Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
rằng gia tăng nồng độ Glu trong dịch não tủy
kích thích hệ tuần hoàn và làm tăng MAP, và
HR. Glu tác động lên độ nhạy của phản xạ áp
lực khi dẫn truyền theo kiều khiển ngược âm
tính (negative feedback). Hơn nữa, Glu và
NMDA cùngtác động đến phản xạ áp lực và
gây ra những hiệu ứng tương đồng, chứng tỏ
thụ thể Glu loại NMDA tham gia vào điều tiết
tác động của Glu trong dịch não tủy trong chế
điều hòa hoạt động hệ tuần hoàn
6 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 719 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của Glutamate trong dịch não tủy lên chức năng hệ tuần hoàn tim mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59
54
Ảnh hưởng của Glutamate trong dịch não tủy
lên chức năng hệ tuần hoàn tim mạch
Vũ Thị Thu1,*, Bùi Thị Hương2, Lê Thành Long3, Aleksandrov V4
1Khoa Sinh học, Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
2Viện Y sinh nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga, Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
3Trung tâm Nghiên cứu Bệnh trao đổi chất và Tim mạch, Trường Y, Đại học Inje, Hàn Quốc
4Khoa Sinh học, Trường Đại học Tổng hợp Sư phạm Quốc gia Nga A.I.Herzen,
Saint-Petersburg, Liên bang Nga
Tóm tắt
Glutamate là một trong những chất dẫn truyền kích thích thần kinh quan trọng, tham gia điều hòa hoạt động
chức năng của các hệ nội quan. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành đánh giá ảnh hưởng của việc dẫn
truyền Glutamate và mimetic N-methyl-D-aspartate (NMDA) vào dịch não tủy đến hệ tuần hoàn và giá trị độ
nhạy của phản xạ áp lực trên chuột cống. Kết quả nghiên cứu cho thấy Glutamate được dẫn truyền vào dịch não
tủy làm tăng huyết áp động mạch trung bình, tăng tần số tim đồng thời làm giảm độ nhạy của phản xạ áp lực và
tác động này phụ thuộc vào nồng độ cũng như thời gian tác động. Như vậy, Glutamate trong dịch não tủy có thể
là một yếu tố điều hòa các phản xạ của hệ tuần hoàn với kích thích cơ học.
Nhận ngày 30 tháng 9 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 20 tháng 11 năm 2015, Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 6 năm 2016
Từ khóa: Glutamate, NMDA, chất dẫn truyền kích thích.
1. Mở đầu *
Glutamate (Glu) là một trong những chất
dẫn truyền kích thích phổ biến nhất trong hệ
thần kinh trung ương và có vai trò quan trọng
điều hòa hoạt động của các hệ nội quan [1-4].
Có hai loại thụ thể của Glu đó là thụ thể hướng
ion và thụ thể hướng chuyển hóa. Các thụ thể
này phân bố rộng rãi trong nhiều cấu trúc của
hệ thần kinh trung ương [5, 6], nhưng tập trung
chủ yếu ở các cấu trúc tham gia kiểm soát các
phản xạ chức năng tuần hoàn, hô hấp của tủy
não, đặc biệt là nhân sợi trục thần kinh đơn độc
(Nucleus of the Solitary Tract) - nơi kết thúc
của những dây hướng tâm truyền xung thần
_______
*
Tác giả liên hệ. ĐT. 84-903237808
Email: vtthu2015@gmail.com
kinh từ các thụ quan của hệ tuần hoàn [4,7, 8].
Ngoài ra thụ thể Glu còn tập trung ở phần bụng-
bên của hành tủy [1, 3, 4, 7, 8]. Khi thay đổi
nồng độ Glu trong các cấu trúc này bằng cách
dẫn truyền các chất đối kháng và chất chủ vận
của thụ thể Glu thì các chỉ số tuần hoàn cũng
thay đổi [9-12]. Glu có thể tham gia điều tiết
những phản xạ của hệ tuần hoàn, trong đó có
phản xạ áp lực (baroreflex). Bình thường, các tế
bào thần kinh, tế bào hình sao và hàng rào máu
não đóng vai trò giữ ổn định nồng độ Glu trong
dịch ngoại bào [13] và trong dịch não tủy [13-
14]. Nồng độ này tăng trong các điều kiện thiếu
oxy, thiếu máu cục bộ hay tổn thương não kèm
theo các rối loạn chức năng của hệ tuần hoàn
[15]. Glu tăng cao có thể hoạt hóa các thụ thể
Glu, hệ quả là tác động đến những cơ chế điều
hòa phản xạ và gây ra thay đổi chức năng tuần
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 55
hoàn tim mạch. Cho đến nay chưa có dữ liệu về
vai trò và ảnh hưởng của sự tăng nồng độ Glu
và các nhóm thụ thể Glu trong dịch não tủy đến
những cơ chế phản xạ duy trì sự ổn định của hệ
tuần hoàn tim mạch.
Mục đích của nghiên cứu này đánh giá mức
độ ảnh hưởng của Glu trong dịch não tủy đến
cơ chế phản xạ điều khiển hoạt động của hệ
tuần hoàn và xác định các nhóm thụ thể Glu có
tham gia vào quá trình điều hòa này. Để đạt
được mục tiêu chúng tôi tiến hành nghiên cứu
ảnh hưởng của việc dẫn truyền Glu và mimetic
N-methyl-D-aspartate (NMDA – hoạt hóa
nhóm thụ thể hướng ion NMDA) vào dịch não
tủy đến hệ tuần hoàn và giá trị độ nhạy của
phản xạ áp lực.
2. Phương pháp nghiên cứu
Chuột bạch đực Wistar (2-3 tháng tuổi,
230-350 gram, n=98) được gây mê toàn thân
bằng Urethane (1350mg/kg). Độ sâu gây mê
được kiểm tra bằng phản xạ giác mạc và phản
xạ đau. Thân nhiệt của chuột được duy trì ở
mức 36,8 - 37°C. Ống thông (chiều dài 20 cm,
đường kính ngoài 0,2 mm, đường kính trong
0,1 mm, Heparin nồng độ 2500 ED/ml với tỉ lệ
20:1) được đưa vào động mạch, tĩnh mạch đùi
để đo huyết áp và thử nghiệm với phản xạ áp
lực; mở hộp sọ để dẫn truyền chất vào não thất.
Ghi các chỉ số hoạt động của hệ tuần hoàn
Ống thông động mạch được nối với thiết bị
cảm biến huyết áp và đầu thu của bộ khuếch đại
ML224. Tín hiệu về huyết áp động mạch được
thu nhận bởi thiết bị PowerLab 8/35
(ADInstruments, Australia) và được ghi lại và
xử lý bằng phần mềm LabChart 7.0.
Thử độ nhạy cảm của phản xạ áp lực
Chuột được tiêm tĩnh mạch phenylephrine
(Mezaton, 0,001-0,1 mg/kg, 1 ml/kg) theo thứ
tự liều lượng tăng dần, mỗi lần tiêm cách nhau
3-5 phút khi huyết áp động mạch (AP) và nhịp
tim (HR) trở về giá trị ban đầu và độ nhạy của
phản xạ áp lực được ghi lại. Sự thay đổi độ
nhạy của phản xạ áp lực được đánh giá theo sự
thay đổi của hệ số a trong phương trình của
đường thẳng xấp xỉ y = ax-k.
Trong các thí nghiệm đối chứng chuột được
tiêm tĩnh mạch dung dịch nước muối sinh lý (1
ml/kg)
Dẫn truyền dung dịch Glu và NMDA vào
não thất bên
Chúng tôi sử dụng bơm tiêm Hamilton nối
với kim tiêm siêu nhỏ (đường kính ngoài là
150µm) để đưa 5 µl dung dịch Glu và NMDA
vào não thất bên với các liều lượng khác nhau
với tốc độ 1 µl/s. Trong các thí nghiệm đối
chứng dẫn truyền dung dịch nước muối sinh lý
(5 µl, 1 µl/s).
Phân tích số liệu
Các dữ liệu thu được được xử lý và phân
tích bằng gói phần mềm MS Excel và
Univariate analysis. Sự khác biệt được cho là
đáng tin cậy nếu Р<0,05.
3. Kết quả và thảo luận
Đặc điểm trạng thái chức năng hệ tuần
hoàn của chuột trong quá trình thí nghiệm
Kết qủa mô tả ở hình 1 cho thấy, trong suốt
thời gian tiến hành thí nghiệm (80-90 phút) các
chỉ số chức năng của hệ tuần hoàn và giá trị độ
nhạy của phản xạ áp lực được duy trì khá ổn
định, giá trị ở các mốc thời gian ghi lại có sự
biến động nhưng không có ý nghĩa thống kê
trong đó MAP là 92±3 mmHg, HR là 384±7
nhịp/phút, giá trị phản xạ áp lực với hệ số a là
2,4±0,22, điều này cho chứng tỏ các chỉ số tuần
hoàn nền trong các thí nghiệm đối chứng nằm
trong giới hạn đã được xác lập. Trong điều kiện
gây mê toàn thân bằng Urethan, AP có giá trị là
85-113 mmHg [1, 3, 17]. Giá trị HR trong
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn giá trị HR đã
được công bố trước đây là 6-8%, tuy nhiên mức
độ sai khác là không đáng kể. Tương tự, hệ số a
đặc trưng cho độ nhạy của phản xạ áp lực có thể
dao động từ 1,92±0,47 đến 2,5±0,06, kết quả
thu được trong nghiên cứu này là 2,4±0,22 cũng
nằm trong khoảng giới hạn đó (hình 1).
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59
56
Như vậy, giá trị MAP, HR và a không có
sai khác đáng kể, có thể phản ánh sự ổn định
của chức năng sinh lý hệ tim mạch và cơ chế
điều hòa các phản xạ áp thụ thể trong các điều
kiện thí nghiệm trong nghiên cứu này.
Ảnh hưởng của dẫn truyền Glu và NMDA
đến MAP và HR
Kết quả thí nghiệm cho thấy, Glu và
NMDA được dẫn truyền vào dịch não tủy đều
làm MAP và HR tăng mạnh, tuy nhiên sự
chuyển biến của các chỉ số này có một số khác
biệt và tùy thuộc vào nồng độ các chất. Khi dẫn
truyền liều lượng hiệu quả tối thiểu của Glu
(1,2 µM), MAP và HR tăng cao nhất ở phút thứ
5, sau đó giảm dần xuống giá trị nền trong vòng
25-30 phút. Khi nồng độ của Glu là 12 µM,
MAP đạt giá trị tối đa vào phút thứ 10-15, sau
đó giảm dần đều và quay trở lại giá trị nền ở
phút thứ 50 (hình 2A).
Chỉ số HR tăng mạnh ở giai đoạn đầu và đạt
giá trị tối đa vào phút thứ 10-15 và duy trì ổn
định ở mức gần tối đa trong 20 phút, và bắt đầu
giảm từ phút thứ 30, tuy nhiên, đến cuối thí
nghiệm vẫn chưa giảm tới mức nền (hình 2B).
Mức tăng của MAP tỉ lệ thuận với sự gia tăng
nồng độ chất, ở giai đoạn 10-15 phút, thử
nghiệm Glu 12 µM MAP và Glu 1,2 µM có thể
làm tăng MAP tương ứng là 164±9% và
134±6% so với giá trị nền. Trong khi đó, đối
với HR thì tác dụng này của Glu không gây ra
sự sai khác lớn (tương ứng là 117±3% và
123±3%).
NMDA (liều lượng từ 0,03 nM đến 0,3 nM)
cũng làm tăng MAP và HR; trong đó, sự biến
thiên MAP xảy ra tương tự như dưới tác động
của Glu. Với NMDA 0,2 nM, MAP tăng và đạt
mức tối đa 158±8% so với giá trị nền ở những
phút thứ 10-15 và bắt đầu giảm ở phút 30 và
tiếp tục giảm trở về giá trị nền ở khoảng phút
thứ 50 (hình 3).
Tác động của NMDA lên HR có sự khác
biệt đáng kể so với MAP. HR tăng chậm theo 2
pha (hình 3B): sau khi đạt mức tăng ban đầu là
13% so với giá trị nền (113±2%) tại thời điểm
phút thứ 2 HR giảm và tiếp tục duy trì ổn định
ở mức cao hơn mức nền trong vòng 10 phút
đầu, sau đó ở phút thứ 30 HR lại tăng lần thứ 2
tới 20% so với mức nền (120±5%). Từ phút thứ
50 trở đi, HR bắt đầu giảm và giữ ở giá trị cao
hơn giá trị nền đến cuối thí nghiệm.
Thay đổi độ nhạy của phản xạ áp lực
Glu và NMDA làm giảm đáng kể độ nhạy
của phản xạ áp lực và sự giảm này mang tính
thuận nghịch. Ngay sau khi dẫn truyền Glu, chỉ
số a giảm xuống tới giá trị 1,6±0,20. Ở lần thử
nghiệm thứ 2, giá trị a là 0,9±0,26. Độ nhạy của
phản xạ quay trở lại mức bình thường (mức
nền) ở lần thử nghiệm cuối cùng với giá trị
a=2,2±0,38 (hình 4, hình 5A).
Đánh giá tác động của NMDA tới độ nhạy
của phản xạ áp lực được tiến hành theo quy trình
tương tự như đối với Glu. Ngay sau khi NMDA
bắt đầu được dẫn truyền vào não thất bên hệ số a
giảm xuống tới giá trị 0,5±0,24, sau đó tăng nhẹ
tới 0,9±0,62. Đến cuối thí nghiệm a=2,5±0,51,
gần bằng với giá trị nền (hình 5B), trong khi
không có sự thay đổi nào được ghi nhận ở nhóm
control (nhóm dẫn truyền dung dịch sinh lý).
f
Hình 1. Biến đổi MAP và HR trong các thí nghiệm đối chứng, m: phút.
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 57
Hình 2. Ảnh hưởng của sự dẫn truyền dung dịch Glu 12 µM đến MAP (A) và HR (B) tính theo giá trị %.
c
Hình 3. Ảnh hưởng của sự dẫn truyền dung dịch NMDA 0,2 nM đến MAP (A) và HR (B), giá trị của các chỉ số
tương ứng ngay trước khi dẫn truyền Glu (phút thứ 40 từ khi bắt đầu thí nghiệm được tính là 100%.
f
Tương tự các nghiên cứu khác [12, 16, 17],
trong nghiên cứu này MAP va HR tăng có thể
là kết quả kích hoạt các thụ thể Glu ở các cấu
trúc tham gia điều khiển các chức năng tự động
của cơ thể. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này
còn cho thấy sự thay đổi đồng hướng của MAP
và HR trong điều kiện nồng độ Glu tăng có liên
quan với sự suy giảm cường độ phản xạ áp lực.
Rất có thể các cơ chế điều hòa của Glu tham gia
trong vòng liên hệ ngược âm tính [19-22] hoặc
Glu tác động điều hòa vào cung phản xạ áp lực
trong phạm vi nhân của bó đơn độc. Như vậy,
sự tăng nồng độ Glu trong não là yếu tố làm
giảm độ nhạy của phản xạ áp lực, đồng thời
điều hòa hiệu ứng của mối liên hệ ngược âm
tính trong hệ thống kiểm soát huyết áp động
mạch. Trong các tác động của Glu có sự tham
gia của các thụ thể NMDA (hình 5).
s
Hình 4. Sự thay đổi độ nhạy của phản xạ áp lực dưới tác động của Glu. 1 - trước khi dẫn truyền dung dịch Glu,
2 - dưới tác động của dung dịch Glu 12 µM, 3 - 60 phút sau khi bắt đầu dẫn truyền dung dịch Glu.
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59
58
Hình 5. Ảnh hưởng của dung dịch Glu 6 µM (A) và NMDA 0,2 nM (B) được dẫn truyền vào dịch não tủy đến độ
nhạy của phản xạ áp lực (hệ số a. Trên trục Ox: 1 - giá trị nền; 2,3,4 - thời gian tương ứng với các thửt nghiệm tại
thời điểm 5, 25 và 45 phút từ lúc bắt đầu dẫn truyền.
h
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
rằng gia tăng nồng độ Glu trong dịch não tủy
kích thích hệ tuần hoàn và làm tăng MAP, và
HR. Glu tác động lên độ nhạy của phản xạ áp
lực khi dẫn truyền theo kiều khiển ngược âm
tính (negative feedback). Hơn nữa, Glu và
NMDA cùngtác động đến phản xạ áp lực và
gây ra những hiệu ứng tương đồng, chứng tỏ
thụ thể Glu loại NMDA tham gia vào điều tiết
tác động của Glu trong dịch não tủy trong chế
điều hòa hoạt động hệ tuần hoàn.
Tài liệu tham khảo
[1] Bongianni F., Mutolo D., Carfì M., Pantaleo
T. Respiratory responses to ionotropic
glutamate receptor antagonists in the ventral
respiratory group of the rabbit, Pflugers
Archieve 444 (2002) 602.
[2] Bonham A.C., McCrimmon D.R. Neurones in
a discrete region of the nucleus tractus
solitarius are required for the Breuer-Hering
reflex in rat, Journal of Physiology 427
(1990) 261.
[3] Braga V.A., Antunes V.R., Machado B.H.
Autonomic and respiratory responses to
microinjection of L-glutamate into the
commissural subnucleus of the NTS in the
working heart-brainstem preparation of the
rat, Brain Research 1093 (2006) 150.
[4] Canesin R.O., Bonagamba L.G.H., Machado
B.H. Bradycardic and hypotensive responses
to microinjection of L-glutamate into the
lateral aspect of the commissural NTS are
blocked by an NMDA receptor antagonist,
Brain Res. 852 (2000) 68.
[5] Fagg G.E., Foster A.C. Amino acid
neurotransmitters and their pathways in the
mammalian central nervous system,
Neuroscience 9 (1983) 701.
[6] Frigero M., Bonagamba L.G.H., Machado
B.H. The gain of the baroreflex bradycardia is
reduced by microinjection of NMDA receptor
antagonists into the nucleus tractus solitarii of
awake rats, Journal of Autonomic Nervous
System 79 (2000) 28.
[7] Gören M.Z., Akici A., Berkman K., Onat F.
Cardiovascular responses to NMDA injected
into nuclei of hypothalamus or amygdala in
conscious rats, Pharmacology 61 (2000) 257.
[8] Hawkins R.A. The blood-brain barrier and
glutamate, American Journl of Clinical
Nutrient 90 (2009) 867.
[9] Hehre D.A., Devia C.J., Bancalari E.,
Suguihara C. Brainstem amino acid
neurotransmitters and ventilatory response to
hypoxia in piglets, Pediatrics Research 63
(2008) 46.
[10] Kazemi H., Hoop B. Glutamic acid and
gamma-aminobutyric acid neurotransmitters
in central control of breathing, Journal Apply
Physioly 70 (1991) 1.
[11] Leone C., Gordon F.J. Is L-glutamate a
neurotransmitter of baroreceptor information
in the nucleus of the tractus solitaries, Jounal
Pharmacoly Experimental Therapeutics 250
(1989) 35.
[12] Mizusawa A., Ogawa H., Kikuchi Y., Hida
W., Kurosawa H., Okabe S., Takishima T.,
Shirato K. In vivo release of glutamate in
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 59
nucleus tractus solitarii of the rat during
hypoxia. Journal of Physioly 478 (1994) 55.
[13] Nelson D.O., Cohen H.L., Feldman J.L.,
McCrimmon D.R. Cardiovascular function is
altered by picomole injections of glutamate
into rat medulla. Journal of Neurosciences
(1988) 1684.
[14] Resstel L.B.M, Correa F.M.A. Injection of L-
glutamate into medial prefrontal cortex
induces cardiovascular responses through
NMDA receptor - nitric oxide in rat,
Neuropharmacology 51 (2006) 160.
[15] Takakura C., Moreira T.S., Wet G. H., Gwilt
J.M., Colombari E., Stornetta R. L. and
Guyenet P. G. GABAergic Pump cells of
solitary tract nucleus innervate retrotrapezoid
nucleus hemoreceptors, Journal ò
Neurophysioly 98 (2007) 374.
[16] Talman W.T. Kynurenic acid microinjected into
the nucleus tractus solitarius of rat blocks the
arterial baroreflex but not responses to glutamate,
Neuroscience Letter 102 (1989) 247.
[17] Tsuchihashi T., Abe I., Fujishima M. Role of
Metabotropic Glutamate Receptors in
VentrolateralMedulla of Hypertensive Rats,
Hypertension 24 (1994) 648.
[18] Tsuchihashi T., Averill D.B. Metabotropic
glutamate receptors in the ventrolateral
medulla of rats, Hypertension 21 (1993) 739.
[19] Vardhan A., Kachroo A., Sapru H.N.
Excitatory amino acid receptors in
commissural nucleus of the NTS mediate
carotid chemoreceptor responses, Ericaca
Journal of Physiology 264 (1993) 41.
[20] Young R.S.K., Petroff O.A.C., Aquila W.J.,
Yates J. Effects of glutamate, quisqualate, and
N-methyl-d-aspartate in neonatal brain,
Experimental Neurology 111 (1991) 362.
[21] Гусев Е.И., Скворцова В.И. Ишемия
головного мозга, М.: Медицина, 328
(2001)40.
[22] Сухова Г.К., Ноздрачёв А.Д. Неонатальная
Интермиттирующая гипоксия ускоряет
развитие возрастных нарушений
барорефлекторной чувствительности и
вариабельности сердечного ритма,
Доклады Академии наук 420 (2008) 421.
Effects of Cerebral Glutamate on Cardiovascular Functionality
Vu Thi Thu1, Bui Thi Huong2, Le Thanh Long3, Aleksandrov V4
1Faculty of Biology, The Key Laboratory of Enzyme and Protein Technology (KLEPT),
VNU University of Scienc, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
2Vietnam-Russia Tropical Centre, Nguyen Van Huyen, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
3Cardiovascular and Metabolic Disease Center, Inje University, Korea
4Faculty of Biology Herzen State Pedagogical University of Russia, Petersburg, Russia
Abstract: Glutamate is one of the major excitatory neurotransmitters and plays an important role
in the regulation of visceral functions. In this study, we examined the influence of a glutamate cerebral
level and mimetic N-methyl-D-aspartate on cardiovascular system state and baroreflex sensitivity in
acute experimental rat model. Our data showed that cerebroventicular microinjection of glutamate and
NMDA increased mean arterial blood pressure and heart rate, and decreased baroreflex sensitivity and
this impact depends on the concentration as well as the time impact. Thus, cerebral level of glutamate
is potential factor modulating cardiocirculatory mechanoreflex.
Keywords: Glutamate, NMDA, excitatory neurotransmitters.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1302_1_2542_1_10_20160711_047.pdf