21 đánh giá của người chăm sóc trẻ về hiệu quả của si rô hoastex trong điều trị giảm ho ở trẻ em: một nghiên cứu lượng giá trước-Sau

Cả VAS và VCD đều giảm khá nhanh sau 4 giờ điều trị và hầu như không thay đổi trong hai giờ sau đó. Điều này cũng phù hợp với y văn về thời gian tác dụng giảm ho của những thành phần có trong si rô HoAstex(2). Vì vậy, chúng tôi đề nghị nên điều chỉnh khoảng cách giữa hai liều liên tiếp là 4-6 giờ nhằm phát huy hiệu quả tối đa của HoAstex. Tuy nhiên, nếu phân tích chi tiết sự thay đổi của VCD theo thời gian, chúng ta thấy có đến 63% trường hợp có điểm VCD không thay đổi (52% trường hợp) hoặc tăng thêm (11% trường hợp) trong vòng hai giờ sau khi uống HoAstex; sau đó số trường hợp này giảm dần xuống còn lần lượt là 38% và 22% sau 6 giờ và 12 giờ điều trị. Điều này cho thấy có lẽ si rô HoAstex chỉ thật sự có tác dụng đáng kể từ giờ thứ ba trở đi; và thuốc nên tiếp tục sử dụng sau 12 giờ hoặc phối hợp với điều trị đặc hiệu khác vì có gần ¼ trường hợp không giảm hoặc ho nhiều hơn. Với việc giảm 2,5 cơn ho và một lần ói hoặc thức giấc do ho sau mười hai giờ điều trị đã có tác động tốt đến tâm lý của thân nhân bệnh nhi vì hầu hết các bậc cha mẹ đều cảm thấy lo lắng khi chứng kiến con/ cháu mình ho, đặc biệt họ càng lo lắng hơn khi những cơn ho này làm các cháu thức giấc hoặc ói hết sữa/ thức ăn mà họ cố gắng khuyến khích trẻ ăn trong những giờ trước đó.

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 21 đánh giá của người chăm sóc trẻ về hiệu quả của si rô hoastex trong điều trị giảm ho ở trẻ em: một nghiên cứu lượng giá trước-Sau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Nhi Khoa 142 21 ĐÁNH GIÁ CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ VỀ HIỆU QUẢ CỦA SI RÔ HOASTEX TRONG ĐIỀU TRỊ GIẢM HO Ở TRẺ EM: MỘT NGHIÊN CỨU LƯỢNG GIÁ TRƯỚC-SAU Nguyễn Thị Kim Thoa*, Lê Nguyễn Thanh Nhàn**, Nguyễn Thị Hồng Cẩm*, Nguyễn Thị Xuân Thu*, Từ Thị Hoàng Phượng*, Nguyễn Thị Thu Hương*, Phạm Thị Bạch Thủy*, Phạm Thị Hải Yến** TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Si rô Astex hay HoAstex, một trong những thuốc ho ở trẻ em có nguồn gốc thảo dược, đã được sử dụng rộng rãi tại các tỉnh phía Nam trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, hiệu quả của loại thuốc ho này đến mức độ nào vẫn chưa được nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của HoAstex trong điều trị giảm ho ở trẻ em. Đối tượng và phương pháp: Một nghiên cứu lượng giá trước sau được thực hiện trên 100 bệnh nhi từ 2 tháng đến 5 tuổi mắc các bệnh nhiễm trùng hô hấp, nhập viện điều trị tại Khoa Nội Tổng Quát 1, Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời gian từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 4 năm 2012. Hiệu quả của HoAstex được đánh giá qua mức độ ho của bệnh nhi ở các thời điểm trước và sau khi sử dụng. Mức độ ho được đo lường bằng thang điểm VAS và VCD. Kết quả & Bàn luận: Có 100 bệnh nhi được đưa vào nghiên cứu, tuổi trung bình 18,74 ±13,35 tháng, nam chiếm 58%, 12% có sử dụng kháng sinh trước khi nhập viện, chẩn đoán lúc nhập viện là viêm hô hấp trên (21%), viêm họng (22%), viêm mũi họng (14%), viêm phế quản (21%), viêm tiểu phế quản (15%), tiêu chảy cấp (8%), rối loạn tiêu hóa (12%), nhiễm siêu vi (6%), sốt cao co giật (2%), viêm thanh khí phế quản (1%), dị ứng da (1%). Trong đó, có 23 trường hợp có hai trong số những chẩn đoán trên. Điểm VAS và VCD đều giảm một cách có ý nghĩa thống kê (p<0,0001) qua các thời điểm trước và sau khi sử dụng. Sau 12 giờ điều trị, HoAstex giúp giảm 2,5 cơn ho, một lần ói và một lần thức giấc do ho. Kết luận: Dữ liệu nghiên cứu cho thấy, HoAstex có vẻ có hiệu quả trong điều trị giảm ho trên những bệnh nhi từ 2 tháng đến 5 tuổi mắc các bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp. Từ khóa: hiệu quả của si rô HoAstex, điều trị giảm ho, trẻ em ABSTRACT TITLE: EFFICACY OF HOASTEX THROUGH CARETAKERS’ ASSESSMENT: A BEFORE-AFTER STUDY Nguyen Thi Kim Thoa, Le Nguyen Thanh Nhan, Nguyen Thi Hong Cam, Nguyen Thi Xuan Thu, Tu Thi Hoang Phuong, Nguyen Thi Thu Huong, Pham Thi Bach Thuy, Pham Thi Hai Yen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 142 - 148 Background and Objectives: HoAstex, one of anti-cough drugs that derives from herbal, has been widely used in South of Vietnam for years. However, the efficacy of HoAstex hasn’t been studied yet. So, we conducted this study to evaluate the efficacy of HoAstex in relieving cough in children with acute respiratory infections. Patients and Methods: Patients: One hundred children aged 2 months up to 5 years with acute respiratory * Khoa Nội tổng quát 1, BV Nhi Đồng 1 ** Đơn vị NCKH, BV Nhi Đồng 1 Tác giả liên lạc: ThS.BS Lê Nguyễn Thanh Nhàn, ĐT: 0913121691, Email: drnhanbvnhidong1@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 143 infections, admitted to an Internal Department, Children’s Hospital 1 from December 2011 to April 2012. Study design: Before-After study. Outcome measurement: Efficacy of HoAstex was assessed by the severity of cough at seven different points of time. Visual Analogue Scale (VAS) and Verbal Category Descriptive Scale (VCD) were used to measure the severity of cough. Results and Discussion: There were total 100 sick children meeting study criteria. Age mean:18.74 ±13.35 months, male: 58%. Diagnoses at admission: Upper respiratory infection (21%), Sore throat (22%), Acute nasopharyngitis (14%), bronchitis (21%), bronchiolitis (15%), acute diarrhea (8%), abdominal disorders (12%), viral infection (6%), febrile- convulsion (2%), mild CROUP (1%) and allergy (1%). In which, 23 cases had at least two of these diagnoses above. VAS and VCD scores significantly decreased at seven different points of time (before and after treatment) with p<0.0001. After 12 hours treatment, HoAstex helped to decrease 2.5 cough episodes, one time of vomiting and one time of wake-up. Conclusion: Our data suggests that HoAstex seems to have effect in relieving cough in children with acute respiratory infections. Keywords: efficacy HoAstex, relieving cough, children ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm trùng đường hô hấp là một trong những bệnh lý thường gặp nhất ở trẻ em. Ở các nước phát triển cũng như các nước nghèo, trung bình mỗi năm một trẻ mắc 6-8 đợt nhiễm trùng hô hấp. Trên các bệnh nhi này, ho là biểu hiện thường làm cho các bà mẹ lo lắng vì nó ảnh hưởng đến sinh hoạt của bé, đặc biệt là ngủ và bú. Ho có thể làm cho các cháu thức giấc hoặc nôn ra thức ăn hoặc sữa mà bà mẹ cố dỗ dành hoặc vốn từng ít một. Đối với trẻ em, lựa chọn một thuốc ho vừa an toàn vừa hiệu quả không đơn giản. Ở Việt Nam, hầu hết các thuốc ho được cho là an toàn đều có nguồn gốc thảo dược, xuất phát từ các bài thuốc trong dân gian(10,11) và một trong số đó là si rô Astex. Si rô Astex với thành phần chính là tần dày lá do khoa Dược Bệnh viện Nhi Đồng 1 bào chế đã được sử dụng hơn 20 năm qua để điều trị giảm ho cho các bệnh nhi mắc các bệnh lý về đường hô hấp, đặc biệt là các bệnh nhi dưới 5 tuổi. Chính vì vậy, si rô Astex đã trở thành thương hiệu “ thuốc ho Nhi đồng” trong một thời gian dài. Tuy nhiên, kể từ tháng 9 năm 2010, Bệnh viện Nhi Đồng 1 đã chính thức nhượng quyền sản xuất cho cho một công ty dược phẩm và từ đó si rô Astex có tên thị trường là Si rô HoAstex (thành phần gồm có tần dày lá (húng chanh), núc nác và eucalyptol(8). Mặc dù đã được bác sĩ và người thân bệnh nhi tin dùng trong nhiều năm nhưng hiệu quả giảm ho của si rô Astex trước đây hay si rô HoAstex hiện nay đến mức nào vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của si rô HoAstex trong điều trị giảm ho ở bệnh nhi có bệnh lý đường hô hấp được điều trị tại khoa Nội Tổng Quát 1 Bệnh viện Nhi Đồng 1 đồng thời cũng ghi nhận những tác dụng không mong muốn của si rô HoAstex xảy ra trong thời gian nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu Xác định mức độ ho của bệnh nhi bằng thang điểm VAS và VCD ở các thời điểm sau: lúc nhập viện (trước khi uống HoAstex), 2 giờ, 4 giờ và 6 giờ sau uống HoAstex. Ghi nhận những tác dụng không mong muốn xảy ra trong thời gian nghiên cứu. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện tại khoa Nội Tổng Quát 1 Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời gian từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 4 năm 2012. Thiết kế nghiên cứu Trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ kiểm định giả thuyết “si rô HoAstex làm giảm mức độ ho ở bệnh nhi mắc các bệnh đường hô hấp (theo tiêu chí chọn mẫu)”. Do không thể thực hiện được nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Nhi Khoa 144 mù đôi, giả thuyết trên được chúng tôi kiểm định trong một nghiên cứu lượng giá trước-sau. Nghĩa là hiệu quả của si rô HoAstex được đánh giá ở các thời điểm trước và sau khi sử dụng. Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhi được điều trị tại Khoa Nội Tổng Quát 1 Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ ngày 01 tháng 12 năm 2011 đến ngày 23 tháng 4 năm 2012 và thỏa các tiêu chí chọn vào như sau: (1) Tuổi bệnh nhi từ 2 tháng đến 5 tuổi; (2) Ho, không khò khè, không thở nhanh; (3) Không được điều trị kháng sinh tại khoa nghiên cứu ít nhất 12 giờ kể từ lúc nhập viện; (4) Không có bệnh tim bẩm sinh; (5) Không có bệnh ngoại khoa cần phẫu thuật; (6) Tuổi của người chăm sóc > =18 tuổi; (7) Thường xuyên chăm sóc trẻ trong thời gian nằm viện và (8) Đồng ý tham gia nghiên cứu. Chúng tôi sẽ loại khỏi nghiên cứu nếu có ít nhất một trong các tiêu chí sau: (1) Bệnh nhi chuyển phòng cấp cứu; (2) Bệnh nhi ho >14 ngày; (3) Bệnh nhi phải chuyển khoa khác trước khi hoàn tất nghiên cứu; (4) Đang điều trị bệnh tiểu đường(8); (5) Thân nhân bệnh nhi không biết đọc, không biết viết; (6) Thân nhân bệnh nhi không có đủ thời gian hoàn tất được phiếu đánh giá ho. Cỡ mẫu Dựa vào công thức tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu lượng giá trước-sau (before-after study)(7). Với ngưỡng ý nghĩa thống kê alpha=0,05, lực của test 80%, hệ số tương quan giữa hai lần đo r =0,5 (để có cỡ mẫu tối đa), chúng tôi tính được cỡ mẫu là 88 đối tượng. Cỡ mẫu này có khả năng phát hiện một hệ số ảnh hưởng 30%. Tuy nhiên để trừ hao những trường hợp bỏ cuộc và thiếu sót dữ liệu (missing data), chúng tôi quyết định thu thập số liệu trên 100 bệnh nhi. Đo lường kết cục (outcome measurement) Hiệu quả giảm ho của thuốc si rô HoAstex đã được đánh giá ở 7 thời điểm: lúc nhập viện - trước khi sử dụng si rô HoAstex, 2 giờ, 4 giờ, 6 giờ và 2 giờ, 4 giờ và 6 giờ sau liều thứ hai. Chúng tôi sử dụng thang điểm đánh giá ho cấp tính ở trẻ em VAS (Visual Analogue Scale) và VCD (Verbal Category Descriptive Scale) để đánh giá mức độ ho(3,6). VAS là thang điểm đánh giá ho do người chăm sóc trẻ tự đánh giá. VAS có giá trị nhỏ nhất là 0 tương ứng với trẻ không ho, và lớn nhất là 10 tương ứng với mức độ ho nặng nhất. Điểm càng cao mức độ ho càng nặng VCD là thang điểm đánh giá mức độ ho ở trẻ em được căn cứ vào tần suất xuất hiện cơn ho và ảnh hưởng của nó đến sinh hoạt hằng ngày của bệnh nhi như ăn, bú, ngủ, chơi. Người chăm sóc trẻ sẽ được phát một bảng nhật ký ghi nhận số lần ho và các ảnh hưởng của cơn ho đến sinh hoạt của trẻ. Mức độ ho của bệnh nhi được đánh giá qua thang điểm như sau: 0 điểm: không ho; 1 điểm: ho 1 đến 2 cơn 2 điểm: ho nhiều hơn 2 cơn; 3 điểm: ho thường xuyên nhưng không ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày; 4 điểm: ho thường xuyên và có ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày; 5 điểm: Sinh hoạt hằng ngày thường xuyên bị ảnh hưởng nhiều do ho. Điểm đánh giá ho theo VCD do nghiên cứu viên quyết định dựa vào tần suất ho và ảnh hưởng của nó đến sinh hoạt hằng ngày như đã trình bày ở trên. Qui trình tiến hành nghiên cứu Bệnh nhân nhập khoa Nội Tổng Quát 1 trong thời gian từ tháng ngày 1/12/2011 đến 23/4/2012 thỏa các tiêu chí chọn mẫu và chấp thuận tham gia nghiên cứu bằng văn bản đã được đưa vào nghiên cứu. Nghiên cứu viên thu thập thông tin về dân số học, tình hình bệnh hiện tại, chẩn đoán lúc nhập viện và kết cuộc điều trị. Người chăm sóc trẻ được phát bảng tự đánh giá ho bao gồm 1 bản VAS và 1 bản nhật ký ho. Người chăm sóc trẻ điền vào mẫu VAS và nộp lại cho điều dưỡng nghiên cứu trước khi nhận spHoAstex. Nhật ký ho đã được thu lại 12 giờ sau đó. 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 145 Xử lý và trình bày số liệu Do việc xem VAS và VCD là các biến số liên tục (thang khoảng-interval scale) hay biến số thứ tự (ordinal scale) hiện giờ vẫn còn nhiều bàn cãi(5) nên trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ xử lý số liệu theo cả hai hướng. Số liệu sẽ được trình bày bằng tỷ lệ phần trăm đối với các biến số định danh. Các biến số liên tục có phân phối bình thường sẽ được trình bày bằng số trung bình, khoảng tin cậy 95% của số trung bình và độ lệch chuẩn và kiểm định sự khác biệt bằng phép kiểm t cặp đôi hoặc ANOVA lặp lại (repeated ANOVA). Đối với các biến số liên tục có phân phối không bình thường hay biến số thứ tự sẽ được trình bày bằng số trung vị, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất và khoảng tin cậy 95% của số trung vị. Khoảng tin cậy 95% của số trung vị sẽ được tính bằng phương pháp boostrap trên phần mềm STATA 10.0. Wilcoxon test và Friedman test được dùng để kiểm định hai hay nhiều số trung bình của các biến số có phân phối không bình thường hoặc biến số thứ tự. Ngưỡng ý nghĩa p=0,05 được áp dụng trong tất cả các phép kiểm. Kiểm soát sai lệch Việc đánh giá mức độ ho của bệnh nhi có thể mắc phải những sai lệch sau: sai lệch do thay đổi người chăm sóc, do diễn tiến tự nhiên của bệnh, do nhớ lại (thân nhân bệnh nhi quên điền vào nhật ký ho) và do ý kiến chủ quan của thân nhân bệnh nhi. Để hạn chế tối đa những sai lệch này, chúng tôi đã loại ra những trường hợp thay đổi người chăm sóc, chỉ thực hiện nghiên cứu trong 12 giờ và sử dụng hai thang đo song song (VAS và VCD). Bảo mật thông tin và y đức Đề cương nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng khoa học công nghệ của bệnh viện ngày 11/01/2011. Tất cả thông tin bệnh nhi sẽ được mã hóa và chỉ có nhân viên của ĐVNCKH, các nghiên cứu viên chính, thành viên Hội đồng khoa học công nghệ bệnh viện và đại diện đơn vị tài trợ mới được quyền tiếp cận hồ sơ nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ được công bố khi được Hội đồng khoa học và công nghệ của Bệnh viện Nhi Đồng 1 nghiệm thu và có sự đồng ý của nhóm nghiên cứu và nhà tài trợ. KẾT QUẢ Trong thời gian từ ngày 01 tháng 12 năm 2011 đến ngày 23 tháng 4 năm 2012, chúng tôi đã tầm soát tất cả 122 bệnh nhi. Hai mươi hai bệnh nhi bị loại khỏi nghiên cứu do không đạt tiêu chí chọn mẫu. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Trong 100 bệnh nhi được đưa vào nghiên cứu, tuổi trung bình 18,74 ±13,35 tháng, nam chiếm 58%, 12% có sử dụng kháng sinh trước khi nhập viện, chẩn đoán lúc nhập viện là viêm hô hấp trên (21%), viêm họng (22%), viêm mũi họng (14%), viêm phế quản (21%), viêm tiểu phế quản (15%), tiêu chảy cấp (8%), rối loạn tiêu hóa (12%), nhiễm siêu vi (6%), sốt cao co giật (2%), viêm thanh khí phế quản (1%), dị ứng da (1%). Trong đó có 23 trường hợp có hai trong số những chẩn đoán trên. Về trình độ văn hóa của người chăm sóc trẻ: cấp 1 (4%), cấp 2 (31%), cấp 3 (44%) và cao đẳng-đại học (21%). Hiệu quả của si rô HoAstex Bàng 1:-Điểm VAS trước và sau khi sử dụng si rô HoAstex VAS vào khoa VAS2 liều 1 VAS4 liều 1 VAS6 liều 1 VAS2 liều 2 VAS4 liều 2 VAS6 liều 2 Trung bình (KTC95%) 5,15(4 ,84- 5,46) 4,14(3 ,87- 4,41) 3,74(3 ,47- 4,01) 3,74(3 ,48-4) 3(2,75 -3,25) 2,62(2 ,39- 2,85) 2,45(2 ,22- 2,46) Trung vị (KTC95%) 5 (5-5) 4 (4-4) 4 (3-4) 4 (3-4) 3 (3-3) 3 (2-3) 2 (2-3) Độ lệch chuẩn 1,58 1,39 1,37 1,32 1,25 1,18 1,16 Giá trị nhỏ nhất 2 1 1 0 0 0 0 Giá trị lớn nhất 9 8 8 8 7 7 7 Friedman test: p<0.0001 (VAS phân phối không bình thường) (VAS được xử lý như biến thứ tự hoặc biến định lượng liên tục) Bảng 2: Sự thay đổi VAS% theo thời gian Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Nhi Khoa 146 VAS % 2h sau liều 1 VAS% 4h sau liều 1 VAS% 6h sau liều 1 VAS% 2h sau liều 2 VAS% 4h sau liều 2 VAS% 6h sau liều 2 Tăng 25% 1 1 0 0 0 0 Không thay đổi 14 4 13 2 0 1 Giảm <20% 22 11 10 1 1 0 Giảm 20- 40% 57 60 52 33 17 12 Giảm 40- 60% 6 24 24 53 56 53 Giảm 60- 80% 0 0 0 8 21 26 Giảm 80- 100% 0 0 1 3 5 8 Tổng % 100 100 100 100 100 100 VAS là thang đo mức độ ho của bệnh nhi do người chăm sóc trẻ đánh giá dựa trên cảm nhận chủ quan. VAS giảm 2,7 điểm (hơn 50%) sau 12 giờ điều trị (bảng 1) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,0001. Phân tích xu hướng thay đổi của VAS trung bình theo thời gian điều trị (bảng 1), chúng ta thấy VAS giảm nhanh trong 2 giờ đầu, tốc độ giảm chậm hơn trong 2 giờ tiếp theo và ít thay đổi sau 4 giờ điều trị. Số liệu trong bảng 2 cho thấy: lúc bắt đầu điều trị, 15% bệnh nhi có điểm VAS không thay đổi hoặc tăng thêm, 85% bệnh nhi có điểm VAS giảm từ 20% đến 60%. Tuy nhiên, sau 12 giờ điều trị số bệnh nhi có điểm VAS không thay đổi, giảm từ 20% đến 60% và trên 60% lần lượt là 1%, 65% và 34%. Bảng 3: Điểm VCD trước và sau khi sử dụng si rô HoAstex VCD vkhoa (n=99) VCD2 h sau liều1 VCD4 h sau liều1 VCD6 h sau liều1 VCD2 h sau liều2 VCD4 h sau liều2 VCD6 h sau liều2 Trung bình (KTC 95%) 2,77(2 ,56- 2,98) 2,49(2 ,34- 2,64) 2,10(1 ,97- 2,32) 1,93(1 ,83- 2,03) 1,80(1 ,71- 1,89) 1,60(1 ,5-1,7) 1,52(1 ,42- 1,62) Trung vị (KTC 95%) 3 (2-3) 2 (2-2) 2 (2-2) 2 (2-2) 2 (2-2) 2 (1-2) 2 (1-2) Độ lệch chuẩn 1,06 0,78 0,66 0,50 0,47 0,51 0,50 Giá trị nhỏ nhất 1 1 1 1 1 1 1 Giá trị lớn nhất 5 5 4 3 3 3 2 Friedman test: p<0,0001 (VCD phân phối không bình thường) Bảng 4: Sự thay đổi VCD % theo thời gian điều trị VCD% 2h sau liều 1 VCD% 4h sau liều 1 VCD% 6h sau liều 1 VCD% 2h sau liều 2 VCD% 4h sau liều 2 VCD% 6h sau liều 2 Tăng 300% 1 0 0 0 0 0 Tăng 200% 3 1 0 1 0 0 Tăng 100% 4 2 1 3 3 3 Tăng 50% 2 0 0 0 0 0 Tăng 33% 1 0 0 0 0 0 Không thay đổi 52 44 37 31 24 19 Giảm 20- 40% 28 32 31 28 21 20 Giảm 40- 60% 6 15 20 21 25 31 Giảm 60- 80% 2 4 7 13 24 22 Giảm 80- 100% 0 1 1 2 2 4 Tổng % (n=99, missing:1) 100 100 100 100 100 100 VCD là thang đo mức độ ho dựa vào số lần ho và ảnh hưởng của ho đến sinh hoạt của bé. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của ho được đánh giá bằng số lần thức giấc và ói do ho. Tương tự như VAS, điểm VCD (bảng 3) giảm từ 2,77 xuống còn 1,52 sau 12 giờ điều trị và xu hướng thay đổi của VCD tương tự như VAS: giảm nhanh trong 2 giờ đầu, giảm chậm trong 2 giờ kế tiếp và thay đổi ít sau 4 giờ điều trị. Khảo sát sự thay đổi VCD% theo thời gian điều trị (bảng 4), chúng ta thấy: 11% bệnh nhi có VCD tăng từ 33% đến 300% so với ban đầu, 52% bệnh nhi có VCD không thay đồi, 34% bệnh nhi có VCD giảm từ 20%-60% và 2% bệnh nhi có VCD giảm 60%-80%. Tuy nhiên, sau 12 giờ điều trị số bệnh nhi có VCD không thay đổi, giảm 20%-60%, 60%-80% và 80%-100% lần lượt là 19%, 51%, 22% và 4%. Khác với VAS, vẫn còn 3% bệnh nhi có VCD tăng sau 12 giờ điều trị. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 147 Biểu đồ 1: Sự thay đổi số trung bình của số cơn ho, số lần ói do ho, số lần thức giấc do ho theo thời gian điều trị. (**: repeated ANOVA/Friedman test, p<0,0001) Bảng 5 Bootstrap for Wilcoxon test Độ khác biệt trước và sau 12 giờ điều trị Trung bình Bootstrap lập lại 1000 lần Sai số Sai số chuẩn Ngưỡng ý nghĩa (2 đuôi) KTC 95% Giới hạn dưới Giới hạn trên Số cơn ho 2,54 -0,004 0,173 0,001 2,18 2,89 Số lần thức giấc do ho 1,02 0,006 0,177 0,001 0,70 1,41 Số lần ói do ho 1,20 0,002 0,152 0,001 0,90 1,50 Số liệu từ biểu đồ 1 và bảng 5 cho thấy, sau 12 giờ điều trị đã giảm được 2,5 số cơn ho, 1,2 số lần ói và 1 lần thức giấc do ho và các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (p=0,001) Tác dụng không mong muốn Chúng tôi không ghi nhận bất kỳ trường hợp nào bị nổi mề đay hoặc ói ngay sau khi uống trong thời gian nghiên cứu. BÀN LUẬN Công thức si rô HoAstex xuất phát từ một bài thuốc đông dược gồm có ba thành phần chính gồm tần dày lá, núc nác và eucalyptol. Mặc dù đã được sử dụng rộng rãi trên thị trường Việt Nam nhưng hiệu quả tác dụng giảm ho của nó vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Nghiên cứu này đã xác định được mức độ tác dụng giảm ho của si rô HoAstex qua các chỉ số VAS và VCD do người chăm sóc trẻ tự đánh giá ở các thời điểm trước và sau khi uống si rô HoAstex. Dữ liệu nghiên cứu cho thấy có sự thay đổi về các chỉ số đánh giá mức độ ho trước và sau khi dùng si rô HoAstex như sau: (i) chỉ số VAS trung bình giảm 28% (từ 5.15 xuống 3.7) sau 6 giờ điều trị và 50% (từ 5.15 xuống 2.45) sau 12 giờ điều trị; (ii) chỉ số VCD giảm theo thứ tự 30% và 50% sau 6 giờ và 12 giờ điều trị; (iii) chỉ số VAS và VCD giảm nhanh trong 4 giờ đầu và gần như không thay đổi trong 2 giờ sau đó; (iiii) số lần ho giảm 1 cơn và 2,5 cơn sau 6 giờ và 12 giờ; giảm 1 lần ói, 1 lần thức giấc do ho sau 12 giờ điều trị. Các chỉ số đánh giá mức độ ho (VAS và VCD) giảm một cách có ý nghĩa thống kê sau 6 giờ và 12 giờ điều trị có thể do sự phối hợp của các yếu tố sau đây: (1) Tác dụng giảm ho thật sự của HoAstex vì trong thành phần có chất kháng khuẩn, chống viêm và giảm ho(4,9); (2) Diễn biến tự nhiên của bệnh và(3). Cảm nhận chủ quan của người nhà bệnh nhi khi đánh giá VAS. Tuy nhiên, tác động của diễn biến tự nhiên của bệnh hay hiện tượng regression to mean(1) và cảm nhận chủ quan của thân nhân bệnh nhi đã được chúng tôi hạn chế tối đa bằng cách chỉ thực hiện nghiên cứu trong 12 giờ và sử dụng thêm chỉ số VCD để kiểm chứng. Chỉ số VAS thay đổi cùng chiều và có mức độ chêch lệch không lớn so với VCD cho thấy ảnh hưởng từ cảm nhận chủ quan của thân nhân bệnh nhi vào sự thay đổi chỉ số VAS là không đáng kể. Tóm lại, mức độ ho giảm một cách có ý nghĩa sau 12 giờ điều trị có lẻ phần lớn là do tác dụng của HoAstex. Về mặt sinh học, có lẽ cơ chế tác dụng của HoAstex trong điều trị giảm ho ở trẻ mắc bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính là sự phối Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Nhi Khoa 148 hợp của ba tác động: dịu họng, kháng viêm và kháng khuẩn. Thật vậy, cả 3 chất trong thành phần của si rô HoAstex đều có tác dụng kháng khuẩn. Ngoài ra, núc nác và eucalyptol còn có thêm tác dụng kháng viêm và kháng dị ứng(4,9). Vì vậy, HoAstex không chỉ được chỉ định trên những bệnh nhi viêm hô hấp trên do nhiễm siêu vi mà nên được chỉ định trên những bệnh nhi viêm đường hô hấp dưới như viêm phế quản cấp, viêm tiểu phế quản cấp. Cả VAS và VCD đều giảm khá nhanh sau 4 giờ điều trị và hầu như không thay đổi trong hai giờ sau đó. Điều này cũng phù hợp với y văn về thời gian tác dụng giảm ho của những thành phần có trong si rô HoAstex(2). Vì vậy, chúng tôi đề nghị nên điều chỉnh khoảng cách giữa hai liều liên tiếp là 4-6 giờ nhằm phát huy hiệu quả tối đa của HoAstex. Tuy nhiên, nếu phân tích chi tiết sự thay đổi của VCD theo thời gian, chúng ta thấy có đến 63% trường hợp có điểm VCD không thay đổi (52% trường hợp) hoặc tăng thêm (11% trường hợp) trong vòng hai giờ sau khi uống HoAstex; sau đó số trường hợp này giảm dần xuống còn lần lượt là 38% và 22% sau 6 giờ và 12 giờ điều trị. Điều này cho thấy có lẽ si rô HoAstex chỉ thật sự có tác dụng đáng kể từ giờ thứ ba trở đi; và thuốc nên tiếp tục sử dụng sau 12 giờ hoặc phối hợp với điều trị đặc hiệu khác vì có gần ¼ trường hợp không giảm hoặc ho nhiều hơn. Với việc giảm 2,5 cơn ho và một lần ói hoặc thức giấc do ho sau mười hai giờ điều trị đã có tác động tốt đến tâm lý của thân nhân bệnh nhi vì hầu hết các bậc cha mẹ đều cảm thấy lo lắng khi chứng kiến con/ cháu mình ho, đặc biệt họ càng lo lắng hơn khi những cơn ho này làm các cháu thức giấc hoặc ói hết sữa/ thức ăn mà họ cố gắng khuyến khích trẻ ăn trong những giờ trước đó. Mặc dù đã cố gắng hạn chế đến mức tối đa những sai lệch trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu này có thể vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ sai lệch do không có nhóm đối chứng ngẫu nhiên (nhóm giả dược) và không thể loại trừ hoàn toàn sai lệch do cảm nhận chủ quan của thân nhân bệnh nhi khi đánh giá về mức độ ho. Ngoài ra, trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ theo dõi bệnh nhi trong vòng 12 giờ nên hoàn toàn không có thông tin diễn biến bệnh trạng của bệnh nhi sau đó. Vì vậy, chúng tôi đề nghị nên có một nghiên cứu theo dõi bệnh nhi trong thời gian lâu hơn (đến khi xuất viện hoặc chuyển khoa khác). KẾT LUẬN Số liệu của nghiên cứu này cho thấy có vẻ si rô HoAstex có tác dụng giảm ho trên bệnh nhi từ 2 tháng đến 5 tuổi mắc các bệnh lý về đường hô hấp ở mức độ nhẹ. Thuốc hầu như tác dụng đáng kể từ giờ thứ ba đến giờ thứ 4 sau uống. Thuốc có khả năng giúp giảm 2,5 cơn ho, một lần ói do ho và một lần thức giấc do ho sau 12 giờ điều trị. Không ghi nhận có trường hợp nào bị dị ứng hoặc ói ngay sau khi uống trong thời gian nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bland JM, Altman DG (1994). Regression towards the mean. BMJ; 308: 1499. 2. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 1, lần xuất bản thứ 1, nhà xuất bản Khoa Học và Kỹ Thuật, năm 2004, trang 137- 139, 1009- 1011. 3. Chang AB et al (1998). Subjective scoring of cough in children: parent-completed vs child-completed diary cards vs an objective method, Eur Respir J; 11: 462–466. 4. Dược Điển Việt Nam, nhà xuất bản Y học Hà Nội, lần xuất bản thứ 4, năm 2009, 856: 788-789. 5. Jamieson S (2004). Likert scales: how to use them. Blackwell Publishing Ltd Medical Education; 38: 1212–1218. 6. Leconte S, Ferrant D, Dory V, Degryse J (2011). Validated Methods of Cough Assessment: A Systematic Review of the Literature. Respiration;81:161–174. 7. Nguyễn Văn Tuấn (2010). Phương pháp ước tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu Y học. Y học thực chứng và phân tích bài báo. Tài liệu lưu hành nội bộ,178-204. 8. Toa thuốc si rô HoAstex (2010), Công ty Cổ phần Dược phẩm OPC, SĐK: VD-11070-10, cấp ngày 15.04. 9. Từ điển Bách khoa Dược học, lần xuất bản thứ 1, năm 1999, trang 243, 310- 311, 454. 10. WHO (2001). Cough and cold remedies for the treatment of acute respiratory infections in young children. CAH, 5-10. 11. Zhang X, Wu T, Zhang J, Yan Q, Xie L, Liu GJ (2010). Chinese medicinal herbs for the common cold (Review). The Cochrane Systematic Reviews, Issue 10: 3-117.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf21_danh_gia_cua_nguoi_cham_soc_tre_ve_hieu_qua_cua_si_ro_hoa.pdf
Tài liệu liên quan