Tác động của xuất nhập khẩu đến phát triển kinh tế philippines

LỜI NÓI ĐẦU Như chúng ta đã biết, trong những năm 60 của Thế kỷ trước, người ta đã từng coi Philippines là một “Nhật Bản thứ hai” với việc nhận được rất nhiều viện trợ từ Mỹ. Thế nhưng điều này đã không thể xảy ra bởi nạn tham nhũng trầm trọng và những chính sách sai lầm của Chính Phủ. Đến thập kỷ 90, Philippines lại tiếp tục phải trải qua cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997, cuộc khủng hoảng thực sự đã làm suy sụp nền kinh tế của quốc đảo này. Tuy nhiên, trong năm năm đầu của Thế kỷ 21 này (2000 – 2005), với những cải cách mạnh mẽ từ phía Chính Phủ, nền kinh tế Philippines đã có được những bước phát triển khá tích cực. Trong sự thay đổi tích cực đó, không thể không nói đến vai trò rất quan trọng của hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Vậy, xuất nhập khẩu tác động đến sự phát triển kinh tế của Philippines như thế nào và Chính Phủ Philippines có những biện pháp gì để phát triển hoạt động này một cách hợp lý? Đây chính là hai vấn đề quan trọng nhất sẽ được đề cập đến trong bài. Ngoài ra, qua việc tìm hiểu về xuất nhập khẩu và những chính sách thúc đẩy xuất nhập khẩu của Chính Phủ Philippines, chúng ta cũng có thể rút ra được rất nhiều bài học có ích cho Việt Nam khi mà nước ta đang hòa nhập sâu rộng với Thế Giới qua việc trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới và được bầu vào ghế ủy viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Chúng em cũng xin được cảm ơn TS. Phan Thị Nhiệm đã tận tình hướng dẫn để chúng em có thể hoàn thành bài viết một cách tốt nhất! Do còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên bài viết của nhóm có thể còn nhiều thiếu sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của cô.

doc25 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2155 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của xuất nhập khẩu đến phát triển kinh tế philippines, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác động của xuất nhập khẩu đến phát triển kinh tế philippines LỜI NÓI ĐẦU Như chúng ta đã biết, trong những năm 60 của Thế kỷ trước, người ta đã từng coi Philippines là một “Nhật Bản thứ hai” với việc nhận được rất nhiều viện trợ từ Mỹ. Thế nhưng điều này đã không thể xảy ra bởi nạn tham nhũng trầm trọng và những chính sách sai lầm của Chính Phủ. Đến thập kỷ 90, Philippines lại tiếp tục phải trải qua cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997, cuộc khủng hoảng thực sự đã làm suy sụp nền kinh tế của quốc đảo này. Tuy nhiên, trong năm năm đầu của Thế kỷ 21 này (2000 – 2005), với những cải cách mạnh mẽ từ phía Chính Phủ, nền kinh tế Philippines đã có được những bước phát triển khá tích cực. Trong sự thay đổi tích cực đó, không thể không nói đến vai trò rất quan trọng của hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Vậy, xuất nhập khẩu tác động đến sự phát triển kinh tế của Philippines như thế nào và Chính Phủ Philippines có những biện pháp gì để phát triển hoạt động này một cách hợp lý? Đây chính là hai vấn đề quan trọng nhất sẽ được đề cập đến trong bài. Ngoài ra, qua việc tìm hiểu về xuất nhập khẩu và những chính sách thúc đẩy xuất nhập khẩu của Chính Phủ Philippines, chúng ta cũng có thể rút ra được rất nhiều bài học có ích cho Việt Nam khi mà nước ta đang hòa nhập sâu rộng với Thế Giới qua việc trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới và được bầu vào ghế ủy viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Chúng em cũng xin được cảm ơn TS. Phan Thị Nhiệm đã tận tình hướng dẫn để chúng em có thể hoàn thành bài viết một cách tốt nhất! Do còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên bài viết của nhóm có thể còn nhiều thiếu sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của cô. -----------------------------*&*------------------------------ Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NƯỚC CỘNG HÒA PHI-LÍP-PIN (THE REPUBLIC OF THE PHILIPPINES) Là một trong mười một thành viên của ASEAN, quần đảo Phi-lip-pin là một quốc gia có vị trí rất quan trọng trong khu vực cả về kinh tế và quân sự với bao quanh là đường bờ biển rất dài. Trong chương 1 này, chúng ta sẽ có một cái nhìn tổng quan về một đất nước Phi-lip-pin năng động, một thị trường đầy hứa hẹn và tiềm năng. 1.1. Khái quát chung: + Tên nước: Nước cộng hòa Philippines (The Republic of the Philippines). + Thủ đô: Manila. + Vị trí địa lý: Là một quần đảo ở Đông Nam Á với khoảng 7107 đảo chạy dài từ Bắc xuống Nam giữa vĩ tuyến 4023 – 21025. + Đặc điểm tự nhiên, khí hậu: Đường bờ biển rất dài. 3/4 diện tích là rừng núi, đồng bằng thấp nhỏ hẹp. Đây là khu vực có nhiều động đất và núi lửa với khoảng 10 núi lửa đang trong thời kỳ hoạt động. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường có bão lớn. Một năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. + Diện tích: 300.000 km2. + Dân số: 89,4 triệu người (7/2006). + Dân tộc: Gồm 3 nhóm dân tộc chính là: - Indio theo cơ đốc giáo chiếm 3/4 dân số. - Các dân tộc miền núi chiếm khoảng 5% dân số. - Nhóm người Moro theo Hồi giáo chiếm khoảng 5% dân số. Ngoài ra số ngoại kiều (Hoa, Anh, Ấn, Mỹ, Tây Ban Nha, Arập…) chiếm 2%. + Tôn giáo: Thiên chúa giáo là quốc đạo (85% dân số). Hồi giáo (10%), 5% theo đạo Tin lành và các đạo khác. + Ngôn ngữ: Tiếng Tagalog, tiếng Anh được sử dụng rộng rãi và là ngôn ngữ chính. + Đơn vi tiền tệ: Đông Pê-sô (Peso). + Quốc khánh: 12/06/1898. + Lãnh đạo nhà nước hiện nay: - Tổng thống: Bà Gloria Macapagal Arroyo. - Phó tổng thống: Ông Noli De Castro. - Chủ tịch Thượng viện: Ông Manuel B. - Chủ tịch Hạ viện: Ông Jose. - Ngoại trưởng: Ông Alberto. 1.2. Thể chế chính trị: 1.2.1. Thể chế nhà nước: Cộng hòa. + Từ 1972 trở về trước: Theo Hiến Pháp năm 1935, Quốc hội gồm Thượng viện và Hạ viện. Đứng đầu Nhà nước và Chính phủ là Tổng thống với nhiệm kỳ 4 năm do dân bầu trực tiếp. + Từ 1981 – 1985: Theo Hiến Pháp năm 1973, Quốc hội chỉ gồm một viện (bỏ Thượng viện). Đứng đầu Nhà nước là Tổng thống với nhiệm kỳ 6 năm, không được tái cử. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Quyền lực tập trung vào Tổng thống. + Từ 1986 đến nay: Theo Hiến pháp năm 1987, cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hôi bao gồm hai viện. Thượng viện gồm 24 nghị sĩ (nhiệm kỳ 6 năm) và Hạ viện với 200 đến 250 nghị sĩ (nhiệm kỳ 3 năm). + Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ. Tổng thống có quyền: bổ nhiệm các bộ trưởng nội các với sự thong qua của Quốc hội; thành lập các hội đồng… + Cơ chế bầu cử: Theo Hiến Pháp 1987, dân trực tiếp bầu Tổng thống, phó tổng thống và các nghị sĩ. 1.2.2. Tình hình chính trị chính: Philippines là một quốc gia có nhiều đảng phái chính trị khác nhau nên tình hình chính trị trong nước có nhiều bất ổn. Liên minh Lakas-NUCD-UMDP do Tổng thống Arroyo làm Chủ tịch và ông De venecia làm đồng chủ tịch. Hiện nay Liên minh này đổi tên là “Lakas ng Kristiyano at Muslim Democrata “ (Liên minh Sức mạnh quần chúng của những người dân chủ Thiên chúa giáo và Hồi giáo).            1.3. Kinh tế: Phi-lip-pin được đánh giá như là một quốc gia giàu có cả về tài nguyên trên đất liền cũng như dưới biển, có nhiều khoáng sản như: vàng, crôm, đồng, sắt, man-gan, than đá, dầu lửa và khí đốt. Năm 2004, Chính phủ Philippines nước tính trữ lượng khoáng sản nằm trong lòng đất có tổng giá trị khoảng từ 800 đến 1000 tỷ USD, trong đó quặng đồng khoảng 1,44 tỷ tấn, quặng vàng khoảng 795 triệu tấn, nic-ken 534 triệu tấn. Tuy nhiên, hiện nay Philippines mới chỉ xuất khẩu khoảng 0,5 tỷ tấn/năm. Philippines chủ yếu vẫn là một nước nông nghiệp, GDP đầu người 1.068 USD (2005), Nông nghiệp chiếm 23% GDP với 70% dân số. Dịch vụ ở Philippines phát triển khá mạnh, chiếm trên 40% GDP. Xuất khẩu lao động rất quan trọng, với trên 5 triệu người lao động ở nước ngoài, mỗi năm ước tính gửi về nước khoảng 10 - 12 tỷ USD. Từ thập kỷ 70, Philippines thúc đẩy chiến lược "hướng vào xuất khẩu", và đã đạt một số kết quả tích cực. Đến năm 1996, tăng GDP đạt 7,1%, dự trữ ngoại tệ đạt 11,6 tỉ USD, FDI đạt 5,5 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 1090 USD. Từ 1998 đến 2000 do khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, kinh tế Philippines suy giảm. Từ 2004 trở lại đây, kinh tế Philippines phát triển tương đối khá, đạt mức tăng trưởng 5 –5,5%/năm, GDP năm 2005 đạt 1.080 USD/người. Xuất khẩu tăng khá, đồng Pêsô tăng từ 57 Pêsô/1USD lên khoảng 50 Pêsô/1USD. 1.4. Đối ngoại: Từ năm 1992, Philippines điều chỉnh chính sách đối ngoại với phương châm ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế; đẩy mạnh quan hệ với các  nước láng giềng ở Châu Á - Thái Bình Dương.   Hiện nay, Philippines chủ trương chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá; coi trọng quan hệ với các nước lớn; thúc đẩy hoà bình, ổn định ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, phát triển quan hệ với ASEAN. --------------------------------*&*------------------------------------ Chương 2. TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT NHẬP KHẨU ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ PHILIPPINES Với đường bờ biển rất dài bao quanh cùng tài nguyên thiên nhiên cả trên cạn và dưới biển đều rất dồi dào, Philippines hội tụ những điều kiện vô cùng thuận lợi để có thể phát triển kinh tế, đặc biệt là hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Chương này chúng ta sẽ nghiên cứu về các lợi thế so sánh, hàng rào thuế quan cũng như những vấn đề chính khác về tình hình, cơ cấu xuất nhập khẩu của Philippines. 2.1. Vai trò của xuất khẩu đối với phát triển kinh tế Philippines: Như đã nói ở trên, với vị trí địa lý của mình, Philippines có rất nhiều điều kiện để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Vậy với những lợi thế đó, chính phủ Philippines đã làm gì để thúc đẩy xuất khẩu, trong phần này chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu về xuất khẩu của Philippines trên tất cả các mặt. 2.1.1. Tình hình và cơ cấu xuất khẩu của Philippines: Đối với một quốc gia được bao bọc bởi đại dương như Philippines, việc khai thác và xuất khẩu thủy hải sản là hết sức quan trọng. Và điều đó quả thật đã được minh chứng bởi vị trí hàng đầu Thế Giới của Philippines về nuôi trồng và xuất khẩu thủy hải sản, chẳng hạn: đứng thứ tư Thế Giới về xuất khẩu cá ngừ, thứ hai Thế Giới về sản lượng cá rô phi, nhà xuất khẩu tôm chân trắng hàng đầu thế giới … Cùng với đó là các loại thủy hải sản khác như cá mú, cá chẽm, cá măng, mực, tôm… Ngành nông nghiệp cũng đóng góp không nhỏ cho xuất khẩu. Trong đó, chăn nuôi chiếm một tỷ trọng tương đối lớn (9.26% toàn ngành nông nghiệp), hiện Philippines đang xuất khẩu gia súc gia cầm sang rất nhiều nước bao gồm: Indonesia, Brunei, Việt Nam, Malaysia, Nepal, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Iran… Trong đó xuất sang các nước ASEAN chủ yếu là con giống. Cùng với đó là các sản phẩm cây nông nghiệp như xoài, chuối, dứa, dừa (dầu dừa)… Trong đó, đặc biệt có xoài Leon và dứa Queen. Hiện xoài Leon, nhất là sản phẩm xoài chế biến được xuất khẩu rộng rãi sang Nhật Bản, Anh, Mỹ, Trung Quốc và Trung Đông. Sản lượng xoài Leon đạt tới 5000 tấn/năm đem lại cho các hộ nông dân trồng xoài tối thiểu 50 triệu Peso/năm. Còn dứa Queen, loại dứa ngon nhất của Philippines, cũng được rất nhiều thị trường ưa chuộng, đặc biệt là Hàn Quốc. Tuy là một nước nông nghiệp nhưng chính hoạt động xuất khẩu các sản phẩm hàng điện tử và công nghiệp với 70% kim ngạch xuất khẩu mới đem lại nguồn thu ngoại tệ hàng đầu cho Philippines (đạt 2.56 tỷ USD trong tháng 4/2006). Hai ngành may mặc và giày dép cũng đóng góp vào xuất khẩu của Philippines. Nếu may mặc mang lại rất nhiều lợi nhuận thì giày dép cũng tạo ra những thị trường cho riêng mình như Hà Lan, Đức, Nhật Bản, Anh, Mexico… Đặc biệt là Hà Lan (chiếm 27% sản lượng xuất khẩu giày dép). Ngoài ra còn có ngành công nghiệp chế biến, đặc biệt là đồ hộp cũng là một ngành có nhiều điều kiện thuận lợ để phát triển. Bên cạnh đó, là một nước rất giàu có tài nguyên khoáng sản, Philippines cũng thu được một nguồn lợi đáng kể từ xuất khẩu những mặt hàng như: gỗ, đồng, crôm, dầu thô… Trên đây là một vài nét về những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Philippines. Chúng ta cùng nhìn qua về tình hình xuất khẩu của cả nền kinh tế Philippines trong giai đoạn 2000 – 2005 qua biểu đồ 2.1 sau: Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu của Philippines từ 2000-2005 (đơn vị tính: triệu USD) (Nguồn: Website: – Tổng cục thống kê Việt Nam) Qua biểu đồ ta dễ thấy đã có sự tăng trưởng khá nhanh trong xuất khẩu của Philippines kể từ 2002 đến nay. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp, đây cũng là điều dễ nhận ra ở các nước đang phát triển như Philippines. Đất nước Philippines có quyền tự hào với những bãi biển tươi đẹp, gồm nhiều đảo nhỏ và có nhiều địa điểm du lịch đầy tiềm năng khác nhau như các tỉnh đảo, thành phố đảo Palawan, Davao, Cebu, Mount Apo để phát triển du lịch. Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ sang trọng được xây dựng dọc theo những bãi cát trắng trải dài, kèm theo các dịch vụ bơi lặn và người hướng dẫn nhiệt tình. Bên cạnh đó, người Philippines có nghề truyền thống nổi tiếng là đan giỏ bằng mây và bằng các sản phẩm tự nhiên khác rất tinh xảo. “Với những tiềm năng du lịch của đất nước chúng tôi, không lý do gì khiến du khách Trung Quốc lại không thể đến với Philippines” - Ông Duterte (bộ trưởng bộ du lịch Philippines ) nói. Philippines đang đẩy mạnh xây dựng thêm cơ sở vật chất mới, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng để thu hút khách du lịch. Như việc xây dựng 23 nhà vệ sinh kỹ thuật cao còn bảo đảm đủ nước, giấy vệ sinh và xà phòng ở các cơ sở vệ sinh công cộng. Với mục tiêu thu hút 3 triệu du khách nước ngoài vào cuối năm 2006 và 5 triệu du khách vào cuối năm 2010, Philippines (từ tháng 5-2005) đã cho phép các hãng hàng không giá rẻ trong và ngoài nước thực hiện các chuyến bay nối sân bay quốc tế và các điểm du lịch nước này với các thành phố ở các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực. Biện pháp nói trên đã giúp tăng 8,2% lượng du khách đến nước này một năm qua. Trong nhưng năm qua nghành du lịch Phillipines tuy có tiềm năng lớn nhưng chưa được phát huy, đóng góp của ngành du lịch khoang 2-3% vào nền kinh tế. Ngành du lịch nước này đang hướng đến mục tiêu sẽ thu hút được 5 triệu khách du lịch mỗi năm bắt đầu từ năm 2008. Các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ là những thị trường du khách chủ yếu mà Philippines nhắm đến trong kế hoạch của họ. 2.1.2. Tác động của xuất khẩu tới phát triển kinh tế của Philippines: Có thể nói xuất khẩu của mỗi một quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế của quốc gia đó. Xuất khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến tổng thu nhập quốc dân (GDP), làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của quốc gia đó. Trước tiên, ta nghiên cứu ảnh hưởng của Xuất khẩu đến GDP của Philippines. Xuất khẩu ảnh hưởng đến GDP của Philippines: Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam từ năm 2000- 2005 chúng ta có thể thể hiện giá trị xuất khẩu và giá trị GDP của Philippines trong những năm nảy qua biểu đồ sau: Xuất khẩu của Philippines đóng góp vào GDP theo hàm: GDP = Y = C+I+G+X-IM Trong đó: C: là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế. I: là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư. G: là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền). X: là xuất khẩu Từ biểu thức tính GDP trên ta có thể thấy xuất khẩu (X) tỉ tệ thuận với GDP, có nghĩa là giá trị xuất khẩu càng lớn thì GDP càng cao và ngược lại. Từ biểu đồ ta thấy: Xuất khẩu của Philippines đóng góp vào GDP tương đối lớn ( chiếm khoảng 40% GDP) – Theo cách tiếp cận thu nhập. Năm 200, do việc bế tắc về đường lối chính sách kinh tế do đó xuất khẩu và GDP đều giảm, nhưng từ năm 2001 có sự phát triển nhưng không đáng kể. Chúng ta có thể nghiên cứu sự tác động của xuất khẩu đến GDP của Philippines theo phương pháp OLS (Ordinary Least Squares Estimation) – phương pháp nghiên cứu của môn kinh tế lượng. Ta xây dựng mô hình hồi quy đơn cho hai biến GDP, EX trong giai đoạn 2000-2005: GDP: Tổng sản phẩm quốc dân của Philippines (triệu USD). EX: Giá trị hàng xuất khẩu của Philippines (triệu USD). Bảng số liệu: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 GDP 75912 71216 76813 79634 86703 98372 EX 28078.25 32150.2 35208.16 36231.21 39680.52 41254.68 Xử lý các số liệu trên bằng phần mềm nghiên cứu Kinh Tế Lượng MFIT 4 ta được các kết quả sau: (lấy mức ý nghĩa α = 5%) Ordinary Least Squares Estimation *********************************************************************** Dependent variable is GDP 6 observations used for estimation from 2000 to 2005 *********************************************************************** Regressor Coefficient Standard Error T-Ratio[Prob] INPT -14881.0 26886.3 -.55348[.609] EX 2.5963 .72234 3.5942[.023] *********************************************************************** R-Squared .76357 R-Bar-Squared .70446 S.E. of Regression 5293.9 F-stat. F( 1, 4) 12.9184[.023] Mean of Dependent Variable 81441.7 S.D. of Dependent Variable 9738.1 Residual Sum of Squares 1.12E+08 Equation Log-likelihood -58.7431 Akaike Info. Criterion -60.7431 Schwarz Bayesian Criterion -60.5349 DW-statistic 1.6140 *********************************************************************** Từ bảng kết quả OLS ta có hàm hồi quy mẫu: GDP = -14881 + 2.5963.EX + ei Giải thích: β^2 = 2.5963 > 0 : Có nghĩa khi xuất khẩu tăng lên 1 đơn vị thì GDP tăng lên 2.5963 đơn vị, điều này phù hợp với lý thuyết kinh tế. Ta có Prob(EX) = 0.023 < α = 0.05 : Do đó có thể kết luận xuât khẩu có ảnh hưởng đến GDP. Hệ số R2 = 0.76357 có ý nghĩa: Biến Xuất khẩu giải thích được 76.357% sự biến động của GDP. Như vậy, sau khi nghiên cứu tác động của xuất khẩu đến GDP của Philippines qua mô hình OLS cũng như bằng phương pháp số học chúng ta có thể khẳng định được xuất khẩu có vai trò rât quan trọng đối với Philippines nói riêng và các tất cả các nước trên thế giới nói chung. Xuất khẩu làm thay đổi cơ cấu kinh tế: Như ta đã nói ở trên xuất khẩu và GDP tỷ lệ thuận với nhau nên các quốc gia đều đưa ra các chính sách thúc đẩy xuất khẩu phát triển để từ đó gia tăng GDP. Chính những chính sách kinh tế của chính phủ với mục đích tăng giá trị xuất khẩu đã làm cơ cấu kinh tế có sự thay đổi lớn, những sự thay đổi này theo xu hướng tăng cường nhân lực, vật lực vào các ngành có khả năng xuất khẩu cao. Đối với Philippines, chính phủ có những chính sách hỗ trợ cho các ngành có tiềm năng xuất khẩu như: Ngành thuỷ sản: cá ngừ, cá rô phi, tôm chân trắng….đặc biệt sản lượng tôm chân trắng xuất khẩu của Philippines đứng đầu thế giới; ngoài ra ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp chế biến cũng đóng góp một phần không nhỏ trong các mặt hàng xuất khẩu của Philippines, qua đó tạo ra những thay đổi rõ rệt trong cơ cấu kinh tế của nước này. Xuất khẩu ảnh hưởng tới cơ cấu xã hội: Như một quy luật tất yếu, bất cứ sự phát triển kinh tế nào cũng sẽ bao gồm cả những thay đổi tùy theo mức độ của cơ cấu xã hội. Philippines không phải một ngoại lệ. Hoạt động xuất khẩu của Philippines, như đã nói ở trên, tạo ra những cú hích tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu kinh tế, do đó đã gây ra những thay đổi khá rõ rệt trong cơ cấu xã hội của đất nước này. Việc đẩy mạnh xuất khẩu thủy hải sản đã làm một bộ phận lớn lao động trong khu vực nông thôn chuyển sang các ngành khai thác thủy hải sản và ngành công nghiệp chế biến. Việc hàng điện tử và công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu hàng xuất khẩu cũng thúc đẩy một bộ phận lớn lao động di chuyển sang ngành này. Tóm lại, một cách rất dễ dàng, chúng ta có thể nhận ra rất rõ rệt sự tác động của xuất khẩu vào cơ cấu kinh tế Philippines. 2.1.3. Hoạt động xuất khẩu của Philippines: a) Lợi thế so sánh trong xuất khẩu của Philippines: Nằm trên vành đai gió mùa châu Á –Thái Bình Dương, được bao bọc bởi đại dương, phần lớn diện tích là núi và Đồng Bằng Duyên Hải cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, Philippines hội tụ những điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển nông lâm ngư nghiệp. Đồng thời chính phủ đã có những chính sách tác động tích cực tạo ra những lợi thế lớn cho hoạt động xuất khẩu của Philippines. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên: Philippines là một quần đảo với 7.017 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi trong việc khai thác và nuôi trồng thuỷ hải sản. Philippines nằm ở “vành đai cá ngừ” của Thế Giới, đứng thứ tư về xuất khẩu và chiếm 10% tổng sản lượng cá ngừ toàn cầu. Cá rô phi cũng là một loại thủy sản được khai thác rất nhiều ở Philippines, tuy kim ngạch xuất khẩu chưa cao nhưng sản lượng cá rô phi của Philippines hiện chỉ đứng sau Trung Quốc và xếp thứ hai trên Thế Giới. Bên cạnh đó là các loại thủy hải sản khác với sản lượng khai thác và xuất khẩu cao như: cá mú, cá măng, cá chẽm, mực, tôm pandan... Ngoài ra, Philippines cũng là nhà xuất khẩu tôm chân trắng hàng đầu Thế Giới. Ngành trồng trọt và chăn nuôi của Philippines cũng có nhiều điều kiện để phát triển với những mảnh đất trông màu mỡ cùng khí hậu nhiệt đới thuận lợi. Leon, “vùng đất xoài” của Philippines, có thể nói không có một nơi nào trên Thế Giới có những điều kiện thuận lợi để phát triển cây xoài như ở Leon, Philippines. Đất đai màu mỡ, khí hậu nóng ẩm ở đây đã tạo nên một trong những giống xoài ngon nhất Thế Giới. Đó là lý do tại sao giống xoài này đã có mặt tại rất nhiều thị trường lớn trên Thế Giới như: Nhật Bản, Anh, Mỹ, Trung Quốc... Cùng với xoài, dứa Queen, một loại hoa quả ưa khí hậu nhiệt đới, cũng là một loại nông sản được ưa chuộng trên rất nhiều thị trường của Philippines, đặc biệt là Hàn Quốc. Ngoài ra, không thể không kể đến một số nông sản chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Philippines như: chuối, dừa, cafe, đậu... Sự phong phú tài nguyên thiên nhiên của Philippines còn cho phép đất nước này có đầy đủ cơ sở cho việc khai thác và xuất khẩu các sản phẩm có giá trị cao như: gỗ, đồng crôm, dầu thô, nikel... Các tác động từ phía Chính phủ: Là một nước nông nghiệp, tỷ trọng của nông sản trong cơ cấu hàng xuất khẩu khá cao nên Chính phủ Philippines luôn đặt vấn đề về chất lượng hàng hóa. Bằng chứng là để giành được các lợi thế xuất khẩu, Philippines đã đáp ứng được một cách đầy đủ những tiêu chuẩn vệ sinh rất khắt khe từ phía các nước nhập khẩu như: Mỹ, Liên Minh Châu Âu (EU) và Nhật Bản. Với khoảng 50% dân số sống bằng nghề nông, Philippines rất coi trọng việc tăng cường năng lực sản xuất cho nông dân nhằm tăng năng suất bằng việc thường xuyên trang bị máy móc thiết bị hiện đại và tiến hành nhiều chương trình hỗ trợ đào tạo người nông dân. Ví dụ: Những khu trồng dứa ứng dụng công nghê cao tại Bicol và Camarine Norte. Hệ thống đường bộ, mạng lưới viễn thông ổn định cùng những cảng côngtennơ lớn luôn sẵn sàng giao thương với Thế Giới cũng là những thuận lợi rất lớn cho xuất khẩu của Philippines. b) Chính sách của Chính Phủ Philippines đối với hoạt động xuất khẩu: Philippines là một nước nông nghiệp, nên các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là hàng nông thủy sản và một số sản phẩm công nghiệp như linh kiện điện tử, dầu dừa… Đây là các mặt hàng có tính cạnh tranh cao vì đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của hầu hết các nước. Do vậy chính phủ cần có các biện pháp quản lí và hỗ trợ đẻ tạo ưu thế xuất khẩu trên thị trường thế giới. Tỷ gía hối đoái và chính sách của chính phủ Philippines : Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. Cuối cùng cuộc khủng hoảng tài chính đã được giải quyết nhờ một số biện pháp của ngân hàng trung ương như: + Bình ổn tỉ giá đồng peso với USD + Tăng lượng ngoại hối chảy vào từ nước ngoài chảy vào + Tăng cường xuất khẩu hàng điện tử giúp bù đắp những tác động của việc giá dầu nhập khẩu tăng lên tài khoản vãng lai + Lãi suất thực tế thấp và chi ngân sách lớn hơn sẽ giúp duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 7.5% Nhờ những chính sách đó nên Philippines có những tiến bộ đáng kể + Tỷ giá hối đoái trung bình đồng Peso - Dollar Hoa Kỳ là 56,04 năm 2004, tức là đồng peso giảm giá 3,4% so với tỷ giá 52,20 năm 2003. Năm 2005, tỷ giá này là 55,086. + Vào cuối năm 2006, lạm phát giảm xuống còn 4,3%, đưa tỷ lệ lạm pháp của cả năm 2006 xuống mức 6,2%, giảm so với mức 7,6% năm 2005. Vào tháng 2/2007, tỷ lệ lạm phát tiếp tục giảm xuống còn 2,6%. Nguyên nhân là do đồng peso tăng giá và giá dầu và giá lương thực ổn định. Những biện pháp phát triển kinh tế nông thôn của chính phủ Philippines + Đẩy mạnh phát triển công-nông nghiệp ở nông thôn là mục tiêu quan trọng của chính phủ Philippines . Chính phủ Philipin đã thực hiện nhiều biện pháp kinh tế kết hợp thực hiện chính sách xã hội như chương trình xóa đói, giảm nghèo, áp dụng chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo thêm việc làm, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ sản xuất cần nhiều lao động, +  Luật đầu tư của Philipin đã khuyến khích thành lập doanh nghiệp tại các vùng kém phát triển dưới hai dạng: Cung cấp tín dụng có giá trị bằng 100% chi phí kết cấu hạ tầng cần thiết chịu thuế quan của doanh nghiệp và giảm thêm thuế thu nhập có giá trị bằng chi phí lao động trực tiếp đối với các hãng xuất khẩu + Chính phủ Philipin đã thực hiện chính sách nhằm hỗ trợ các đơn vị kinh doanh hoặc hợp tác xã có trụ sở và hoạt động kinh doanh ở vùng nông thôn. Các đơn vị kinh tế này sẽ được miễn tất cả các loại thuế của trung ương và địa phương, các loại phí liên quan đến việc cấp giấy phép kinh doanh và xây dựng. Ngoài ra, chủ sở hữu hoặc thành viên của doanh nghiệp này còn được miễn thuế thu nhập đối với khoản thu từ hoạt động kinh doanh này, với ưu đãi được kéo dài trong thời gian 5 năm, kể từ khi đăng ký hoạt động. Ngoài ra, Chính phủ Philippines còn thiết lập hệ thống ngân hàng nông nghiệp quy mô nhỏ, nhằm phục vụ các hộ nông dân và các doanh nghiệp ở nông thôn. Để khuyến khích hoạt động của các ngân hàng này. Chính phủ đã trợ cấp bằng cách miễn thuế, thực hiện tỷ lệ tái chiết khấu thấp hơn so với ngân hàng thương mại, xây dựng nhiều chương trình tín dụng đặc biệt nhằm phân bổ vốn cho khu vực nông nghiệp, quy định hạn ngạch tín dụng nông nghiệp. Trong đó tất cả các ngân hàng phải dành 25% nguồn vốn có khả năng cho vay để phục vụ cho khu vực nông nghiệp. Đồng thời thành lập quỹ tín dụng bảo đảm công nghiệp, trong đó những người vay thuộc vùng chậm phát triển được hưởng tỷ lệ lãi suất ưu đãi thấp hơn 20% so với thị trường, thành lập quỹ tín dụng nông nghiệp tổng hợp, Quỹ tín dụng cho những người hành nghề tự do, Quỹ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ v.v... Chính sách của chính phủ nhằm tăng sản lượng nông nghiệp: Với mục đích đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đáp ứng cho nhu cầu trong nước và mục tiêu xuất khẩu chính phủ Philippines đã đưa ra những chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp: + Giảm thuế nông nghiệp và công nghiệp chế biến các sản phẩm từ dừa. + Hỗ trợ tín dụng, kỹ thuật và giống cho nông dân, nông trang trồng dừa. + Ban hành đạo luật bảo tồn dừa, nghiêm cấm việc đốn dừa. + Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu thực vật. + Philippines dự định sẽ tăng cường sản xuất lúa miến đường để chế biến thành nhiên liệu sinh học làm năng lượng thay thế. Nông dân sẽ là những người có lợi nhờ việc sản xuất đồng loạt loại lúa miến lai đang được phát triển ở Ấn Độ. + Chính phủ Philipin đưa lúa miến vào danh sách các mặt hàng ưu tiên nghiên cứu và phát triển vì ngoài tác dụng lương thực còn có nhiều tác dụng khác. + Chính phủ đưa ra những biện pháp tài chính để khuyến khích sản xuất nhiên liệu sinh học từ sản phẩm nông nghiệp. Chính sách xuất khẩu hàng nông thủy sản Philippines: Theo thống kê, cá ngừ, rong biển và tôm là các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính của philippies chủ yếu được xuất sang Mỹ, Nhật bản và Hông Kông với tổng kim nghạch 475,379 triệu USD vào năm 2005. Giống như các công ty xuất khẩu thủy sản Indonesia các doanh nghiệp thủy sản Philippines cũng được miễn thuế xuất khẩu từ ngày 02/01/2007. Theo cục nghề cá và nguồn lợi thủy sản (BFAR) các công ty xuất khẩu không phải trả phí cho việc xin phép xuất khẩu, kê khai hàng hóa và các khoản thuế nhập khẩu khác. Trước kia, các công ty xuất khẩu phải chi trả 1,03 USD chi phí xin phép xuất khẩu thủy sản tươi đông lạnh và ướp lạnh hoặc 2,58 USD cho việc kê khai hàng hóa xuất khẩu áp dụng với tất cả các loại thủy sản dù khối lượng xuất khẩu nhiều hay ít. Việc miễn thuế được công bố sau khi có sắc lệnh chung của BFAR về việc bỏ các chi phí chứng từ liên quan đến việc xuất khẩu nhằm nâng cao tính cạnh tranh của các mặt hàng thuỷ sản trên thị trường thế giới. Sắc lệnh này phù hợp với sắc lệnh số 4 xác định ngành thủy sản là nguồn xuất khẩu quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Theo các hiệp định quốc tế về thương mại thủy sản để thâm nhập vào thị trường chiến lược các nhà xuất khẩu cần có một số chứng từ xuất khẩu trong đó có giấy phép, giấy kê khai hàng hóa, chứng thư vệ sinh và các chứng nhận khác về an toàn thực phẩm và chất lượng phù hợp với quy định phù hợp của Philippines. 2.2. Nhập khẩu và những tác động tới sự phát triển kinh tế Philippines: ………………….. 2.2.1. Tình hình và cơ cấu nhập khẩu của Philippines: Phillipin là một nước nông nghiệp với cây trồng chính là lúa, ngô, dừa, mía, chuối, dứa, cà phê, thuốc lá và các loại cây lấy sợi và nền công nghiệp khai khoáng, gỗ, chế biến thực phẩm. Trên nền sản xuất đó Phillipin nhập về dầu mỏ, than đá, sắt thép, vật liệu xây dựng, thiết bị máy móc, linh kiện điện tử, lương thực, hoá chất. Năm 2006 Phillipin nhập khẩu 51,5 tỷ USD với các bạn hàng chính là Nhật 15,9%, Mỹ 13,7%, Trung Quốc 19,1%, Đài Loan 7,2%, Ả Rập 4,8%, Hàn Quốc 4,7%, Hồng Kông 4,6%, Thái Lan 4,6% và Việt Nam 1,8%. Từ năm 2000 đến năm 2006 nhập khẩu của phillipin tăng bình quân 7% năm, tổng giá trị tăng từ 34490,87 triệu USD lên 51773,68 triệu USD. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Phillipin chưa có sự thay đổi rõ rệt trong những năm qua. Máy móc thiết bị chiếm khoảng 30% kim nghạch nhập khẩu của Phillipin, trong những năm gần đây lượng vật liệu xây dựng, sắt thép đang được Phillipin tăng cường nhập khẩu để phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong nước. Về nông nghiệp: Tuy là một nước nông nghiệp nhưng Philippines hiện đang phải nhập khẩu gạo từ Việt Nam và một số nước khác. Kể từ đầu năm tới nay Philippines đã nhập khẩu tới 1.61 triệu tấn gạo từ việt nam. Từ năm 1996 hai nước chính thức thiết lập quan hệ thương mại, chỉ sau 10 năm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Philippines đã từ 168 triệu USD (năm 1996) lên tới 778 triệu USD (năm 2005) tăng 460%. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chiếm khoảng 1,8% kim ngạch nhập khẩu của Philippines. Số liệu xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Philippin tháng 9 và 9 tháng 2006:  Mặt hàng xk ĐVT Tháng 9/2006 9 tháng 2006 Lượng Trị giá (USD) Lượng Trị giá (USD) Hàng hải sản USD 220.643 2.359.044 Hạt điều Tấn 43.750 113 350.591 Cà phê Tấn 16 762.804 6.439 4.545.688 Chè Tấn 551 186.472 339 949.618 Hạt tiêu Tấn 65 95.841 942 1.204.495 Gạo Tấn 4.223136 1.405.388 1.473.399 417.430.196 Mặc dù Philippin là thị trường đã có thói quen tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu theo tiêu chuẩn của các nước phát triển. Song số đông người nghèo vẫn cần những loại hàng hoá chất lượng trung bình, giá cả hợp túi tiền. Tận dụng cơ hội này hàng hoá Việt Nam XK sang Philippin ngày càng nhiều về số lượng cũng như chủng loại. Nhóm hàng chính xuất khẩu của Việt Nam sang Phillipin là lương thực phẩm, hàng năm kim nghạch chiếm 50-60% trong tổng kim nghạch xk của Việt Nam sang Phillipin. Năm 2005 Philllipin nhập khẩu 1,8 triệu tấn gạo trong đó 1,61 triệu tấn từ Việt Nam đạt hơn 400 triệu USD. Ngoài ra còn nhập khẩu một số mặt hàng khác như cà phê từ Việt Nam, cùi dừa khô, cơm dừa sấy (những thứ dùng để chiết xuất dầu dừa) đều đặn từ Indonesia và các đảo khác thuộc Thái Bình Dương, các loại gia cầm và chim sống tư Nhật Bản, phân bón NPK,... Về công nghiệp: Nền kinh tế tăng mạnh đã làm nhu cầu nhiên liệu tăng cao. Năng lượng địa nhiệt chiếm phần lớn trong số năng lượng dùng để sản xuất điện, sau đó là thuỷ năng, khí tự nhiên, than và dầu. Năm 2003, Philippines đã tiêu thụ trung bình mỗi ngày 338.000 thùng, riêng lượng dầu nhập khẩu đã là 312.000 thùng/ngày. Mặc dù sản lượng khai thác trong nước đã tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước. Cùng với sự phát triển kinh tế nhu cầu năng lượng tăng nhanh, chính phủ Philippines muốn tìm kiếm sự đầu tư của các công ty nước ngoài sắp tới. Về máy móc thiết bị, Philippines nhập khẩu một lương máy tính và linh kiện máy tính từ Việt Nam nhưng nhập khẩu các linh kiện lắp ráp xe máy, ôtô từ các nước phát triển là chủ yếu giống như các quốc gia đang phát triển khác do trình độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Nhập khẩu ô tô và các linh kiện ôtô đạt tỉ trọng lớn trong kim nghạch nhập khẩu, bạn hàng chủ yếu của Philippines là Nhật Bản, Mỹ… Còn một số mặt hàng công nghiệp nhẹ như hàng may mặc, giày dép các loại, dây điện và dây cáp điện… cũng chiếm một phần đáng kể trong giá trị nhập khẩu của Philippines. Những sản phẩm công nghiệp nhẹ này chủ yếu được nhập từ các nước có nền kinh tế chưa phát triển, nền khoa học kĩ thuật chưa cao. Ngoài ra Philippines còn nhập khẩu một số đồ dùng văn phòng, in ấn, gạch ốp lát, kính màu và một số vật liệu xây dựng… 2.2.2. Tác động của nhập khẩu đến phát triển kinh tế: Tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc nội - GDP(Gross Domestic Product) là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình phát triển của mỗi một quốc gia, chính vì vậy khi nghiên cứu các hoạt động kinh tế không thể không nói đến ảnh hưởng của nó đến GDP. Chúng ta sẽ nói đến sự ảnh hưởng của nhập khẩu đến GDP của Philippines trong phần dưới đây tiếp theo dưới đây. Nhập khẩu ảnh hưởng tới GDP của Philippines : GDP của Philippines từ năm 2000 – 2005 Biểu đồ: 2.1 (Nguồn: Website: - Tổng cục thống kê Việt Nam) Nhìn trên biểu đồ ta thấy GDP của Philippines có xu hướng tăng với nhịp độ tương đối đều đặn. GDP của Philippines tăng từ 75912.5 triệu USD năm 2000 lên tới 98305.9 triệu USD năm 2005, và giá trị hàng nhập khẩu cũng tăng dần theo các năm tương ứng, từ 33087 triệu USD năm 2000 lên 49487 triệu USD năm 2005.Ta có thể nhận thấy nhập khẩu chiếm tỉ trọng khá lớn trong GDP của Philippines, điều đó cho ta thấy sự ảnh hưởng của nhập khẩu tới GDP của Philippines là rất lớn. Theo cách tính GDP là tổng tiêu dùng, các nhà kinh tế học đưa ra một công thức như sau: GDP = C + I + G + NX Trong đó: C: là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế. I: là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư. G: là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền). NX: là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nó bằng xuất khẩu (X- tiêu dùng của nền kinh tế khác đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế trong tính toán sản xuất) - nhập khẩu (IM- tiêu dùng của nền kinh tế trong tính toán đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế khác sản xuất). Qua đó ta có thể thấy GDP và nhập khẩu (IM) có quan hệ ngược chiều với nhau, tức là khi nhập khẩu tăng thì GDP sẽ giảm và ngược lại GDP sẽ tang khi nhập khẩu giảm. Điều này phù hợp với lý thuyết kinh tế rằng một nước có giá trị nhập khẩu lớn (tức xuất khẩu ròng NX = X – IM nhỏ) sẽ có tốc độ phát triển chậm (tức GDP nhỏ), và trên thực tế Philippines hiện nay vẫn đang là một nước phát triển trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Như vậy, việc giá trị nhập khẩu của Philippines cao như vậy (Tính trung bình từ năm 2000-2005 là: 41333.8 triệu USD đã ảnh hưởng rất lớn tới nhập khẩu ròng và GDP của Philippines. Việc Philippines có giá trị nhập khẩu lớn là do sản lượng của một số ngành sản xuất trong nước sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, để nói rõ thêm cho vấn đề này chúng ta theo dõi sản luợng các ngành sản xuất của Philippines từ năm 2000-2005. Bảng Số liệu 2.2 Sản lượng(nghìn tấn) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nông nghiệp Mía 24491 21709 21417 23978 25579 20795 Dừa 12995 13146 14069 14294 14366 14797 Thóc 12389 12955 13271 13500 14497 14603 Ngô 4511 4525 4319 4616 5413 5254 Chuối 4930 5059 5275 5369 5631 6282 Cao su 216 264 268 274 311 326 Cà phê 126 110 107 106 103 106 Cây chuối sợi 77 73 63 70 74 Khai khoáng Quặng crôm 27 28 22 34 43 38 Đồng 32 96 79 81 71 75 Công nghiệp chế biến Xi măng 11959 11378 13398 13067 13057 Năng lượng Dầu thô 66 75 317 149 139 208 Than 1354 1231 1665 1857 2482 2880 Điện (Tr, Kwh) 45290 47049 48467 52941 55957 56553 (Nguồn: Website: - Tổng cục thống kê Việt Nam) Từ bảng số liệu ta có thể thấy sản lượng ngành nông nghiệp của Philippines vẫn còn thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, chính vì vậy Philippines có sản lượng nông nghiệp nhập khẩu rất lớn, một bạn hàng lớn trong việc nhập khẩu hàng nông nghiệp (đặc biệt là nhập khẩu gạo) của Philippines là Việt Nam. Hàng năm Viêt Nam và Philippines đã kí kết những hợp đồng xuất nhập khẩu với giá trị lên tới hàng trăm nghìn tấn. Biểu đồ 2.3: Giá trị xuât nhập khẩu của Philippines 2000-2005(triệu USD) Giá trị nhập khẩu của Philippines từ năm 2001-2005 lớn hơn giá trị xuất khẩu, điều đó đòng nghĩa với việc giá trị xuất khẩu ròng (NX) của Philippines âm, làm cho GDP của Philippines thấp. Như vậy, qua việc nghiên cứu trên ta thấy được sự ảnh hưởng của nhập khẩu nói riêng và cuả cả ngành ngoại thương Philippines nói chung đến GDP là khá mạnh, sự tác động ấy đã làm cho GDP của Philippines giảm mạnh, đây cũng là đặc điểm chung của những nước đang phát triển. Nhập khẩu làm thay đổi cơ cấu kinh tế: Có thể nói Philippines là một nước nhập siêu, chủ yếu nhập các máy móc thiết bị của các nước phát triển, và một số mặt hàng nông nghiệp như: Thóc, ngô… Chính vì vậy mà cơ cấu kinh tế của Philippines cũng phải thay đổi theo chiều hướng: Đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có ưu thế trong nước để làm tăng xuất khẩu ròng (NX) nhằm mục đích nâng cao GDP. Mặt khác, Philippines cũng tăng cường phát triển các ngành phải nhập khẩu từ nước ngoài, với mục đích sẽ hạn chế nhập khẩu những mặt hàng này trong tương lai. Và kết quả điển hình cho việc thay đổi này là hiện nay sản lượng lương thực (lúa) của Philippines đã có thể cung cấp đủ cho nhu cầu trong nước. 2.2.3. Chính sách của chính phủ Philippines đối với hoạt động nhập khẩu: Trong phần trước chúng ta đã khẳng định nhập khẩu có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế của Philippines, chính vì vậy mà việc chính phủ phải có những biện pháp điều tiết hoạt động nhập khẩu một cách thật hợp lý là rất quan trọng. Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu về công cụ chủ yếu nhằm điều tiết hoạt động nhập khẩu của Philippines, chính sách thuế và các biện pháp quản lý nhập khẩu khác. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan: Trong hơn 15 năm qua Philippines đã từng bước nới lỏng hàng rào thuế quan của mình. Biểu thuế nhập khẩu đã giảm đáng kể cho dù vẫn còn khá nhiều ngành đang nhận được sự bảo hộ khá lớn từ phía chính phủ như: ô tô, hóa dầu, thép, may mặc, thủ công mỹ nghệ… Tuy nhiên Philippines vẫn giữ mức thuế cao cùng những thủ tục giấy tờ phức tạp đối với hàng nông sản, đặc biệt là những mặt hàng nhạy cảm. Chẳng hạn, đối với lương thực, đặc biệt là ngô, mức thuế trong hạn ngạch là 35% còn ngoài hạn ngạch là 65%; khoai tây: mức thuế trong hạn ngạch là 45%, ngoài hạn ngạch là 60%; hạt cà phê: trong hạn ngạch là 10%, ngoài hạn ngạch là 60%. 15 dòng thuế đối với nông sản hiện khi nhập khẩu phải chịu những ràng buộc về khối lượng tối thiểu theo hạn ngạch thuế quan. Những mặt hàng phải chịu hạn ngạch thuế quan bao gồm: động vật sống, thịt bò tươi và thịt bò ướp lạnh, thịt lợn ướp lạnh, thịt gia cầm, thịt dê, khoai tây, cà phê, cây ngũ cốc và đường. Chỉ thị (A.0) số 9 năm 1996 của chính phủ nước này đã được sửa đổi thành chỉ thị số 8 năm 1997. Theo đó, những hạn ngạch thuế quan này vẫn sẽ được thực hiện kèm theo đó là việc sử dụng những giấy phép nhập khẩu. Điều này rõ ràng cũng nhằm bảo trợ cho ngành nông nghiệp Philippines. Hệ thống thuế quan: * Thuế nhập khẩu: Cũng như tất cả các nước khác trên Thế Giới, tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Philippines đều phải nộp thuế hải quan nếu như không phải là những mặt hàng được miễn thuế phù hợp với quy định của Bộ Tài Cính nước này. Biểu thuế nhập khẩu của Philippines rất đa dạng, từ 3-50% tùy từng loại hàng hóa. Theo chương trình cắt giảm thuế quan đơn phương, hầu hết các mặt hàng đều đã được giảm thuế theo chỉ thị hiện hành E0470; E0189 giảm thuế đối với thiết bị vốn; E0204 đối với hàng dệt may và hóa chất đầu vào; E0264 giảm thuế còn 3% đối với nguyên vật liệu và 10% đối với thành phẩm trước năm 2003. Đây hẳn là những động thái nhằm từng bước dỡ bỏ thuế theo lộ trình cam kết khi Philippines gia nhập WTO. * Định giá tính thuế hàng nhập khẩu: Việc định giá được tiến hành trên cơ sở giá cả thị trường bình đẳng (FMW), một hệ thống khá đặc biệt tại Philippines.Nguyên tắc cơ bản của FMW là trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu là giá bằng, giống hoặc tương tự với giá được mua và bán hay chào bán tự do với số lượng bán buôn thông thường. Giá được xác định tại ngày xuất khẩu, nếu không xác định được rõ ngày có thể lấy ngày gần ngày xuất khẩu nhất ở các thị trường chủ yếu sau đây theo thứ tự ưu tiên giảm dần: (1) Nước xuất khẩu (2) Nước sản xuất * Nộp thuế nhập khẩu: Việc nộp thuế được tiến hành thông qua các ngân hàng và theo phương thức thanh toán điện tử. Theo hệ thống thanh toán trên mạng tự động (OLRS), khi việc nộp thuế thông qua các ngân hàng đã được thông báo cho các cơ quan thuế quan, các cơ quan thuế quan sẽ mở khóa các khoản thuế đã trả và cho phép người điều hành tại các cửa khẩu để người nhập khẩu hoặc người đại diện nhận hàng. Có thể nói đây là một phương pháp tương đối hiện đại và có hiệu quả khá cao, cho phép các hoạt động nhập khẩu được diễn ra một cách nhanh gọn. * Miễn trừ thuế quan: Một số hàng hóa nhất định được miễn thuế nhập khẩu phù hợp với các thủ tục quy định và được Bộ trưởng Bộ Tài Chính chứng nhận. Điều này đương nhiên sẽ dẫn tới sự gia tăng số lương những mặt hàng nhập khẩu được miễn trừ, tức làm tăng nhập khẩu. Các biện pháp quản lý nhập khẩu khác: * Thông quan hàng nhập khẩu: Tất cả hàng hóa khi vào Philippines dù bằng đường không hay đương biển đều phải được người chuyên chở kê khai rõ cho các cơ quan thuế quan. Liên quan đến quá trình nộp chứng từ nhập khẩu, có 4 bước chính sau: (1) Lập chứng từ (2) Kiểm tra và đánh giá (3) Thanh toán thuế (4) Giải phóng hàng hóa khỏi khu vực thuế quan Hải quan Philippines áp dụng hai loại tờ khai nhập khẩu là chính thức và không chính thức. + Chính thức: Hàng hóa nhập khẩu do mục đích thương mại với mức thuế dưới 500 USD hoặc hàng gia dụng không có giá trị thương mại được mang vào Philippines trong hành lý của khách du lịch và thư với mục đích sử dụng cá nhân. + Không chính thức: Các hình thức khác. Tất cả hàng hóa nhập khẩu được yêu cầu kiểm tra trước khi chuyên chở (PSI). Việc kiểm tra được thực hiện bởi một công ty kiểm định được phép hoạt động tại nước xuất khẩu. Hàng hóa phải được chứng nhận “sạch” (CRF) và phải được nộp kèm với tờ khiai nhập khẩu. * Nhập khẩu tạm thời: Ở Philippines, những mặt hàng được nhập khẩu tạm thời là những mặt hàng được phép nhập khẩu không có điều kiện, trong đó những mặt hàng nhất định sử dụng cho các mục đích cụ thể được miễn thuế nhưng phải nộp một khoản bảo đảm tương đương 150% thuế được xác định để đảm bảo tái xuất trong một thời hạn cụ thể. Các mặt hàng được nhập khẩu tạm thời bao gồm: + Hàng mua để phục vụ sửa chữa, chế biến hoặc tu bổ sẽ được tái xuất sau khi hoàn thành việc sửa chữa, chế biến, tu bổ trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày nhập. + Hàng, phương tiện cá nhân và đồ gia dụng thuộc sở hữu của các chuyên gia nước ngoài đang làm việc trong nước và các nhân viên cũng như gia đình của họ được mang theo trong một khoảng thời gian hợp lý. + Hàng đựoc sử dụng cho giải trí công cộng hoặc trưng bày triển lãm, các thiết bị chung sẽ được tái xuất sau 6 tháng kể từ ngày nhập. + Các vật phẩm do nhà sản xuất phim nước ngoài mang theo được tái xuất trong vòng 6 tháng kể từ ngày nhập, có thể gia hạn thêm 6 tháng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc0 20.doc
Tài liệu liên quan