Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
rằng gia tăng nồng độ Glu trong dịch não tủy
kích thích hệ tuần hoàn và làm tăng MAP, và
HR. Glu tác động lên độ nhạy của phản xạ áp
lực khi dẫn truyền theo kiều khiển ngược âm
tính (negative feedback). Hơn nữa, Glu và
NMDA cùngtác động đến phản xạ áp lực và
gây ra những hiệu ứng tương đồng, chứng tỏ
thụ thể Glu loại NMDA tham gia vào điều tiết
tác động của Glu trong dịch não tủy trong chế
điều hòa hoạt động hệ tuần hoàn
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của Glutamate trong dịch não tủy lên chức năng hệ tuần hoàn tim mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 
54 
Ảnh hưởng của Glutamate trong dịch não tủy 
lên chức năng hệ tuần hoàn tim mạch 
Vũ Thị Thu1,*, Bùi Thị Hương2, Lê Thành Long3, Aleksandrov V4 
1Khoa Sinh học, Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein, 
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam 
2Viện Y sinh nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga, Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
3Trung tâm Nghiên cứu Bệnh trao đổi chất và Tim mạch, Trường Y, Đại học Inje, Hàn Quốc 
4Khoa Sinh học, Trường Đại học Tổng hợp Sư phạm Quốc gia Nga A.I.Herzen, 
Saint-Petersburg, Liên bang Nga 
Tóm tắt 
Glutamate là một trong những chất dẫn truyền kích thích thần kinh quan trọng, tham gia điều hòa hoạt động 
chức năng của các hệ nội quan. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành đánh giá ảnh hưởng của việc dẫn 
truyền Glutamate và mimetic N-methyl-D-aspartate (NMDA) vào dịch não tủy đến hệ tuần hoàn và giá trị độ 
nhạy của phản xạ áp lực trên chuột cống. Kết quả nghiên cứu cho thấy Glutamate được dẫn truyền vào dịch não 
tủy làm tăng huyết áp động mạch trung bình, tăng tần số tim đồng thời làm giảm độ nhạy của phản xạ áp lực và 
tác động này phụ thuộc vào nồng độ cũng như thời gian tác động. Như vậy, Glutamate trong dịch não tủy có thể 
là một yếu tố điều hòa các phản xạ của hệ tuần hoàn với kích thích cơ học. 
Nhận ngày 30 tháng 9 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 20 tháng 11 năm 2015, Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 6 năm 2016 
Từ khóa: Glutamate, NMDA, chất dẫn truyền kích thích. 
1. Mở đầu * 
Glutamate (Glu) là một trong những chất 
dẫn truyền kích thích phổ biến nhất trong hệ 
thần kinh trung ương và có vai trò quan trọng 
điều hòa hoạt động của các hệ nội quan [1-4]. 
Có hai loại thụ thể của Glu đó là thụ thể hướng 
ion và thụ thể hướng chuyển hóa. Các thụ thể 
này phân bố rộng rãi trong nhiều cấu trúc của 
hệ thần kinh trung ương [5, 6], nhưng tập trung 
chủ yếu ở các cấu trúc tham gia kiểm soát các 
phản xạ chức năng tuần hoàn, hô hấp của tủy 
não, đặc biệt là nhân sợi trục thần kinh đơn độc 
(Nucleus of the Solitary Tract) - nơi kết thúc 
của những dây hướng tâm truyền xung thần 
_______ 
*
 Tác giả liên hệ. ĐT. 84-903237808 
 Email: vtthu2015@gmail.com 
kinh từ các thụ quan của hệ tuần hoàn [4,7, 8]. 
Ngoài ra thụ thể Glu còn tập trung ở phần bụng-
bên của hành tủy [1, 3, 4, 7, 8]. Khi thay đổi 
nồng độ Glu trong các cấu trúc này bằng cách 
dẫn truyền các chất đối kháng và chất chủ vận 
của thụ thể Glu thì các chỉ số tuần hoàn cũng 
thay đổi [9-12]. Glu có thể tham gia điều tiết 
những phản xạ của hệ tuần hoàn, trong đó có 
phản xạ áp lực (baroreflex). Bình thường, các tế 
bào thần kinh, tế bào hình sao và hàng rào máu 
não đóng vai trò giữ ổn định nồng độ Glu trong 
dịch ngoại bào [13] và trong dịch não tủy [13-
14]. Nồng độ này tăng trong các điều kiện thiếu 
oxy, thiếu máu cục bộ hay tổn thương não kèm 
theo các rối loạn chức năng của hệ tuần hoàn 
[15]. Glu tăng cao có thể hoạt hóa các thụ thể 
Glu, hệ quả là tác động đến những cơ chế điều 
hòa phản xạ và gây ra thay đổi chức năng tuần 
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 55 
hoàn tim mạch. Cho đến nay chưa có dữ liệu về 
vai trò và ảnh hưởng của sự tăng nồng độ Glu 
và các nhóm thụ thể Glu trong dịch não tủy đến 
những cơ chế phản xạ duy trì sự ổn định của hệ 
tuần hoàn tim mạch. 
Mục đích của nghiên cứu này đánh giá mức 
độ ảnh hưởng của Glu trong dịch não tủy đến 
cơ chế phản xạ điều khiển hoạt động của hệ 
tuần hoàn và xác định các nhóm thụ thể Glu có 
tham gia vào quá trình điều hòa này. Để đạt 
được mục tiêu chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
ảnh hưởng của việc dẫn truyền Glu và mimetic 
N-methyl-D-aspartate (NMDA – hoạt hóa 
nhóm thụ thể hướng ion NMDA) vào dịch não 
tủy đến hệ tuần hoàn và giá trị độ nhạy của 
phản xạ áp lực. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Chuột bạch đực Wistar (2-3 tháng tuổi, 
230-350 gram, n=98) được gây mê toàn thân 
bằng Urethane (1350mg/kg). Độ sâu gây mê 
được kiểm tra bằng phản xạ giác mạc và phản 
xạ đau. Thân nhiệt của chuột được duy trì ở 
mức 36,8 - 37°C. Ống thông (chiều dài 20 cm, 
đường kính ngoài 0,2 mm, đường kính trong 
0,1 mm, Heparin nồng độ 2500 ED/ml với tỉ lệ 
20:1) được đưa vào động mạch, tĩnh mạch đùi 
để đo huyết áp và thử nghiệm với phản xạ áp 
lực; mở hộp sọ để dẫn truyền chất vào não thất. 
Ghi các chỉ số hoạt động của hệ tuần hoàn 
Ống thông động mạch được nối với thiết bị 
cảm biến huyết áp và đầu thu của bộ khuếch đại 
ML224. Tín hiệu về huyết áp động mạch được 
thu nhận bởi thiết bị PowerLab 8/35 
(ADInstruments, Australia) và được ghi lại và 
xử lý bằng phần mềm LabChart 7.0. 
Thử độ nhạy cảm của phản xạ áp lực 
Chuột được tiêm tĩnh mạch phenylephrine 
(Mezaton, 0,001-0,1 mg/kg, 1 ml/kg) theo thứ 
tự liều lượng tăng dần, mỗi lần tiêm cách nhau 
3-5 phút khi huyết áp động mạch (AP) và nhịp 
tim (HR) trở về giá trị ban đầu và độ nhạy của 
phản xạ áp lực được ghi lại. Sự thay đổi độ 
nhạy của phản xạ áp lực được đánh giá theo sự 
thay đổi của hệ số a trong phương trình của 
đường thẳng xấp xỉ y = ax-k. 
Trong các thí nghiệm đối chứng chuột được 
tiêm tĩnh mạch dung dịch nước muối sinh lý (1 
ml/kg) 
Dẫn truyền dung dịch Glu và NMDA vào 
não thất bên 
Chúng tôi sử dụng bơm tiêm Hamilton nối 
với kim tiêm siêu nhỏ (đường kính ngoài là 
150µm) để đưa 5 µl dung dịch Glu và NMDA 
vào não thất bên với các liều lượng khác nhau 
với tốc độ 1 µl/s. Trong các thí nghiệm đối 
chứng dẫn truyền dung dịch nước muối sinh lý 
(5 µl, 1 µl/s). 
Phân tích số liệu 
Các dữ liệu thu được được xử lý và phân 
tích bằng gói phần mềm MS Excel và 
Univariate analysis. Sự khác biệt được cho là 
đáng tin cậy nếu Р<0,05. 
3. Kết quả và thảo luận 
Đặc điểm trạng thái chức năng hệ tuần 
hoàn của chuột trong quá trình thí nghiệm 
Kết qủa mô tả ở hình 1 cho thấy, trong suốt 
thời gian tiến hành thí nghiệm (80-90 phút) các 
chỉ số chức năng của hệ tuần hoàn và giá trị độ 
nhạy của phản xạ áp lực được duy trì khá ổn 
định, giá trị ở các mốc thời gian ghi lại có sự 
biến động nhưng không có ý nghĩa thống kê 
trong đó MAP là 92±3 mmHg, HR là 384±7 
nhịp/phút, giá trị phản xạ áp lực với hệ số a là 
2,4±0,22, điều này cho chứng tỏ các chỉ số tuần 
hoàn nền trong các thí nghiệm đối chứng nằm 
trong giới hạn đã được xác lập. Trong điều kiện 
gây mê toàn thân bằng Urethan, AP có giá trị là 
85-113 mmHg [1, 3, 17]. Giá trị HR trong 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn giá trị HR đã 
được công bố trước đây là 6-8%, tuy nhiên mức 
độ sai khác là không đáng kể. Tương tự, hệ số a 
đặc trưng cho độ nhạy của phản xạ áp lực có thể 
dao động từ 1,92±0,47 đến 2,5±0,06, kết quả 
thu được trong nghiên cứu này là 2,4±0,22 cũng 
nằm trong khoảng giới hạn đó (hình 1). 
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 
56 
Như vậy, giá trị MAP, HR và a không có 
sai khác đáng kể, có thể phản ánh sự ổn định 
của chức năng sinh lý hệ tim mạch và cơ chế 
điều hòa các phản xạ áp thụ thể trong các điều 
kiện thí nghiệm trong nghiên cứu này. 
Ảnh hưởng của dẫn truyền Glu và NMDA 
đến MAP và HR 
Kết quả thí nghiệm cho thấy, Glu và 
NMDA được dẫn truyền vào dịch não tủy đều 
làm MAP và HR tăng mạnh, tuy nhiên sự 
chuyển biến của các chỉ số này có một số khác 
biệt và tùy thuộc vào nồng độ các chất. Khi dẫn 
truyền liều lượng hiệu quả tối thiểu của Glu 
(1,2 µM), MAP và HR tăng cao nhất ở phút thứ 
5, sau đó giảm dần xuống giá trị nền trong vòng 
25-30 phút. Khi nồng độ của Glu là 12 µM, 
MAP đạt giá trị tối đa vào phút thứ 10-15, sau 
đó giảm dần đều và quay trở lại giá trị nền ở 
phút thứ 50 (hình 2A). 
Chỉ số HR tăng mạnh ở giai đoạn đầu và đạt 
giá trị tối đa vào phút thứ 10-15 và duy trì ổn 
định ở mức gần tối đa trong 20 phút, và bắt đầu 
giảm từ phút thứ 30, tuy nhiên, đến cuối thí 
nghiệm vẫn chưa giảm tới mức nền (hình 2B). 
Mức tăng của MAP tỉ lệ thuận với sự gia tăng 
nồng độ chất, ở giai đoạn 10-15 phút, thử 
nghiệm Glu 12 µM MAP và Glu 1,2 µM có thể 
làm tăng MAP tương ứng là 164±9% và 
134±6% so với giá trị nền. Trong khi đó, đối 
với HR thì tác dụng này của Glu không gây ra 
sự sai khác lớn (tương ứng là 117±3% và 
123±3%). 
NMDA (liều lượng từ 0,03 nM đến 0,3 nM) 
cũng làm tăng MAP và HR; trong đó, sự biến 
thiên MAP xảy ra tương tự như dưới tác động 
của Glu. Với NMDA 0,2 nM, MAP tăng và đạt 
mức tối đa 158±8% so với giá trị nền ở những 
phút thứ 10-15 và bắt đầu giảm ở phút 30 và 
tiếp tục giảm trở về giá trị nền ở khoảng phút 
thứ 50 (hình 3). 
Tác động của NMDA lên HR có sự khác 
biệt đáng kể so với MAP. HR tăng chậm theo 2 
pha (hình 3B): sau khi đạt mức tăng ban đầu là 
13% so với giá trị nền (113±2%) tại thời điểm 
phút thứ 2 HR giảm và tiếp tục duy trì ổn định 
ở mức cao hơn mức nền trong vòng 10 phút 
đầu, sau đó ở phút thứ 30 HR lại tăng lần thứ 2 
tới 20% so với mức nền (120±5%). Từ phút thứ 
50 trở đi, HR bắt đầu giảm và giữ ở giá trị cao 
hơn giá trị nền đến cuối thí nghiệm. 
Thay đổi độ nhạy của phản xạ áp lực 
Glu và NMDA làm giảm đáng kể độ nhạy 
của phản xạ áp lực và sự giảm này mang tính 
thuận nghịch. Ngay sau khi dẫn truyền Glu, chỉ 
số a giảm xuống tới giá trị 1,6±0,20. Ở lần thử 
nghiệm thứ 2, giá trị a là 0,9±0,26. Độ nhạy của 
phản xạ quay trở lại mức bình thường (mức 
nền) ở lần thử nghiệm cuối cùng với giá trị 
a=2,2±0,38 (hình 4, hình 5A). 
Đánh giá tác động của NMDA tới độ nhạy 
của phản xạ áp lực được tiến hành theo quy trình 
tương tự như đối với Glu. Ngay sau khi NMDA 
bắt đầu được dẫn truyền vào não thất bên hệ số a 
giảm xuống tới giá trị 0,5±0,24, sau đó tăng nhẹ 
tới 0,9±0,62. Đến cuối thí nghiệm a=2,5±0,51, 
gần bằng với giá trị nền (hình 5B), trong khi 
không có sự thay đổi nào được ghi nhận ở nhóm 
control (nhóm dẫn truyền dung dịch sinh lý). 
f 
Hình 1. Biến đổi MAP và HR trong các thí nghiệm đối chứng, m: phút. 
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 57 
Hình 2. Ảnh hưởng của sự dẫn truyền dung dịch Glu 12 µM đến MAP (A) và HR (B) tính theo giá trị %. 
c 
Hình 3. Ảnh hưởng của sự dẫn truyền dung dịch NMDA 0,2 nM đến MAP (A) và HR (B), giá trị của các chỉ số 
tương ứng ngay trước khi dẫn truyền Glu (phút thứ 40 từ khi bắt đầu thí nghiệm được tính là 100%. 
f 
Tương tự các nghiên cứu khác [12, 16, 17], 
trong nghiên cứu này MAP va HR tăng có thể 
là kết quả kích hoạt các thụ thể Glu ở các cấu 
trúc tham gia điều khiển các chức năng tự động 
của cơ thể. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này 
còn cho thấy sự thay đổi đồng hướng của MAP 
và HR trong điều kiện nồng độ Glu tăng có liên 
quan với sự suy giảm cường độ phản xạ áp lực. 
Rất có thể các cơ chế điều hòa của Glu tham gia 
trong vòng liên hệ ngược âm tính [19-22] hoặc 
Glu tác động điều hòa vào cung phản xạ áp lực 
trong phạm vi nhân của bó đơn độc. Như vậy, 
sự tăng nồng độ Glu trong não là yếu tố làm 
giảm độ nhạy của phản xạ áp lực, đồng thời 
điều hòa hiệu ứng của mối liên hệ ngược âm 
tính trong hệ thống kiểm soát huyết áp động 
mạch. Trong các tác động của Glu có sự tham 
gia của các thụ thể NMDA (hình 5). 
s 
Hình 4. Sự thay đổi độ nhạy của phản xạ áp lực dưới tác động của Glu. 1 - trước khi dẫn truyền dung dịch Glu, 
2 - dưới tác động của dung dịch Glu 12 µM, 3 - 60 phút sau khi bắt đầu dẫn truyền dung dịch Glu. 
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 
58 
Hình 5. Ảnh hưởng của dung dịch Glu 6 µM (A) và NMDA 0,2 nM (B) được dẫn truyền vào dịch não tủy đến độ 
nhạy của phản xạ áp lực (hệ số a. Trên trục Ox: 1 - giá trị nền; 2,3,4 - thời gian tương ứng với các thửt nghiệm tại 
thời điểm 5, 25 và 45 phút từ lúc bắt đầu dẫn truyền. 
h 
4. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
rằng gia tăng nồng độ Glu trong dịch não tủy 
kích thích hệ tuần hoàn và làm tăng MAP, và 
HR. Glu tác động lên độ nhạy của phản xạ áp 
lực khi dẫn truyền theo kiều khiển ngược âm 
tính (negative feedback). Hơn nữa, Glu và 
NMDA cùngtác động đến phản xạ áp lực và 
gây ra những hiệu ứng tương đồng, chứng tỏ 
thụ thể Glu loại NMDA tham gia vào điều tiết 
tác động của Glu trong dịch não tủy trong chế 
điều hòa hoạt động hệ tuần hoàn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bongianni F., Mutolo D., Carfì M., Pantaleo 
T. Respiratory responses to ionotropic 
glutamate receptor antagonists in the ventral 
respiratory group of the rabbit, Pflugers 
Archieve 444 (2002) 602. 
[2] Bonham A.C., McCrimmon D.R. Neurones in 
a discrete region of the nucleus tractus 
solitarius are required for the Breuer-Hering 
reflex in rat, Journal of Physiology 427 
(1990) 261. 
[3] Braga V.A., Antunes V.R., Machado B.H. 
Autonomic and respiratory responses to 
microinjection of L-glutamate into the 
commissural subnucleus of the NTS in the 
working heart-brainstem preparation of the 
rat, Brain Research 1093 (2006) 150. 
[4] Canesin R.O., Bonagamba L.G.H., Machado 
B.H. Bradycardic and hypotensive responses 
to microinjection of L-glutamate into the 
lateral aspect of the commissural NTS are 
blocked by an NMDA receptor antagonist, 
Brain Res. 852 (2000) 68. 
[5] Fagg G.E., Foster A.C. Amino acid 
neurotransmitters and their pathways in the 
mammalian central nervous system, 
Neuroscience 9 (1983) 701. 
[6] Frigero M., Bonagamba L.G.H., Machado 
B.H. The gain of the baroreflex bradycardia is 
reduced by microinjection of NMDA receptor 
antagonists into the nucleus tractus solitarii of 
awake rats, Journal of Autonomic Nervous 
System 79 (2000) 28. 
[7] Gören M.Z., Akici A., Berkman K., Onat F. 
Cardiovascular responses to NMDA injected 
into nuclei of hypothalamus or amygdala in 
conscious rats, Pharmacology 61 (2000) 257. 
[8] Hawkins R.A. The blood-brain barrier and 
glutamate, American Journl of Clinical 
Nutrient 90 (2009) 867. 
[9] Hehre D.A., Devia C.J., Bancalari E., 
Suguihara C. Brainstem amino acid 
neurotransmitters and ventilatory response to 
hypoxia in piglets, Pediatrics Research 63 
(2008) 46. 
[10] Kazemi H., Hoop B. Glutamic acid and 
gamma-aminobutyric acid neurotransmitters 
in central control of breathing, Journal Apply 
Physioly 70 (1991) 1. 
[11] Leone C., Gordon F.J. Is L-glutamate a 
neurotransmitter of baroreceptor information 
in the nucleus of the tractus solitaries, Jounal 
Pharmacoly Experimental Therapeutics 250 
(1989) 35. 
[12] Mizusawa A., Ogawa H., Kikuchi Y., Hida 
W., Kurosawa H., Okabe S., Takishima T., 
Shirato K. In vivo release of glutamate in 
V.T. Thu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 54-59 59 
nucleus tractus solitarii of the rat during 
hypoxia. Journal of Physioly 478 (1994) 55. 
[13] Nelson D.O., Cohen H.L., Feldman J.L., 
McCrimmon D.R. Cardiovascular function is 
altered by picomole injections of glutamate 
into rat medulla. Journal of Neurosciences 
(1988) 1684. 
[14] Resstel L.B.M, Correa F.M.A. Injection of L-
glutamate into medial prefrontal cortex 
induces cardiovascular responses through 
NMDA receptor - nitric oxide in rat, 
Neuropharmacology 51 (2006) 160. 
[15] Takakura C., Moreira T.S., Wet G. H., Gwilt 
J.M., Colombari E., Stornetta R. L. and 
Guyenet P. G. GABAergic Pump cells of 
solitary tract nucleus innervate retrotrapezoid 
nucleus hemoreceptors, Journal ò 
Neurophysioly 98 (2007) 374. 
[16] Talman W.T. Kynurenic acid microinjected into 
the nucleus tractus solitarius of rat blocks the 
arterial baroreflex but not responses to glutamate, 
Neuroscience Letter 102 (1989) 247. 
[17] Tsuchihashi T., Abe I., Fujishima M. Role of 
Metabotropic Glutamate Receptors in 
VentrolateralMedulla of Hypertensive Rats, 
Hypertension 24 (1994) 648. 
[18] Tsuchihashi T., Averill D.B. Metabotropic 
glutamate receptors in the ventrolateral 
medulla of rats, Hypertension 21 (1993) 739. 
[19] Vardhan A., Kachroo A., Sapru H.N. 
Excitatory amino acid receptors in 
commissural nucleus of the NTS mediate 
carotid chemoreceptor responses, Ericaca 
Journal of Physiology 264 (1993) 41. 
[20] Young R.S.K., Petroff O.A.C., Aquila W.J., 
Yates J. Effects of glutamate, quisqualate, and 
N-methyl-d-aspartate in neonatal brain, 
Experimental Neurology 111 (1991) 362. 
[21] Гусев Е.И., Скворцова В.И. Ишемия 
головного мозга, М.: Медицина, 328 
(2001)40. 
[22] Сухова Г.К., Ноздрачёв А.Д. Неонатальная 
Интермиттирующая гипоксия ускоряет 
развитие возрастных нарушений 
барорефлекторной чувствительности и 
вариабельности сердечного ритма, 
Доклады Академии наук 420 (2008) 421. 
Effects of Cerebral Glutamate on Cardiovascular Functionality 
Vu Thi Thu1, Bui Thi Huong2, Le Thanh Long3, Aleksandrov V4 
1Faculty of Biology, The Key Laboratory of Enzyme and Protein Technology (KLEPT), 
VNU University of Scienc, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 
2Vietnam-Russia Tropical Centre, Nguyen Van Huyen, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
3Cardiovascular and Metabolic Disease Center, Inje University, Korea 
4Faculty of Biology Herzen State Pedagogical University of Russia, Petersburg, Russia 
 Abstract: Glutamate is one of the major excitatory neurotransmitters and plays an important role 
in the regulation of visceral functions. In this study, we examined the influence of a glutamate cerebral 
level and mimetic N-methyl-D-aspartate on cardiovascular system state and baroreflex sensitivity in 
acute experimental rat model. Our data showed that cerebroventicular microinjection of glutamate and 
NMDA increased mean arterial blood pressure and heart rate, and decreased baroreflex sensitivity and 
this impact depends on the concentration as well as the time impact. Thus, cerebral level of glutamate 
is potential factor modulating cardiocirculatory mechanoreflex. 
Keywords: Glutamate, NMDA, excitatory neurotransmitters. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1302_1_2542_1_10_20160711_047.pdf 1302_1_2542_1_10_20160711_047.pdf