Trên thực tế nước ta và có lẽ cũng ở nhiều nước khác, do sự tiến bộ của y khoa thường đi theo hướng chuyên khoa sâu nên một bệnh nhân nhất là bệnh nhân cao tuổi cơ bản mang trong người nhiều bệnh cùng lúc có thể được điều trị bởi nhiều bác sỹ trong nhiều lĩnh vực khác nhau và được sử dụng số lượng đơn thuốc tương ứng với từng bệnh lý mà họ mắc phải, kết quả cuối cùng là một bệnh nhân phải uống quá nhiều thuốc mà không có sự quản lý chung của một bác sỹ nào. Do đó, điều cần thiết là mỗi bệnh nhân cần phải có một bác sỹ quản lý tất cả các loại thuốc để biết được tình trạng bệnh lý của bệnh nhân một cách tổng hợp nhất. Để thực hiện được điều này cần thiết phải phát triển mạng lưới bác sỹ gia đình, khi đó bệnh nhân chỉ đến bác sỹ chuyên khoa khi thật sự cần thiết và từ đó tránh sử dụng cùng lúc nhiều loại thuốc ảnh hưởng đến giấc ngủ.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các bệnh lý nội khoa, các rối loạn tâm thần và việc sử dụng thuốc trên người cao tuổi mất ngủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 376
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC BỆNH LÝ NỘI KHOA, CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN VÀ
VIỆC SỬ DỤNG THUỐC TRÊN NGƯỜI CAO TUỔI MẤT NGỦ
Đỗ Thị Xuân Hương*, Nguyễn Minh Đức**, Nguyễn Văn Trí ***, Ngô Tích Linh ****
TÓM TẮT
Mở đầu: Hầu hết những người cao tuổi khi đến phòng khám bệnh đều phàn nàn với bác sỹ họ bị khó ngủ
hoặc mất ngủ. Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng
đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi. Tỷ lệ mất ngủ ở người cao tuổi ngày càng cao và có
rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến giấc ngủ ở người cao tuổi. Nghiên cứu này nhằm tìm ra những bệnh lý nội
khoa, những rối loạn tâm thần và những thuốc đang sử dụng ở người cao tuổi bị mất ngủ.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng. Có 306 bệnh nhân tham gia nghiên cứu phân thành 2
nhóm: nhóm mất ngủ (161) và nhóm chứng (145). Các đối tượng tham gia đều được điều tra đầy đủ như nhau
về các đặc điểm dịch tễ học, các bệnh lý nội khoa, tâm thần, các yếu tố môi trường, các thói quen cá nhân và các
đặc điểm của giấc ngủ của họ.
Kết quả: Các yếu tố có liên quan ghi nhận gồm bệnh lý dạ dày (OR=2,67), bệnh khớp mãn (OR=2,07), suy
thận mãn (OR=4,51), bệnh mạch vành (OR=2,28), bệnh lý trầm cảm và rối loạn lo âu (p<0,001), dùng corticoides
(OR=2,14), dãn phế quản (OR=2,04).
Kết luận: Có nhiều yếu tố liên quan đến mất ngủ người cao tuổi trong đó số lượng các bệnh lý nội khoa, số
lượng thuốc sử dụng, một số bệnh lý nội khoa và nhất là các rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu là ghi nhận có liên
quan mạnh.
Từ khóa: mất ngủ, người cao tuổi.
ABSTRACT
THE ASSOCIATION OF MEDICAL DISEASES, MENTAL DISORDERS AND THE USE OF DRUGS IN THE
INSOMNIA ELDERLY
Do Thi Xuan Huong, Nguyen Minh Duc, Nguyen Van Tri, Ngo Tich Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 376 - 381
Introduction: Most elderly patients who went to the clinic complained to doctors that they had trouble with
sleeping or insomnia. Today, insomnia has been acknowleged as one of the causes affecting the health and quality
of life of the elderly.The rate of insomnia in the elderly is increasing and there are many factors affecting the sleep
in the elderly. The aim of this study is to find out the medical conditions, mental disorders and the drugs that have
been being used in the insomnia elderly.
Research methodology: case-control study. There are 306 patients in the study divided into two groups:
insomnia (161) and control group (145). The participants were equally under full investigation of the
epidemiological characteristics, other medical conditions, mental, environmental factors, personal habits and
characteristics of their sleep.
Results: The factors related records, including gastric pathology (OR = 2.67), arthritis patients (OR = 2:07),
** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. ** Bộ môn Lão khoa, ĐHYD TP Hồ Chí Minh
*** Bộ Môn Tâm Thần, ĐHYD TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: BS Đỗ Thị Xuân Hương ĐT :0903883573 Email: thxuanh@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 377
chronic renal failure (OR = 4:51), coronary artery disease (OR = 2.28), disease Management of depression and
anxiety disorders (p <0.001), use corticoides (OR = 2.14), bronchodilators (OR = 2:04).
Conclusion: There are many factors associated with insomnia in the elderly, however the number of medical
conditions, the numbers of drug used, some medical conditions and particularly depressive disorders, anxiety
disorders are recorded that strongly related.
Key words: insomnia, elderly.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ mất ngủ ở người cao tuổi ngày càng
cao. Có rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến giấc
ngủ ở người cao tuổi: bệnh lý nội khoa, tâm
thần, thuốc men, môi trường....Vấn đề nghiên
cứu là “tại sao tỉ lệ mất ngủ ở người cao tuổi
đang gia tăng?”. Ở nước ta giấc ngủ người cao
tuổi chưa được quan tâm đến, rất ít công trình
nghiên cứu về vấn đề nầy. Từ thực tiễn này
chúng tôi tiến hành nghiên cứu về các yếu tố
liên quan góp phần ảnh hưởng gây mất ngủ ở
người cao tuổi mà trong nghiên cứu này là
những bệnh lý nội khoa, những rối loạn tâm
thần và những thuốc đang sử dụng ở người cao
tuổi.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Tất cả bệnh nhân cao tuổi ≥ 60 tuổi có mất
ngủ và không mất ngủ đến khám và điều trị nội
ngoại trú tại BV Thống Nhất và BV Nguyễn Tri
Phương từ tháng 5 năm 2009 đến tháng 5 năm
2010 vì những nguyên nhân khác nhau.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Nhóm bệnh: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥
60 tuổi) có vấn đề về mất ngủ đồng ý tham gia
nghiên cứu:
Thời gian đi vào giấc ngủ kéo dài trên 30
phút.
Trong giấc ngủ, thời gian tỉnh giấc nhiều
lần, thời gian tổng cộng trên 30 phút.
Thức dậy buổi sáng quá sớm.
Cảm giác mệt mỏi sau khi thức dậy và ngủ
ngày quá nhiều.
Những rối loạn nầy xảy ra ít nhất 3 lần trong
1 tuần, kéo dài ít nhất 1 tháng, gây ra những khó
chịu và biến chứng trong ngày.
Khó duy trì tình trạng thức ngủ hay chu kỳ
thức ngủ hằng định.
Có các vấn đề khác gây cản trở giấc ngủ.
- Nhóm chứng: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥
60 tuổi) có vấn đề về nội khoa, tâm thần ... đến
BV khám và điều trị nhưng không bị mất ngủ.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có rối loạn tri giác hoặc hôn mê.
Bệnh nhân bệnh tâm thần thuộc nhóm loạn
thần đã được chẩn đoán xác định trước đó và
đang điều trị.
Cỡ mẫu
Được tính theo công thức sau:
2
1 1 1 1 2 21 / 2 1
2
1 2
Z 2P 1 P Z P 1 P P 1 P
n
P P
→ n = 121 người cho mỗi nhóm bệnh và chứng.
Thực tế chúng tôi thu thập được 161 BN nhóm
mất ngủ và 145 bệnh nhân nhóm chứng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
- Trực tiếp thu thập dữ liệu từ bệnh nhân
đến khám tại Khoa Khám bệnh, Khoa Lão, các
Khoa Nội Tổng hợp BV Nguyễn Tri Phương và
BV Thống Nhất với các tiêu chuẩn chọn bệnh và
các tiêu chuẩn loại trừ nêu trên.
- Các bệnh nhân được chọn vào mẫu nghiên
cứu sẽ được:
* Khám lâm sàng đánh giá tình trạng mất
ngủ và không mất ngủ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 378
* Thực hiện bảng câu hỏi khảo sát về rối
loạn giấc ngủ (RLGN) và các thang điểm đánh
giá tình trạng tâm thần.
- Sau đó nhóm bệnh nhân này được tiếp tục
tái khám và theo dõi ít nhất 2 lần sau đó để xác
định tình trạng mất ngủ.
Công cụ thu thập số liệu
* Bảng câu hỏi khảo sát về RLGN.
* Thang HDRS (Thang HAM-D).
* Thang WS (Worry Scale for Older Adulds).
* Thang buồn ngủ EPWORTH.
Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS
13.0 for Windows.
KẾT QỦA
Đặc điểm bệnh lý nội khoa
Bệnh lý cấp tính nặng
Bảng 1. Số bệnh lý cấp tính trên một bệnh nhân
Số bệnh lý
Nhóm NC Nhóm chứng
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ %
Không 60 37,3 89 61,4
1 bệnh 68 42,2 46 31,7
≥ 2 bệnh 33 20,5 10 6,9
Tổng 161 100,0 145 100,0
2 = 21,414, p < 0,001
Di chứng bệnh lý cấp tính nặng
Bảng 2. Di chứng
Di chứng*
Nhóm NC Nhóm chứng
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ %
Có 47 29,4 30 20,7
Không 113 70,6 115 79,3
Tổng 161 100,0 145 100,0
2 = 3,041, p = 0,081; * Liệt nửa người, liệt hạ chi, gãy
xương, suy hô hấp mãn
Bệnh lý mãn tính
Bảng 3. Tiền căn có bệnh mãn tính
Bệnh mãn
tính
Nhóm NC Nhóm chứng Chung
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ %
Có 156 96,9 135 93,1 291 95,1
Không 5 3,1 10 6,9 15 4,9
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0
2 = 2,352, p = 0,125
Bảng 4. Số bệnh lý mãn tính trên một bệnh nhân
Số bệnh
lý
Nhóm NC Nhóm chứng Chung
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ %
Không 5 3,1 10 6,9 15 4,9
1 bệnh 25 15,5 44 30,3 69 22,5
2 bệnh 46 28,6 45 31,0 91 29,7
> 2 bệnh 85 52,8 46 31,7 131 42,8
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0
2 = 17,732, p < 0,001
Bảng 5. Thời gian phát hiện bệnh lý mãn tính
Thời gian
Nhóm NC Nhóm chứng Chung
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ %
≤ 6 tháng 1 0,6 0 1 0,3
6 - 12 tháng 2 1,3 3 2,2 5 1,7
> 12 tháng 153 98,1 132 97,8 285 97,9
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0
2 = 1,238, p = 0,538
Mô tả bệnh lý mãn tính
Bảng 6. Các bệnh mãn tính
Bệnh mãn
tính
Nhóm
P
OR
(95%KTC) NC Chứng
Tâm thần 4 (2,5) 0 0,125
1,92
(1,72 – 2,14)
Parkinson 3 (1,9) 4 (2,8) 0,601
0,67
(0,15 – 3,04)
Bệnh lý mạch
máu não
14 (8,7) 5 (3,4) 0,058
2,67
(0,94 – 7,59)
Bệnh lý dạ dày 10 (6,2) 2 (1,4) 0,038
4,37
(1,02 – 21,98)
Bệnh lý gan
mật
1 (0,6) 5 (3,4) 0,075
0,17
(0,02 – 1,52)
Suy thận mạn 14 (8,7) 3 (2,1) 0,012
4,51
(1,27 – 16,02)
Bệnh lý TLT 15 (9,3) 4 (2,8) 0,018
3,62
(1,17 – 11,18)
Bệnh khớp
mãn
58 (36,0)
31
(21,4)
0,005
2,07
(1,24 – 3,45)
Bệnh ĐTĐ 36 (22,4)
37
(25,5)
0,518
0,84
(0,49 – 1,42)
Bệnh phổi mãn 31 (19,3)
19
(13,1)
0,146
1,58
(0,85 – 2,94)
Suy tim mãn 8 (5,0) 2 (1,4) 0,078
3,74
(0,78 – 17,91)
Bệnh huyết áp 119 (73,9)
110
(75,9)
0,695
0,90
(0,54 – 1,51)
Rối loạn nhịp
tim
4 (2,5) 1 (0,7) 0,216
3,67
(0,41 – 33,21)
Bệnh mạch
vành
43 (26,7)
20
(13,8)
0,005
2,28
(1,27 – 4,09)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 379
Đặc điểm về bệnh lý tâm thần
Bảng 7. Rối loạn trầm cảm theo điểm thang HAM-D
Nhóm
bệnh nhân
Nhóm NC Nhóm chứng Chung
BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ %
Không trầm
cảm
55 34,2 133 91,7 188 61,4
Trầm cảm
nhẹ
100 62,1 11 7,6 111 36,3
Trầm cảm
nặng
6 3,7 1 0,7 7 2,3
Tổng 161 100,0 145 100,0 306 100,0
2 = 106,749, p < 0,001
Bảng 8. Rối loạn lo âu theo thang WS
Điểm thang WS
Nhóm
P
NC Chứng
Điểm TB về tài chính 7,16 ± 3,56 6,29 ± 2,78 0,019
Điểm TB về sức khỏe
25,76 ±
12,16
17,69 ± 6,82 < 0,001
Điểm TB về điều kiện
xã hội
15,92 ± 7,14 11,54 ± 4,04 < 0,001
Điểm trung bình chung
48,47 ±
18,38
35,28 ± 10,77 < 0,001
Đặc điểm về dược phẩm
Bảng 10. Số lượng thuốc trung bình sử dụng trên
một bệnh nhân
Nhóm NC Nhóm chứng Chung
2,65 ± 1,73 2,13 ± 1,81 2,40 ± 1,79
F = 6,437, p = 0,012
Bảng 11. Loại thuốc điều trị
Thuốc điều trị
Nhóm
P OR (95%KTC)
NC Chứng
Corticoids
20
(12,4)
9 (6,2) 0,047
2,14
(0,94 – 4,87)
Kháng viêm
nonsteroids
2 (1,2) 3 (2,1) 0,569
0,59
(0,09 – 3,61)
Ức chế proton 5 (3,1) 3 (2,1) 0,570
1,52
(0,35 – 6,46)
Dãn PQ
25
(15,5)
12 (8,3) 0,038
2,04
(0,98 – 4,22)
Sulfonylureas 16 (9,9) 18 (12,4) 0,419
0,78
(0,38 – 1,59)
Biguanides
17
(10,6)
13 (9,0) 0,640
1,19
(0,56 – 2,56)
Insuline 6 (3,7) 5 (3,4) 0,896
1,08
(0,32 – 3,63)
Ức chế calci
72
(44,7)
58 (40,0) 0,404
1,21
(0,77 – 1,91)
Ức chế men
chuyển
42
(26,1)
45 (31,0) 0,338
0,78
(0,48 – 1,29)
Thuốc điều trị
Nhóm
P OR (95%KTC)
NC Chứng
Ức chế calci + Ức
chế men chuyển
8 (5,0) 15 (10,3) 0,075
0,45
(0,18 – 1,11)
Ức chế beta 3 (1,9) 10 (6,9) 0,029
0,25
(0,07 – 0,95)
Lợi tiểu 5 (3,1) 3 (2,1) 0,570
1,52
(0,36 – 6,46)
Nitrat
19
(11,8)
10 (6,9) 0,144
1,81
(0,81 – 4,02)
BÀN LUẬN-KẾT LUẬN
Đặc điểm về bệnh lý nội khoa
Bệnh lý cấp tính nặng
Trong nhóm tiền sử có bệnh lý cấp tính
nặng, sự cố có bệnh cấp tính nặng và số bệnh
cấp tính nặng có ảnh hưởng lên giấc ngủ, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001, trong
khi các di chứng của bệnh lý cấp tính nặng lại
không p=0,081. Điều này có lẽ do mắc di chứng
bệnh trong một thời gian dài nên bệnh nhân đã
thích nghi được và nó không ảnh hưởng đến
giấc ngủ, còn sự cố có bệnh cấp tính nặng đã
ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trí người bệnh và
ảnh hưởng đến giấc ngủ.
Bệnh lý mãn tính
Trong nhóm tiền căn có bệnh mãn tính, thời
gian mắc bệnh lý mãn tính không có gì khác biệt
giữa 2 nhóm p=0,538 nhưng số lượng bệnh mãn
tính mắc giữa 2 nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê p<0,001. Điều này rõ ràng là đa số
người cao tuổi thường mang trong người ít nhất
một bệnh lý mãn tính nào đó và họ chấp nhận
tình trạng này xem như đây là một sự thay đổi
tất yếu trong quá trình lão hóa như tăng huyết
áp, thoái hóa khớp, Parkinson, mờ mắt, ăn uống
kémnhưng nếu số lượng bệnh mãn tính này
tăng lên nhiều bệnh cùng lúc thì sẽ có ảnh
hưởng lên thể chất và tâm lý của người cao tuổi
từ đó gây mất ngủ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm
bệnh nhân tiền căn có bệnh lý mãn tính sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm mất ngủ
và nhóm chứng chỉ xảy ra ở nhóm bệnh lý mạch
vành (p=0,005), bệnh lý khớp mãn tính (p=0,005),
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 380
bệnh lý thận mãn (p=0,012), bệnh lý tiền liệt
tuyến (p=0,018) và bệnh lý dạ dày (p=0,038). Kết
quả này phù hợp với Marci M (1), riêng những
nhóm bệnh mạch máu não, tiểu đường, bệnh
phổi sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê,
điều này có lẽ do mẫu nghiên cứu nhỏ chưa đủ
sức khai thác hết những ảnh hưởng của bệnh lý
nội khoa lên giấc ngủ. So sánh các nghiên cứu
khác:
Trong một nghiên cứu khảo sát ở Mỹ của
Pearson NJ, Johnson LL, Nahin RL (2) về những
yếu tố liên quan đến mất ngủ cũng chỉ ghi nhận
những tình trạng có liên quan như béo phì
(OR=1,15), tăng huyết áp (OR=1,32), suy tim
sung huyết (OR=2,24). Trong nghiên cứu của Su
TP (4) các tình trạng nội khoa ảnh hưởng đến
giấc ngủ là tiểu đêm (OR=20,6), đau (OR=2,4),
trầm cảm (OR=2,2). Theo Thái Minh Trung,
những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy
rằng chứng mất ngủ thường đi đôi với những
bệnh lý tâm thần và thể xác. Những bệnh lý sau
đây thường đi đôi với chứng mất ngủ: trầm cảm
(OR=8,2), suy tim (OR=2,5), loét dạ dày (OR=1,8),
bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (OR=1,5).
Đặc điểm về bệnh lý tâm thần kinh
Các rối loạn trầm cảm và lo âu
Các rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu đều
có ảnh hưởng đến mất ngủ, sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê p<0,001. So sánh với các
nghiên cứu khác:
Kết quả này phù hơp với Y văn, mất ngủ có
mối liên quan chặt chẽ và có tính nhân quả với
trầm cảm và rối loạn lo âu. Kết quả nghiên cứu
của các tác giả Châu Á cũng phù hợp với nghiên
cứu của chúng tôi, trong nghiên cứu của Su TP
ở Đài Loan (4) có mối tương quan giữa trầm
cảm và mất ngủ (OR=2,2). Tương tự, trong
nghiên cứu của Pearson NJ ở Mỹ (2) có sự tương
quan giữa rối loạn lo âu và trầm cảm với mất
ngủ (OR=5,64). Ở Việt Nam, theo một thống kê
của bệnh viện Tâm thần TP.HCM (1) hơn 80%
bệnh nhân đến khám trầm cảm đều có triệu
chứng mất ngủ.
Qua các nghiên cứu chúng tôi nhận xét
rằng mất ngủ và các rối loạn trầm cảm, lo âu
có mối liên hệ nhân quả với nhau, chúng ta
lần đầu tiếp xúc với bệnh nhân không thể biết
đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả nhưng
rõ ràng là tỷ lệ trầm cảm, lo âu trên bệnh nhân
mất ngủ rất cao và ngược lại tỷ lệ mất ngủ
xuất hiện trên bệnh nhân rối loạn trầm cảm, lo
âu cũng cao không kém.
Trong xã hội ngày nay, chính áp lực công
việc, nhịp sống thời công nghiệp và lối sống với
nhiều dịch vụ của cư dân thành thị là những
nguyên nhân chính ảnh hưởng đến chất lượng
giấc ngủ. Xu thế phát triển quá nhanh của kinh
tế xã hội đã làm con người khó thích ứng kịp và
áp lực về mức sống cũng góp phần không nhỏ
làm mất ngủ. Đó là chứng mất ngủ do áp lực
công việc, ban đầu chỉ là khó ngủ do chưa thích
ứng khi thay đổi môi trường làm việc hoặc do
sức ép công việc tác động lên tâm lý, dần dần
nếu chứng khó ngủ không được điều trị hoặc do
người bệnh lo lắng quá mức thì tình trạng nặng
hơn, dẫn đến mất ngủ kéo dài, mãn tính và xuất
hiện kèm theo những triệu chứng đau đầu, cáu
gắt, suy nhược và trầm cảm.
Đặc điểm về dược phẩm
Theo Marci M & cs (1), số lượng thuốc đã và
đang sử dụng ảnh hưởng mạnh đến mức độ
nặng nhẹ của những RLGN do ảnh hưởng trực
tiếp lên cấu trúc giấc ngủ hoặc là do tác dụng
phụ của thuốc. Các nhóm thuốc chính được kê
đơn có thể gây mất ngủ là: các thuốc chống trầm
cảm (SSRIs), thuốc thông mũi, thuốc hạ huyết
áp, thuốc dãn phế quản, nhóm thuốc beta-
blockers, và corticoides.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng vậy,
rõ ràng là tổng lượng thuốc mà một bệnh nhân
phải dùng có ảnh hưởng đến mất ngủ và sự
khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê
(p=0,012). Các nhóm thuốc có ảnh hưởng đến
giấc ngủ là nhóm corticoides (p=0,047), nhóm
thuốc dãn phế quản (p=0,038) và nhóm ức chế
beta (p=0,029).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 381
Trên thực tế nước ta và có lẽ cũng ở nhiều
nước khác, do sự tiến bộ của y khoa thường đi
theo hướng chuyên khoa sâu nên một bệnh
nhân nhất là bệnh nhân cao tuổi cơ bản mang
trong người nhiều bệnh cùng lúc có thể được
điều trị bởi nhiều bác sỹ trong nhiều lĩnh vực
khác nhau và được sử dụng số lượng đơn thuốc
tương ứng với từng bệnh lý mà họ mắc phải, kết
quả cuối cùng là một bệnh nhân phải uống quá
nhiều thuốc mà không có sự quản lý chung của
một bác sỹ nào. Do đó, điều cần thiết là mỗi
bệnh nhân cần phải có một bác sỹ quản lý tất cả
các loại thuốc để biết được tình trạng bệnh lý
của bệnh nhân một cách tổng hợp nhất. Để thực
hiện được điều này cần thiết phải phát triển
mạng lưới bác sỹ gia đình, khi đó bệnh nhân chỉ
đến bác sỹ chuyên khoa khi thật sự cần thiết và
từ đó tránh sử dụng cùng lúc nhiều loại thuốc
ảnh hưởng đến giấc ngủ.
KẾT LUẬN
Có nhiều yếu tố liên quan đến mất ngủ
người cao tuổi trong đó số lượng các bệnh lý nội
khoa, số lượng thuốc sử dụng, một số bệnh lý
nội khoa- tâm thần nhất là các rối loạn trầm
cảm, rối loạn lo âu là ghi nhận có liên quan
mạnh, người bác sỹ lâm sàng phải biết xem xét
nguyên nhân nào là chính từ đó có cái nhìn chính
xác và thái độ điều trị thích hợp cho từng bệnh
nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Marci M, Melanie K, et al (2009), “Sleep disturbances in aging.
Advances in cell aging and gerontology”, Sleep and Aging, Vol.
17, 33-60.
2. Pearson NJ, Johnson LL, Nahin RL (2006), “Insomnia, trouble
sleeping, and complementary and alternative medicine: Analysis
of the 2002 national health interview survey data”, Arch Intern
Med, 166(16): 1775-82.
3. Robert E. Roberts, PhD, Sarah J. Shema, MS and George A.
Kaplan, PhD (1999). Prospective Data on Sleep Complaints and
Associated Risk Factors in an Older Cohort. Psychosomatic
Medicine 61:188-196.
4. Su TP, Huang SR, Chou P (2004), “Prevalence and risk factors of
insomnia in community-dwelling Chinese elderly: a Taiwanese
urban area survey”, Aust N Z J Psychiatry, 38(9): 706-13.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_cac_benh_ly_noi_khoa_cac_roi_loan_tam_than_va.pdf