷ đồng (18%) so với năm 2005 Công tác tín dụng: Phấn đấu năm 2006 dư nợ cuối kỳ đạt 6.800 tỷ đồng, trong đó tỷ trọng có tài sản đảm bảo chiếm 60% trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn là 1,5% và trích lập dự phòng rủi ro là 50 tỷ đồng Công tác dịch vụ: Đề ra mục tiêu đạt được 41 tỷ đồng trong điều kiện phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng như hiện nay thì Sở giao dịch hiểu rằng cần phải triển khai nhiều dịch vụ mới mang tính đột phá nhưng vẫn có nét đặc trưng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam như: gói dịch vụ BIDV- Smart@account, thẻ VIP, thẻ Power,... Dự kiến trong năm 2006 Sở giao dịch phát hành thêm 10.000 thẻ ATM, lắp đặt thêm 06 máy ATM tại Quán Sứ, Phố Huế, Lò Đúc, Hàn Thuyên, Lê Duẩn, Bạch Mai. Công tác khác: Phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ để lập thành tích kỷ niệm 15 năm thành lập Sở giao dịch và 50 năm thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch. 3.1.2.1. Mục tiêu đặt ra đối với hoạt động cho vay các đơn vị thi công xây lắp - Nắm bắt được thực chất năng lực tài chính, đặc điểm quản lý sản xuất kinh doanh và tổ chức thi công của các đơn vị thi công xây lắp để có biện pháp quản lý tín dụng phù hợp. - Đảm bảo vốn cho vay có khả năng thu hồi về đúng hạn, giá thầu hợp lý, có lãi. Chỉ cho vay các công trình có nguồn vốn thanh toán rõ ràng và đúng kế hoạch, tiền thu từ các công trình cho vay phải được chuyển về tài khoản tại Sở giao dịch để chủ động thu nợ, không cho vay vượt quá chi phí dự kiến của công trình. - Đảm bảo tiền vay được sử dụng thi công các công trình và có sản lượng - Nắm bắt kịp thời tình hình nghiệm thu, thanh toán và chi phí giá thành, hiệu quả kinh tế của từng công trình nói riêng và của toàn Công ty nói chung để có biện pháp quản lý tín dụng kịp thời. - Hồ sơ tín dụng lưu trữ đủ các bằng chứng về cơ sở phát vay và kết quả sử dụng vốn vay. 3.1.1.2. Chỉ tiêu hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch trong năm 2006. - Phấn đấu tỷ lệ dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp đạt khoảng 560 tỷ đồng. chiếm tỷ trọng trên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn của toàn Sở giao dịch trong năm 2006 đạt 30%. - Giảm tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn trong lĩnh vực này xuống còn 5%. - Mở rộng cho vay trong lĩnh vực thi công xây lắp ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp cổ phần. - Kiên quyết không cho vay đối với đơn vị làm ăn kém hiệu quả, hoặc những công trình mà nguồn vốn thanh toán không rõ ràng. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DỊCH 3.2.1. Thay đổi một số chính sách cho vay ngắn hạn Việc đề ra chính sách cho vay là tùy thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Sở giao dịch là đơn vị có thế mạnh cho vay đối với lĩnh vực thi công xây lắp nhưng vẫn còn một số bất cập trong chính sách cho vay của Sở giao dịch cần thay đổi như: Chính sách lãi suất: Lãi suất được xem là công cụ cạnh tranh chủ yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, việc đề ra lãi suất cho vay được căn cứ từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong hai năm 2004 và 2005 do lãi suất huy động tăng mạnh nên lãi suất cho vay của các ngân hàng đã được đẩy lên cao. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần thực trạng mặc dù các đơn vị thi công xây lắp cũng có mối quan hệ lâu dài với Sở giao dịch nhưng lãi suất mà Sở giao dịch áp dụng đối với các đơn vị này thường cao hơn so với ngành dầu khí, điện,.... điều này cũng dễ hiểu khi chính ngành đó có số dư tiền gửi lớn tại Sở tạo điều kiện cho Sở có nhiều vốn để đầu tư (ví dụ: như số dư tiền gửi của dầu khí trong năm 2005 là 1.000 tỷ đồng). Tuy nhiên, việc duy trì lãi suất khá cao (trên 0,9%/ tháng) trong những tháng cuối năm 2005 đã tạo ra sự không bình đẳng giữa các ngành trong nền kinh tế. Chính vì vậy, mà Sở giao dịch nên phân chia ra từng nhóm khách hàng, cụ thể như đối với khách hàng có mối quan hệ lâu dài, có uy tín và trả nợ đúng hạn cần được hưởng mức lãi suất ưu đãi hơn, điều này sẽ trở thành động lực giúp cho các đơn vị thi công xây lắp làm ăn có hiệu quả hơn để duy trì được mối quan hệ và được hưởng những ưu đãi kèm theo của Ngân hàng. Phát triển nhiều phương thức cho vay: Đa dạng hoá phương thức cho vay là một biện pháp chủ động nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Việc đa dạng hoá phương thức cho vay sẽ giúp cho Sở giao dịch thu hút được nhiều khách hàng hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp hơn, vì thế Sở giao dịch không phải tập trung quá nhiều vốn vào một số khách hàng lớn, theo nguyên tắc: “không bỏ trứng vào một giỏ”, do vậy sẽ phân tán rủi ro trên nhiều món vay. Cho vay trong lĩnh vực thi công xây lắp là thế mạnh vốn có của Sở giao dịch, nhưng trong thời gian qua thì phương thức cho vay ngắn hạn mà Sở giao dịch đang áp dụng cho các đơn vị này còn quá ít chủ yếu là cho vay theo món (cho vay theo từng lần) và cho vay theo hạn mức tín dụng. Đồng thời Sở giao dịch tập trung vào quá nhiều khách hàng truyền thống là các Tổng công ty lớn thuộc khu vực kinh tế quốc doanh như: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty xây dựng và phát triển nhà Hà Nội,..... Do vậy để đảm bảo hai yếu tố song hành là an toàn và sinh lời thì trong thời gian tới Sở giao dịch cần có chiến lược khai thác thêm nhiều phương thức cho vay ngắn hạn khác như: cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển,.... đối với nhiều đối tượng khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đặc biệt là các công ty cổ phần. Đa dạng hoá hình thức đảm bảo tiền vay: Hiện nay, tại các ngân hàng thương mại Việt Nam số tiền vay của khách hàng chủ yếu được căn cứ dựa trên giá trị của tài sản đảm bảo. Đối với các đơn vị thi công xây lắp thì giá trị của tài sản đảm bảo là rất thấp, do đó tài sản đảm bảo cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu vay của các đơn vị này. Mặc dù, theo nghị định 178/ 1999/ NĐ- CP thì các ngân hàng thương mại có thể áp dụng hình thức cho vay không cần có tài sản đảm bảo, nhưng cho đến nay việc cho vay không cần tài sản đảm bảo là rất ít đặc biệt trong lĩnh vực thi công xây lắp, bởi hoạt động này tiềm tàng rất nhiều rủi ro cho Sở giao dịch. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế trong tương lai thì nhu cầu đầu tư xây dựng nhiều và nếu căn cứ vào giá trị tài sản đảm bảo thì các đơn vị xây lắp chắc chắn không đủ vốn để hoạt động. Do vậy, Sở giao dịch nên áp dụng hình thức đảm bảo tiền vay theo từng đối tượng khách hàng, ví dụ: đối với khách hàng được xếp loại A* (có tiềm lực mạnh, năng lực quản trị tốt, hoạt động hiệu quả, thiện trí trả nợ, khách hàng và ngân hàng có mối quan hệ tốt và lâu dài) và dự án vay vốn có tính khả thi cao thì nên áp dụng hình thức cho vay không cần có tài sản đảm bảo; đối với khách hàng xếp loại B (tức khách hàng có thể bị hạn chế về nguồn tài trợ nhưng nhìn chung được coi là hấp dẫn với ngân hàng, có quan hệ lâu dài và tốt với ngân hàng) thì giá trị tài sản đảm bảo áp dụng bằng 50% giá trị của món vay,.... Việc áp dụng các hình thức tài sản đảm bảo đối với từng loại khách hàng khác nhau do Ban giám đốc Sở giao dịch quyết định. Việc đa dạng hoá hình thức đảm bảo tiền vay sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị xây lắp có đủ vốn để hoạt động ổn định, đồng thời nâng cao vị thế và hình ảnh của ngân hàng. 3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định vốn đầu tư Để đưa ra quyết định có cho vay hay không đối với từng khách hàng thì công tác phân tích, đánh giá được thực hiện rất kỹ càng. Nó trải qua nhiều khâu từ tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ, kiểm tra, đánh giá, thẩm định năng lực hoạt động, năng lực hành vi,....diễn ra chặt chẽ. Bởi vì, nếu Ngân hàng đánh giá, thẩm định không chính xác và từ chối quan hệ tín dụng với những khách hàng tốt thì sẽ có ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của Ngân hàng. Ngược lại, khi Ngân hàng chấp nhận quan hệ tín dụng với khách hàng làm ăn không hiệu quả thì sẽ tiềm ẩn rủi ro có thể xảy ra. Do đặc thù riêng của lĩnh vực thi công xây lắp có liên quan đến vốn đầu tư như: nguồn đầu tư, tổng số vốn được đầu tư vào công trình,...có ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thi công cũng như chất lượng công trình, do đó ảnh hưởng đến tình hình trả nợ cho ngân hàng. Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng công tác thẩm đinh vốn đầu tư là rất cần thiết khi Sở giao dịch quyết định đầu tư vào một dự án nào đó. Việc thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện, vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu, dẫn đến việc không cân đối được nguồn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Xác định tổng vốn đầu tư sát thực với thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án. Cán bộ thẩm định phải xem xét, đánh giá tổng vốn đầu tư của dự án đã được tính toán hợp lý hay chưa, tổng vốn đầu tư đã tính đủ các khoản cần thiết chưa, cần xem xét các yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lượng, dự phòng việc thay đổi tỷ giá ngoại tệ (nếu dự án có sử dụng ngoại tệ),.... Trên cơ sở dự án tương tự đã thực hiện và được Sở giao dịch đúc rút ở giai đoạn thẩm định dự án đầu tư (về phương án công nghệ, về các hạng mục thực sự cần thiết và chưa cần thiết trong giai đoạn thực hiện đầu tư,...), cán bộ thẩm định sau khi so sánh nếu thấy có sự khác biệt lớn ở bất kỳ nội dung nào thì phải tập trung phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra nhận xét của mình. Từ đó, đưa ra cơ cấu vốn đầu tư hợp lý mà vẫn đảm bảo đạt được mục tiêu dự kiến ban đầu của dự án để làm cơ sở xác định mức tài trợ tối đa mà Sở giao dịch nên tham gia vào dự án, do đó mà rủi ro khi cho vay sẽ giảm đi. Mặt khác, trong quá trình thẩm định các cán bộ cũng phải tìm hiểu xem công trình đó được tài trợ bằng nguồn vốn nào, có đảm bảo hay không, và Sở giao dịch cần phải kiên quyết không cho vay đối với những công trình mà nguồn vốn thanh toán không rõ ràng. Có như vậy thì khả năng trả nợ của khách hàng mới có thể chắc chắn được và hạn chế rủi ro cho ngân hàng. 3.2.3. Nâng cao trình độ bản thân ngân hàng Trong hoạt động cho vay dù dưới hình thức hay lĩnh vực nào đi nữa thì Sở giao dịch luôn đặt ra nhiều quy định để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, chất lượng cho vay của ngân hàng còn thấp là do còn nhiều nguyên nhân khách quan mà Sở giao dịch cần phải khắc phục. Trước hết về con người: Bất kỳ hoạt động nào thì con người luôn có vị trí trung tâm và đóng vai trò chủ chốt. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng cũng vậy, để món vay đạt chất lượng thì phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của con người thông qua các khâu như: thu thập thông tin đánh giá khách hàng, thẩm định dự án, đánh giá giá trị của tài sản đảm bảo, quá trình giám sát món vay,....Bên cạnh đó, đạo đức của cán bộ cũng không kém phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cho vay bởi nếu người cán bộ thiếu trách nhiệm, không trung thực trong công việc, phẩm chất đạo đức kém dễ có những việc làm tiêu cực. Chính vì thế, bên cạnh việc thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn thì Ban giám đốc cũng cần phải có nhiều buổi thảo luận, giáo dục nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ nhân viên trong Sở. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng cần đưa ra chính sách tiền lương hợp lý để cán bộ chuyên tâm vào công việc, đồng thời các chế độ khen thưởng, phạt đúng lúc và thích đáng để nâng cao tinh thần trách nhiệm của nhân viên, giúp cho nhân viên cảm thấy có sự quan tâm từ đó hiệu quả công việc được nâng cao hơn. Bên cạnh yếu tố con người như trên thì việc cung cấp thông tin phục vụ quản lý rủi ro tín dụng hiện nay tại Sở giao dịch còn nhiều bất cập, đó là chưa có quy định rõ ràng về việc khai thác, xử lý, sử dụng và lưu trữ thông tin. Việc tìm kiếm các thông tin phục vụ công tác tín dụng nói chung và phục vụ công tác hạn chế rủi ro nói riêng không được thường xuyên, việc thiết lập các dữ liệu tín dụng (như dư nợ, nợ quá hạn,....) chủ yếu vẫn bằng phương pháp thủ công do đó mất nhiều thời gian thiết lập, bên cạnh đó các thông tin khách hàng mặc dù được lưu trữ hằng năm nhưng vẫn đơn lẻ, khó sử dụng cho các cán bộ khác. Do vậy, trong thời gian tới Sở giao dịch cần phải xây dựng hệ thống thông tin và lưu trữ thông tin hiện đại, đồng bộ và có hệ thống. Bên cạnh những thông tin do khách hàng cung cấp, thì Sở giao dịch cần chủ động tìm kiếm nhiều thông tin từ các nguồn khác nhau như: bạn hàng chủ yếu, thông tin từ phía các cơ quan ban ngành có liên quan,.... Nếu yếu kém thông tin được khắc phục kịp thời thì việc hạn chế rủi ro tín dụng chắc chắn đạt được kết quả cao hơn. 3.2.4. Tăng cường kiểm tra, giám sát công trình và hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp Công tác kiểm tra giám sát hoạt động của khách hàng là yêu cầu cần thiết và cũng là để đảm bảo an toàn cho chính bản thân ngân hàng. Việc tích cực kiểm tra sẽ giúp cho ngân hàng phát hiện được những sai sót và những vướng mắc mà khách hàng đã, đang và sẽ có khả năng gặp phải, để từ đó sẽ đưa ra những biện pháp hợp lý đảm bảo có lợi cho cả khách hàng và ngân hàng Trước hết là việc kiểm tra tiến độ thi công công trình: Trong quá trình đi kiểm tra công trình cán bộ tín dụng phải so sánh sản lượng thực tế của đơn vị với số lượng mà đơn vị đã báo cáo. Đánh giá phần sản lượng mà đơn vị thi công đã nghiệm thu; phần dở dang là bao nhiêu và tại sao chưa được nghiệm thu? Đồng thời cán bộ tín dụng cũng phải tìm hiểu kế hoạch thi công trong thời gian tới là gì? Và những điều kiện thi công hạng mục mới có thuận lợi và khó khăn gì mà đơn vị thi công có thể phải gặp phải. Bên cạnh đó, các cán bộ tín dụng làm việc trực tiếp với tư vấn giám sát và giám đốc ban điều hành để tìm hiểu về công tác nghiệm thu, thanh toán, nguồn thanh toán của công trình. Tiến hành kiểm tra mục thu, chi để xem khoản vay có được nhập quỹ tiền mặt và có được theo dõi trên sổ quỹ hay không? kiểm tra mục chi và chứng từ kèm theo để xem khoản vay được chi cho mục đích gì và có đúng với mục đích sử dụng vốn vay đã được thoả thuận như trong hợp đồng tín dụng hay không? Ngoài những buổi kiểm tra định kỳ đã được báo trước, thì Sở giao dịch cần phải tăng cường nhiều lần đi kiểm tra đột xuất tại các đơn vị. Sau khi kiểm tra công trình yêu cầu các cán bộ phải lập báo cáo một cách trung thực về tình hình thực tế đang diễn ra ở công trình lên cấp trên để thông qua đó điều chỉnh kỳ hạn cho vay và thu nợ hợp lý. Ngoài việc kiểm tra tiến độ thi công công trình thì công tác giám sát các khoản vay cũng cần được diễn ra thường xuyên hơn. Giám sát các khoản cho vay là quá trình thực hiện các bước công việc sau khi cho vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, hoàn trả nợ gốc, lãi vay đúng hạn, đồng thời thực hiện các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp có nhiều tiêu cực thì Sở giao dịch cần phải tăng cường công tác kiểm tra. Đối với việc giám sát định kỳ: Định kỳ rà soát các nội dung chủ yếu như: đánh giá tình hình tài chính, hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng; xem xét, phân tích việc sử dụng tiền vay, có đúng với sự tuân thủ trong hợp đồng tín dụng hay không. Trong quá trình giám sát, cán bộ cần phải điều tra nguyên nhân để báo cáo cấp trên khi phát hiện có sự vi phạm trong thoả thuận tín dụng như: không thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn, không tuân thủ các cam kết đã ký trong hợp đồng tín dụng,.....Bất kỳ sự vi phạm nào đối với thoả thuận tín dụng như: không thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn, không tuân thủ các cam kết đã ký trong hợp đồng..... đều phải được điều tra và phải có biện pháp giải quyết tức thời. Định kỳ hoặc hàng năm: ngoài việc giám sát theo danh mục, phải thực hiện cả việc rà soát định hạng rủi ro tín dụng. Hoạt động cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp chứa đựng nhiều rủi ro ngoài nguyên nhân từ chính các đơn vị này thì còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trường xung quanh hoạt động đó. Vì thế cán bộ tín dụng cần phải tiến hành kiểm tra, rà soát và lập báo cáo ngay nếu có những sự kiện bất ngờ xảy ra như: sự suy giảm nghiêm trọng về tình hình tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của đơn vị; khách hàng có dấu hiệu lẩn tránh tiếp xúc hoặc từ chối sự kiểm tra của Sở giao dịch; hay có sự thay đổi cơ cấu điều hành, tính pháp lý của các đơn vị vay vốn, hoặc một sự thay đổi trong đội ngũ quản lý chủ chốt trong các đơn vị thi công xây lắp vay vốn Song song với việc kiểm tra, giám sát các đơn vị thì việc định kỳ đánh giá lại tài sản đảm bảo cũng hết sức cần thiết: Mặc dù tài sản đảm bảo của các đơn vị thi công xây lắp là các máy móc thiết bị có giá trị thấp nhưng định kỳ vẫn phải tiến hành đánh giá lại tài sản đảm bảo một cách trung thực, chính xác và độc lập để nhằm đưa ra giá trị ròng của rủi ro tín dụng tiềm tàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Việc định giá tài sản đảm bảo phải được thực hiện phù hợp với các tiêu chuẩn, chỉ số rủi ro của tài sản đảm bảo do Tổng giám đốc quy định cho cả hệ thống Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam. Tất cả giải pháp trên để có thể thực hiện được trước hết các cán bộ ngân hàng đặc biệt là cán bộ khối tín dụng và khối thẩm định phải am hiểu rõ về lĩnh vực xây lắp, và một số vấn đề khác có liên quan như: sự biến động của thị trường, ảnh hưởng của các quy định liên quan,...Đồng thời, cũng cần có sự hợp tác của chính bản thân đơn vị thi công xây lắp trong việc cung cấp thông tin cần thiết cho ngân hàng. Tuy nhiên, ngoài hai yếu tố trên thì những giải pháp muốn thực hiện được cũng phải có sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành có liên quan. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị với các cơ quan Nhà nước Cần hoàn thiện nhanh chóng luật đấu thầu để các đơn vị thi công xây lắp hoạt động khuôn khổ hơn tránh tình trạng bỏ giá thầu thấp để trúng thầu rồi trong quá trình thi công lại phát sinh ra nhiều chi phí khác Xây dựng khung hình phạt nghiêm khắc liên quan việc tiêu cực trong hoạt động thi công xây lắp các công trình như: nhận hối lộ, sử dụng nguyên vật liệu không đúng trong dự toán,....để tránh thất thoát tiền của và công sức của người dân và Nhà nước Điều chỉnh chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản và giải quyết nợ tồn đọng xây dựng cơ bản: Mặc dù Quốc hội đã ra Nghị quyết từ nay đến hết năm 2006 có kế hoạch cụ thể, biện pháp xử lý mạnh để giải quyết dứt điểm nợ đọng vốn và Chính phủ yêu cầu từ nay đến 2006 các bộ ngành tập trung xử lý hơn 13.000 tỷ đồng nợ đọng xây dựng cơ bản, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Biện pháp là: Các địa phương có nợ đọng phải dùng một phần ngân sách hằng năm để trả nợ đồng thời xây dựng kế hoạch thanh toán nợ để kết thúc trong năm 2006. Nguồn bổ sung cho việc trả nợ này có thể là từ nguồn Trung Ương hỗ trợ, nguồn từ Ngân sách tỉnh tự bố trí, nguồn từ đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, nguồn từ trái phiếu Chính phủ,… Song với mức nợ lớn hiện nay, ngay cả khi trung ương rót vốn cho các địa phương, việc thanh toán cho các công trình còn lại cũng không hề dễ dàng. Tính riêng khoảng 6.000 tỷ đồng các chủ đầu tư phải tự lo giải quyết, chính họ cũng chưa biết sẽ lấy từ nguồn nào. Đó vẫn là một quá trình gian nan và rất khó khăn. Do vậy, đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành, các tỉnh tích cực, quyết liệt chỉ đạo điều chỉnh chính sách đầu tư xây dựng cơ bản và thanh toán nợ tồn đọng. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp như hiện nay thì nguy cơ dẫn tới rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng lớn, nếu không có sự liên kết thì một Ngân hàng không thể khắc phục được. Do vậy, nên có hình thức trao đổi kinh nghiệm hợp tác giữa các Ngân hàng trong công tác nghiên cứu và đưa ra biện pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro. Để làm được điều này cần có công tác chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước tới toàn hệ thống Ngân hàng. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam Sổ tay tín dụng sử dụng cho toàn hệ thống được ban hành vào tháng 9- 2004, đến nay cần phải được bổ sung và thay đổi lại theo đúng, phù hợp với sự thay đổi của luật và quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng. Xây dựng riêng chính sách tín dụng áp dụng đối với từng nhóm khách hàng, đặc biệt đối với khách hàng hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp thì phải đặt ra quy trình kiểm tra, giám sát trước trong và sau khi cho vay chặt chẽ hơn. Vào năm 2006, Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam có dự định sẽ áp dụng mô hình tổ chức mới, do vậy Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam cũng cần xem xét để đưa ra cơ cấu mô hình gọn nhẹ hơn Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn để nâng cao trình độ nghiệp vụ của từng cán bộ đặc biệt là cán bộ tín dụng, công tác đào tạo này phải gắn liền với thực trạng đang diễn ra trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, cần tổ chức nhiều buổi thảo luận, trao đổi giữa các cán bộ với nhau để ngăn ngừa, hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Với mỗi sự thay đổi của luật liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, hoặc hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp thì Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam nên có văn bản hướng dẫn hoặc quy định rõ ràng, chính xác và kịp thời tránh tình trạng mỗi chi nhánh hiểu và làm theo cách khác nhau. Hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, do vậy Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam phải có chính sách, biện pháp để quản lý các đơn vị vay vốn trong lĩnh vực này, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động cho vay của các chi nhánh ngay từ việc đánh giá khách hàng cho đến khâu thu nợ để tránh tình trạng gian lận giữa cán bộ ngân hàng với các đơn vị này. 3.3.3. Kiến nghị với các đơn vị thi công xây lắp Các đơn vị thi công xây lắp cần có sự phối hợp với Ngân hàng và cung cấp đầy đủ, kịp thời các báo cáo tài chính, các thông tin cần thiết để thuận lợi cho việc đánh giá của ngân hàng. Đơn vị thi công xây lắp phải nâng cao hơn nữa tình hình hoạt động kinh doanh của mình, nên xây dựng dự án hay công trình phù hợp với năng lực của mình, trước khi đưa ra quyết định dự án cần nghiên cứu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công trình đó như: yếu tố đầu ra, đầu vào, sự thay đổi chính sách của Nhà nước,....để từ đó chủ động hơn đảm bảo tính hiệu quả của việc đầu tư vào công trình đó Hiện nay, trong quá trình thi công tồn tại rất nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra ảnh hưởng đến chất lượng công trình, tạo ra suy nghĩ không tốt trong dân chúng, do vậy để khắc phục tình trạng trên thì bản thân trong các đơn vị thi công xây lắp nên nâng cao tính tự giác, công bố tình hình tài chính của mình một cách công khai và chính xác, có như vậy thì ngân hàng cũng mới có thể tạo điều kiện cho vay. Tóm lại: Trong chương 3 em đã đưa ra những giải pháp và kiến nghị cụ thể với để có thể nâng cao chất lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp nói chung và chất lượng cho vay ngắn hạn nói riêng trong điều kiện nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đang tăng mạnh. KẾT LUẬN Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, nhu cầu vay tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam để đầu tư vào các công trình đã tăng mạnh trong thời gian qua. Với xu thế đó thì việc nâng cao chất lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp để đảm bảo an toàn trong hoạt động luôn là mục tiêu quan trọng của Sở giao dịch. Do vậy, việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng cho vay luôn là yêu cầu cấp bách không chỉ với Sở giao dịch mà nó còn có ý nghĩa cho cả hệ thống Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam. Do thời gian thực tập có hạn cũng như kiến thức thực tế chưa cao nên bài viết của em không tránh sự thiếu sót, em mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa, cũng như các cán bộ Ngân hàng để bài viết của em được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36379.doc
Tài liệu liên quan