310_1504_2114251_20190324_013309
Tổn thương gân dưới vai dù ít nhưng vì là
gân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững
phía trước của khớp vai và xoay trong khớp vai
nên khi tổn thương đứt gân gây ra đau vai và
hạn chế vận động khớp vai. Nhiều cách khám để
đánh giá tổn thương và mức độ tổn thương gân
đã được giới thiệu(1,5,7) ví dụ như belly press test,
lift-off test, Napoleon test. Tổn thương gân cũng
được chia ra làm đứt 1/3 trên, 2/3 trên hay toàn
bộ gân(1). Trong trường hợp bệnh nhân này gân
chỉ đứt < 1/3 trên của toàn bộ gân nên các
nghiệm pháp trên khó phát hiện ra tổn thương,
điều này phù hợp với nhân xét của tác giả
Burkhart khi so sánh mối tương quan giữa
nghiệm pháp Napoleon và mức độ tổn thương
gân(1).
Vấn đề phẫu thuật khâu phục hồi gân đứt đã
được các tác giả ghi nhận là mang lại kết quả
tốt(1,3,4,5,7) đầu tiên là phương pháp mổ mở(3,5,6)
đem lại kết quả khả quan. Cùng với sự phát triển
của nội soi khớp vai vào đầu những năm 90,
Burkhart đã đi tiên phong trong việc ứng dụng
nội soi khớp vai vào việc khâu gân dưới vai, kết
quả theo dõi trung bình 10.7 tháng với 92% tốt
và rất tốt theo thang điểm UCLA cải biên. Sau
đó các tác giả khác cũng cho kết quả tốt khi dùng
nội soi khớp để khâu gân này. Lafosse(7) dùng
CT Scan có bơm thuốc cản quang để đánh giá sự
toàn vẹn của gân dưới vai sau khi khâu qua nội
soi, kết quả 15/17 gân được khâu lành tốt, 2/17 bị
rách bán phần sau khi khâu với thời gian theo
dõi trung bình 29 tháng. Tuy nhiên các báo cáo
của các tác giả trên dừng lại ở mức độ tin cậy IV,
không có một nghiên cứu nào so sánh kết quả
giữa hai phương pháp mổ mở và nội soi khớp.
Trong nước cho đến hiện nay chưa có tổng
kết hay báo cáo nào cho biết chính xác tỉ lệ tổn
thương của gân này là bao nhiêu và cũng chưa
thấy ai báo cáo về kỹ thuật khâu gân này bằng
phương pháp mổ mở hay nội soi. Đây là ca
đầu tiên chúng tôi thực hiện khâu gân dưới vai
và là khâu gân qua nội soi khớp. Kết quả bước
đầu trên bệnh nhân là đáng khích lệ với số
điểm cải thiện đáng kể sau mổ (từ 12 lên 33
điểm). Tuy vậy để có kết luận về phương pháp
khâu gân dưới vai qua nội soi cần có những
nghiên cứu với số lượng bệnh nhân nhiều hơn,
thời gian theo dõi lâu hơn, và thiết kế những
nghiên cứu có độ tin cậy cao hơn. Kết quả sau
mổ của bệnh nhân đã mở ra cho chúng tôi một
hướng nghiên cứu mới trong việc ứng dụng
nội soi khớp vào việc điều trị bệnh lý rách gân
dưới vai và giới thiệu thêm một phương pháp
điều trị rách gân này song song với với phương
pháp mổ mở kinh điển.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 310_1504_2114251_20190324_013309, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 1
KHÂU GÂN DƯỚI VAI QUA NỘI SOI KHỚP VAI
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP
Tăng Hà Nam Anh*
TÓM TẮT
Mở đầu: Gân cơ dưới vai có thể bị rách toàn phần hoặc bán phần một mình hay phối hợp với các tổn thương
khác của khớp vai. Phẫu thuật nội soi khớp vai có thể dùng để khâu gân dưới vai khi gân này bị rách.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của kỹ thuật khâu rách bán phần gân cơ dưới vai qua nội soi nhân một trường
hợp.
Phương pháp: Chúng tôi giới thiệu, lần đầu tiên ở Việt Nam, một trường hợp bệnh nhân có tổn thương SLAP
và rách bán phần gân cơ dưới vai đã được điều trị phẫu thuật bằng phương pháp nội soi khớp vai.
Kết quả: Bệnh nhân được theo dõi sau 3 tháng phẫu thuật bằng thang điểm UCLA(University of California at
Los Angeles). Kết quả điểm số theo thang điểm UCLA đã tăng từ 12 điểm trước mổ thành 33 điểm sau mổ. Theo
tiêu chuẩn của thang điểm này bệnh nhân có kết quả tốt.
Kết luận: Rách bán phần hoặc toàn phần gân cơ dưới vai có thể khâu lại bằng kỹ thuật nội soi khớp vai. Cần có
nghiên cứu với số lượng bệnh nhân lớn hơn trước khi kỹ thuật này được phổ biến rộng rãi.
ABSTRACT
ARTHROSCOPIC SUBSCAPULARIS TENDON REPAIR. CASE REPORT
Tang Ha Nam Anh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 1 - 2008: 310 – 312
Background: Subscapularis can be torn isolatedly or the tear can be combined with another lesions for example
a rotator cuff tear or a SLAP lesion. The tear of this tendon can be sutured by a classic open surgery or an
arthroscopic repair.
Objective: Our objective was to evaluate the preliminary results of one case arthroscopic subscapularis tendon
repair.
Method: We present, the fisrt time in Viet Nam, the arthroscopic technique for repairing of subscaplaris tear
and the follow up of 3 months. The shoulder was evaluated using a modified UCLA (University of California at Los
Angeles) score.
Result: The patient, who had a SLAP lesion and a partial subscapularis tear, had an increasing of UCLA score
from a preoperative score of 12 to a postoperative score of 33. By UCLA criteria, the patient had a good result.
Conclusion: The arthroscopic technique can be applied for repairing of subscaplaris tear. We need to have a
further study for applying of this technique.
MỞ ĐẦU
Cơ dưới vai là một trong số bốn gân của
chóp xoay là gân dưới vai, trên gai, dưới gai và
tròn bé. Cơ này bám vào mấu động bé xương
cánh tay là cơ duy nhất làm nhiệm vụ xoay
trong khớp vai và là cơ giúp giữ vững phía
trước của khớp vai(2). Tổn thương đứt bán
phần hay hoàn toàn gân cơ dưới vai đã được
đề cập trong các báo cáo trên thế giới(6). Gần
đây các tác giả bắt đầu chú ý tới tình trạng đứt
gân này vì gây ra tình trạng đau, mất vững
phía trước khớp vai(1,3,4,5,7). Nhiều cách khám để
phát hiện tổn thương gân này cùng với sự
* Bộ môn CTCH – PHCN Đại học Y Dược TP.HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 2
phát triển của hình ảnh học cho phép chẩn
đoán thương tổn và việc mổ khâu lại gân rách
đã được tiến hành. Tuy vậy vì tổn thương gân
này khá ít, khoảng 10%(7) gân cơ này bị tổn
thương đơn độc mà không phối hợp với các
tổn thương của chóp xoay nên các báo cáo về
điều trị gân này còn ít.
Phương pháp phẫu thuật khâu gân gồm
đầu tiên là mổ mở với kết quả khả quan(3,5,6),
sau đó với sự phát triển của nội soi khớp vai,
một số tác giả đã ứng dụng nội soi khớp vào
việc khâu gân(1,4,7). Các tác giả, mặc dù thời
gian theo dõi còn ngắn, đã cho thấy kết quả
khả quan lên tới 92% bệnh nhân có kết quả tốt
và rất tốt theo thang điểm của trường Đại Học
California ở Los Angeles cải biên (UCLA).
Lafosse(7) dựa trên kết quả theo dõi lâu dài của
việc khâu gân trên gai và dưới gai qua nội soi
và dựa vào khảo sát CTScan có cản quang sau
mổ chứng minh kết quả sau mổ sẽ ngày càng
cải thiện hơn.
Tại Việt Nam theo như chúng tôi biết chưa
có báo cáo chính thức nào về tỉ lệ tổn thương
của gân này dù là đơn độc hay phối hợp,
không có báo cáo nào về phương pháp điều trị
mổ mở hay nội soi cho gân dưới vai. Chúng tôi
giới thiệu ở đây phương pháp khâu gân dưới
vai qua nội soi khớp vai nhân một trường hợp
bệnh nhân có tổn thương sụn viền trên từ
trước ra sau (SLAP lesion: superior labrum
anterior to posterior lesion) và rách gân dưới
vai bán phần.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả nhân một trường hợp bệnh nhân có
tổn thương gân dưới vai phối hợp với bệnh lý
khác trong khớp vai đã được phát hiện tình cờ
khi nội soi.
KẾT QUẢ
Đây là bệnh nhân nam, sinh năm 1942,
thuận tay phải. Đau tay P 10 ngày, đã dùng
thuốc nhưng không đỡ, cơn đau ngày càng
tăng, bệnh nhân hạn chế đưa tay ra trước <90
độ, đau khi nằm ngủ nghiêng về bên P. Khám
bệnh nhân có Biceps loading test II dương
tính, O’Brient dương tính, tuy nhiên nghiệm
pháp belly press test và Napoleon test âm tính
ngoại trừ ấn đau vùng mấu động lớn và bé.
Palm up test âm tính. Bệnh nhân được cho nội soi
khớp vai với chẩn đoán tổn thương SLAP và nội
soi nhằm mục đích chẩn đoán và điều trị.
Khi nội soi ghi nhận bệnh nhân có tổn
thương SLAP độ II và có rách bán phần gân cơ
dưới vai. Tổn thương SLAP và gân dưới vai đã
được khâu cố định qua nội soi khớp.
Phẫu thuật được tiến hành ở tư thế bệnh
nhân nằm nghiêng, kéo tay 3,5kg, gây mê nội
khí quản. Vào khớp vai bằng đường nội soi
phía sau cho ống soi và bằng đường trước cho
dụng cụ. Đường trước ngoài phụ được tạo ra
thêm để tiến hành khâu tổn thương SLAP và
khâu gân dưới vai. Kiểm tra trong khớp vai
thấy vùng cơ trên gai dưới gai còn nguyên,
gân nhị đầu dài không bị tổn thương, bệnh
nhân có tổn thương sụn viền trên và gân cơ
dưới vai bị rách khoảng < 1/3 trên của gân.
Tiến hành đóng một mỏ neo có chỉ khâu (mini-
revo-conmed linvatec) vào ổ chảo xương bả
vai để khâu sụn viền trên qua đường nội soi
trước ngoài. Sau đó dùng shaver cắt lọc chỗ
bám của gân dưới vai bị đứt, mài xương cho
chảy máu và làm mới phần gân rách. Qua
đường trước phụ đóng một mỏ neo (mini
revo- linvatec conmed) có chỉ vào vùng chỗ
bám của gân trên gai. Dùng suture hook luồn
chỉ chờ vào đầu gân rách. Một đầu chỉ chờ cột
vào một đầu sợi chỉ mỏ neo và được kéo qua
đầu gân. Bắt đầu cột chỉ để cố định đầu gân
rách vào xương chỗ bám cũ của gân. Kiểm tra
xoay cánh tay thấy đầu gân được cố định tốt.
Chế độ luyện tập sau mổ: bệnh nhân được
bất động vai trong tư thế dạng nhẹ, tránh động
tác xoay ngoài trong 4 tuần, sau 4 tuần bắt đầu
cho bệnh nhân tập các động tác con lắc đồng
hồ, đưa tay ra trước và sau, dộng tác bò tường.
hai tháng sau bệnh nhân bắt đầu tập gồng cơ, tập
chủ động sức cơ của vùng vai.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 3
Bệnh nhân kết quả theo dõi sau 3 tháng
bằng thang điểm UCLA cải biên của tác giả
Burkhart(1) cho thấy có cải thiện từ 12 điểm
trước mổ lên thành 33 điểm sau mổ và xếp loại
tốt.
BÀN LUẬN
Tổn thương gân dưới vai dù ít nhưng vì là
gân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững
phía trước của khớp vai và xoay trong khớp vai
nên khi tổn thương đứt gân gây ra đau vai và
hạn chế vận động khớp vai. Nhiều cách khám để
đánh giá tổn thương và mức độ tổn thương gân
đã được giới thiệu(1,5,7) ví dụ như belly press test,
lift-off test, Napoleon test. Tổn thương gân cũng
được chia ra làm đứt 1/3 trên, 2/3 trên hay toàn
bộ gân(1). Trong trường hợp bệnh nhân này gân
chỉ đứt < 1/3 trên của toàn bộ gân nên các
nghiệm pháp trên khó phát hiện ra tổn thương,
điều này phù hợp với nhân xét của tác giả
Burkhart khi so sánh mối tương quan giữa
nghiệm pháp Napoleon và mức độ tổn thương
gân(1).
Vấn đề phẫu thuật khâu phục hồi gân đứt đã
được các tác giả ghi nhận là mang lại kết quả
tốt(1,3,4,5,7) đầu tiên là phương pháp mổ mở(3,5,6)
đem lại kết quả khả quan. Cùng với sự phát triển
của nội soi khớp vai vào đầu những năm 90,
Burkhart đã đi tiên phong trong việc ứng dụng
nội soi khớp vai vào việc khâu gân dưới vai, kết
quả theo dõi trung bình 10.7 tháng với 92% tốt
và rất tốt theo thang điểm UCLA cải biên. Sau
đó các tác giả khác cũng cho kết quả tốt khi dùng
nội soi khớp để khâu gân này. Lafosse(7) dùng
CT Scan có bơm thuốc cản quang để đánh giá sự
toàn vẹn của gân dưới vai sau khi khâu qua nội
soi, kết quả 15/17 gân được khâu lành tốt, 2/17 bị
rách bán phần sau khi khâu với thời gian theo
dõi trung bình 29 tháng. Tuy nhiên các báo cáo
của các tác giả trên dừng lại ở mức độ tin cậy IV,
không có một nghiên cứu nào so sánh kết quả
giữa hai phương pháp mổ mở và nội soi khớp.
Trong nước cho đến hiện nay chưa có tổng
kết hay báo cáo nào cho biết chính xác tỉ lệ tổn
thương của gân này là bao nhiêu và cũng chưa
thấy ai báo cáo về kỹ thuật khâu gân này bằng
phương pháp mổ mở hay nội soi. Đây là ca
đầu tiên chúng tôi thực hiện khâu gân dưới vai
và là khâu gân qua nội soi khớp. Kết quả bước
đầu trên bệnh nhân là đáng khích lệ với số
điểm cải thiện đáng kể sau mổ (từ 12 lên 33
điểm). Tuy vậy để có kết luận về phương pháp
khâu gân dưới vai qua nội soi cần có những
nghiên cứu với số lượng bệnh nhân nhiều hơn,
thời gian theo dõi lâu hơn, và thiết kế những
nghiên cứu có độ tin cậy cao hơn. Kết quả sau
mổ của bệnh nhân đã mở ra cho chúng tôi một
hướng nghiên cứu mới trong việc ứng dụng
nội soi khớp vào việc điều trị bệnh lý rách gân
dưới vai và giới thiệu thêm một phương pháp
điều trị rách gân này song song với với phương
pháp mổ mở kinh điển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Burkhart S.S, Tehrany A.M (2002). Arthroscopic
Subscapularis Tendon Repair: Technique and Preliminary
Results. Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and
Related Surgery, Vol 18, No 5 (May-June), pp 454-463.
2 Dodson C.C, Williams III R.J (2006). Traumatic Shoulder
Muscle Ruptures. In: Johnson D.L and Mair S.D. Clinical
Sports Medicine, 1st ed, pp 299-306. Mosby Elsevier,
Philadelphia.
3 Edwards T.B, Walch G, Sirveaux F, Molé D, Nové-
Josserand L, Boulahia A, Neyton L, Szabo I, Lindgren B
(2005). Repair of Tears of the Subscapularis. The Journal of
Bone and Joint Surgery American, Vol 87-A, No 4, pp 725-
730.
4 Fox J.A, Noerdlinger M.A, Romeo A.A (2002).
Arthroscopic Subscapularis Repair. Operative Technique
in Orthopaedics, Vol 12, No 3, pp 209-217.
5 Gerber, Christian, Hersche, Otmar, Farron, Alain (1996).
Isolated Rupture of the Subscapularis Tendon. Results of
Operative Repair. The Journal of Bone and Joint Surgery
American, Vol 78-A, No 7, pp 10015-1023.
6 Hauser E.D (1954). Avulsion of the Tendon of the
Subscapularis Muscle. The Journal of Bone and Joint
Surgery American, Vol 36-A, No 1, pp: 139-141.
7 Lafosse L, Jost B, Reiland Y, Audebert S, Toussaint B,
Gobezie R (2007). Structural Integrity and Clinical
Outcomes After Arthroscopic Repair of Isolated
Subscapularis Tears. The Journal of Bone and Joint
Surgery American, Vol 89-A, No 6, pp 1184-1193.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 4
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 5
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 310_1504_2114251.pdf