Các trường Đại học nên tập trung đào tạo
phương pháp và kỹ năng để giúp sinh viên
phát hiện ra các sản phẩm/dịch vụ đáp ứng
nhu cầu thị trường. Hiện nay, sinh viên
thường được đào tạo theo các quy tắc kinh
doanh, các lí thuyết kinh tế, phương pháp tài
chính và xây dựng bản kế hoạch kinh doanh
khá lý thuyết trong khi khởi nghiệp phải điều
hành doanh nghiệp thực.
Sinh viên thường chỉ được dạy làm ra
nhiều tiền thay vì được dạy về gia tăng giá trị
cho thị trường. Mục đích tối thượng của khởi
nghiệp là phá vỡ thị trường bằng việc đem tới
giá trị cho nhiều người và đồng thời tạo ra
việc làm mới, thị trường mới, và ngành công
nghiệp mới.
14 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng nhận thức khởi nghiệp đến hành vi khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam: Vai trò ý định mục tiêu và ý định hành động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36 23
ẢNH HƯỞNG NHẬN THỨC KHỞI NGHIỆP ĐẾN HÀNH VI
KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM: VAI TRÒ Ý ĐỊNH
MỤC TIÊU VÀ Ý ĐỊNH HÀNH ĐỘNG
NGUYỄN QUANG THU
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh – ngthu@ueh.edu.vn
TRẦN THẾ HOÀNG
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh – athena@ueh.edu.vn
HÀ KIÊN TÂN
Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương – hktan@ktkt.edu.vn
(Ngày nhận: 20/01/2018; Ngày nhận lại: 02/02/2018; Ngày duyệt đăng: 12/03/2018)
TÓM TẮT
Nghiên cứu này kiểm định mối quan hệ giữa nhận thức, ý định và hành vi khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam
thông qua việc khảo sát 368 sinh viên đã từng khởi nghiệp tại các trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Mục tiêu của nghiên cứu này mở rộng lý thuyết sự kiện kinh doanh (EEM)
bằng việc đưa vào mô hình yếu tố ý định hành động. Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố này đều có tác động dương
đến hành vi khởi nghiệp. Cuối cùng, nghiên cứu đã đưa ra kết luận và hàm ý chính sách cho các trường Đại học và
hướng nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: Hành vi khởi nghiệp; Nhận thức khả thi; Nhận thức mong muốn; Ý định hành động; Ý định
mục tiêu.
Impact of entrepreneurial perceive on entrepreneurial behaviors of Vietnamese
students: Role of goal intention and implementation intention
ABSTRACT
This study investigated the relationships between perceive, intention and entrepreneurial behaviors of
Vietnamese students. We surveyed 368 start-up students from universities of Ho Chi Minh City, Binh Duong, Dong
Nai, and Ba Ria Vung Tau. The objective of this study extended the EEM theory by adding the implementation
intention to the model. The results showed that this factor had a positive effect on entrepreneurial behavior. Finally,
we drew the conclusions and implications for university policies and the future research.
Keywords: Entrepreneurial behavior; Perceived feasibility; Perceived desirability; Implementation intention;
Goal intention.
1. Giới thiệu
Khởi nghiệp là một lĩnh vực luôn được
các nhà nghiên cứu quan tâm hàng đầu vì sự
phát triển nền kinh tế quốc gia. Việc gia tăng
được số lượng các doanh nghiệp trong nền
kinh tế luôn là mối bận tâm chính của chính
phủ, các nhà hoạch định chính sách và các học
giả với hai lý do. Một là, tăng tốc độ tăng
trưởng kinh tế; Hai là, giảm thất nghiệp
(Santarelli & cộng sự, 2009), đặc biệt với sinh
viên mới ra trường (Fayolle & cộng sự, 2006)
tại các nước đang phát triển. Lứa tuổi thanh
niên từ 18 đến 36 thường mạo hiểm, ít sợ rủi
ro, mong muốn làm giàu, nhạy bén với các cơ
hội kinh doanh, có ý định khởi nghiệp và thực
hiện khởi nghiệp ở mức cao (GEM, 2016)1.
24 Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36
Tuy nhiên, nhận thức khởi nghiệp của
Sinh viên Việt Nam có một số khác biệt nhất
định. Tại nhiều quốc gia phát triển, khởi
nghiệp dựa trên nền tảng của sự sáng tạo.
Trong khi đó, nhận thức tại Việt Nam lại có
phần nghiêng về tạo việc làm, tăng thu nhập
và xem như là một lựa chọn nghề nghiệp
(GEM, 2016). Mặc dù nhận thức về khởi
nghiệp ở độ tuổi 18-36 là khá cao, nhưng ý
định khởi nghiệp lại không tương xứng
(GEM, 2016). Vậy, nhận thức khởi nghiệp
của sinh viên có ảnh hưởng như thế nào đến ý
định và cuối cùng đến hành vi khởi nghiệp
thực sự của họ?
Nghiên cứu này nhằm kiểm định vai trò
của nhận thức khởi nghiệp đến ý định và hành
vi khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam thông
qua việc khảo sát sinh viên năm cuối các
trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu,
với 3 đóng góp mới:
1) Kiểm định vai trò của yếu tố nhận thức
(nhận thức khả thi và nhận thức mong muốn)
đến ý định (mục tiêu, hành động) và hành vi
khởi nghiệp.
2) Kiểm định tác động của yếu tố ý định
mục tiêu đến ý định hành động.
3) Đánh giá mức độ tác động của ý định
khởi nghiệp (mục tiêu và hành động) đến
hành vi khởi nghiệp.
Các phần tiếp theo của nghiên cứu này
gồm: (1) Cơ sở lý thuyết và lược khảo các
công trình nghiên cứu liên quan; (2) Phương
pháp nghiên cứu; (3) Kết quả và thảo luận; (4)
Kết luận và hàm ý chính sách.
2. Lược khảo lý thuyết về khởi nghiệp
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Mô hình sự kiện khởi nghiệp
(Krueger & cộng sự, 2000)
Theo mô hình này thì ý định khởi nghiệp
có liên quan đến nhiều yếu tố, chẳng hạn như
sự mong muốn có nhận thức (nhận thức cơ
hội khởi nghiệp hay sự hấp dẫn của cơ hội),
khuynh hướng hành động và nhận thức tính
khả thi (nhận thức về năng lực của nhà khởi
nghiệp). Để dự định có thể được thực hiện nó
cần phải có một số tác nhân đẩy (tiêu cực),
làm thay đổi cuộc sống con người như: bất
mãn công việc hiện tại, li dị, mất việc, Hay,
một số tác nhân kéo theo (tích cực) như tìm
được đối tác tốt hoặc có hỗ trợ tài chính.
2.1.2. Lý thuyết về các pha hành động
(Gollwitzer, 1993, 1997)
Lý thuyết các pha hành động (Theory of
action phases - TAP) được Gollwitzer (1993)
phát triển trong những năm 90. Có hai loại ý
định: ý định mục tiêu (goal intention) và ý
định hành động (implementation intention). Ý
định mục tiêu đề cập đến "Tôi định thực hiện
X", trong khi ý định hành động tương ứng với
"Tôi có ý định hành động nhắm mục tiêu X
khi tôi gặp tình huống Y". Vì vậy, những
người thiết lập ý định hành động xác định khi
nào, ở đâu và làm thế nào họ có kế hoạch ban
hành ý định của họ (Brandstätter & cộng sự,
2001) từ đó dẫn đến hành động. Như vậy, ý
định mục tiêu sẽ ở dạng tổng quát (là một
dạng tín hiệu), còn ý định hành động là ý định
chi tiết để cụ thể hóa ý định mục tiêu.
2.1.3. Lý thuyết thiết lập mục tiêu (Locke
& Latham, 1991)
Lý thuyết thiết lập mục tiêu (Theory of
goal setting motivation) cho rằng có hai yếu tố
quyết định nhận thức về hành vi: Giá trị và ý
định. Trong khi mục tiêu được định nghĩa là
những gì cá nhân ý thức được và cố gắng thực
hiện. Còn giá trị là những kết quả mà cá nhân
đó mong muốn đạt được. Các mục tiêu cần
phải rõ ràng cụ thể (không chấp nhận mơ hồ)
nhưng cũng phải đầy thách thức sẽ giúp nâng
cao động cơ của cá nhân thực hiện để đạt
được nó. Mục tiêu càng chi tiết thì càng làm
động cơ thực hiện hành vi càng cao.
2.2. Lược khảo các công trình nghiên
cứu thực nghiệm có liên quan
Các nghiên cứu thực nghiệm trong và
ngoài nước có liên quan đến nghiên cứu này
được trình bày tóm tắt ở Bảng 1.
Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36 25
Bảng 1
Lược khảo tóm tắt một số công trình nghiên cứu liên quan
Nghiên cứu Lý thuyết nền Nhận xét
Marco van & cộng sự (2008);
do Paço & cộng sự (2011); Bùi
Thị Thanh & Nguyễn Xuân
Hiệp (2016)
Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991); Lý
thuyết sự kiện khởi nghiệp
(Krueger & cộng sự, 2000)
Sử dụng các yếu tố có sẵn trong
lý thuyết để kiểm định cho sinh
viên Đại học hoặc trung học đến
từ các nước phát triển (Đức,
Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha) hoặc các nước có nền kinh
tế đang phát triển (Romania,
Ukraine, Malaysia, Trung Quốc,
Tunisia, Ethiopia, Afghanistan,
Peru, Việt Nam).
Hmieleski & Corbett (2006);
Hayton & Cholakova (2012);
Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991);
Bổ sung yếu tố sự thích ứng
(proclivity for improvisation)
vào mô hình gốc.
De Clercq & cộng sự (2013) Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991); Lý
thuyết sự kiện khởi nghiệp
(Krueger & cộng sự, 2000)
Nghiên cứu mối quan hệ giữa
khả năng nhận thức và sự hấp
dẫn đối với ý định được điều tiết
bởi định hướng học tập và niềm
đam mê làm việc.
Fitzsimmons & Douglas
(2011);
Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991); Lý
thuyết sự kiện khởi nghiệp
(Krueger & cộng sự, 2000)
Nghiên cứu sự tương tác giữa
nhận thức cơ hội khởi nghiệp và
tính khả thi.
Nabi & Liñán (2013) Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991)
Nghiên cứu ảnh hưởng của cá
tính, trạng thái tâm lý và nhân
khẩu học đến ý định khởi nghiệp.
Bhandari (2012) ;
(Hadjimanolis & Poutziouris,
2011)
Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991)
Nghiên cứu mối quan hệ giữa
nền tảng gia đình và ý định khởi
nghiệp.
Guerrero & cộng sự (2008);
Bùi Thị Thanh & Nguyễn
Xuân Hiệp (2016)
Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991)
Nghiên cứu mối quan hệ giữa
nền tảng giáo dục và ý định khởi
nghiệp.
Gird & Bagraim (2008) Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991)
Nghiên cứu mối quan hệ giữa
yếu tố kinh nghiệm và ý định
khởi nghiệp.
Walker & cộng sự (2013) Lý thuyết dự định hành vi
(TPB) Ajzen (1991); Lý
thuyết sự kiện khởi nghiệp
(Krueger & cộng sự, 2000)
Các yếu tố môi trường, văn hóa,
thể chế và các tổ chức hỗ trợ
khởi nghiệp ảnh hưởng đến ý
định khởi nghiệp.
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
26 Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36
Như vậy, các nghiên cứu trên chỉ dừng ở ý
định khởi nghiệp. Hướng nghiên cứu từ ý định
đến hành vi khởi nghiệp cũng đã được đề cập
nhưng chưa có nghiên cứu thực nghiệm nào.
Hơn nữa, nhận thức khởi nghiệp của Sinh viên
Việt Nam (là quốc gia có nền kinh tế chuyển
đổi) có một số khác biệt nhất định so với các
nước đang phát triển. Vì vậy, kiểm định mối
quan hệ giữa nhận thức đến ý định và hành vi
khởi nghiệp được đặt ra để nghiên cứu.
2.3. Các khái niệm trong mô hình
nghiên cứu và các giả thuyết
Hành vi khởi nghiệp
Theo Schumpeter (1934), khởi nghiệp là
tạo ra các kết hợp mới. Với Cole (1968), là
hoạt động có mục đích để khởi đầu, duy trì và
phát triển một hoạt động kinh doanh nhằm thu
được lợi ích về tài chính hay các lợi ích khác
trong một thế giới kinh tế hay kinh doanh mà
thế giới đó sẽ tạo ra một sự tự do cho chính
người thực hiện hoạt động này. Theo Shapero
& Sokol (1982) thì tinh thần khởi nghiệp là
quá trình mà cá nhân sẵn sàng tiên phong
trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh hấp
dẫn và khả thi mà họ nhận biết được. Trong
khi đó ý định khởi nghiệp là bước đầu tiên
trong quá trình khám phá, sáng tạo, khai thác
cơ hội để khởi nghiệp và thành lập doanh
nghiệp mới (Gartner & cộng sự, 1994).
Ý định khởi nghiệp
Các định nghĩa về ý định khởi nghiệp
được tổng hợp và trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2
Định nghĩa về ý định khởi nghiệp
Tác giả Định nghĩa
Bird (1988) Ý định khởi nghiệp là một trạng thái của tâm trí nhấn
mạnh đến sự quan tâm cá nhân và kinh nghiệm để thực
hiện việc tạo ra doanh nghiệp mới.
Tubbs & Ekeberg (1991) Ý định khởi nghiệp là một đại diện các hành động có kế
hoạch để thực hiện một hành vi kinh doanh.
Shane & Venkataraman (2000) Ý định khởi nghiệp là quá trình nhận dạng, đánh giá và
khai thác cơ hội kinh doanh.
Reynolds (2005) Ý định khởi nghiệp là các gắn kết cá nhân của các doanh
nhân tiềm năng để bắt đầu khởi nghiệp.
Souitaris & cộng sự (2007) Ý định khởi nghiệp là sự liên quan về ý định của một cá
nhân để bắt đầu một doanh nghiệp.
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ sử
dụng định nghĩa của Shane & Venkataraman
(2000).
Ý định mục tiêu
Theo Gollwitzer (1993), ý định mục tiêu
chính là ý định trong lý thuyết dự định hành vi
(TPB) của Azjen hay EEM, với Fayolle &
Liñán (2014) ý định mục tiêu là một dạng cam
kết và là một bước đi cần thiết trước khi thực
hiện ý định và hành vi. Trong lý thuyết thiết
lập mục tiêu thì đó là mục tiêu đầy thách thức
vì đầy thách thức mới khiến cá nhân quyết
tâm đạt được.
Ý định hành động
Theo Sheeran & Silverman (2003) phân
biệt giữa “giai đoạn tạo động lực mà người đó
quyết định hành động và một giai đoạn hoạch
định (volitional) mà người đó hoạch định làm
thế nào để quyết định trở thành hiện thực”.
Giai đoạn động lực là giai đoạn liên quan đến
Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36 27
quá trình nhận dạng cơ hội khởi nghiệp và khả
năng khởi nghiệp trong các mô hình ý định.
Giai đoạn hoạch định đề cập đến ý định hành
động và không được giải quyết trong các mô
hình ý định. Tuy nhiên nó vẫn là một phần
của quá trình thực hiện hành vi.
Nhận thức khởi nghiệp
Một cơ hội kinh doanh thường được định
nghĩa như là một "tình huống tương lai được
coi là hấp dẫn và khả thi" (Stevenson &
Jarillo, 2007). Tính mong muốn đề cập đến
giá trị nhận thức hoặc sự hấp dẫn của cơ hội
(ví dụ: cơ hội có tiềm năng lợi nhuận cao
được đánh giá là rất mong muốn). Tính khả
thi đề cập đến khả năng thực thi hay khó khăn
của cơ hội (ví dụ: cơ hội nằm trong một thị
trường cạnh tranh cao là khả thi hơn là một cơ
hội nằm trong một thị trường chỉ với một vài
đối thủ cạnh tranh yếu).
Mối quan hệ giữa ý định mục tiêu và
hành vi khởi nghiệp
Lý thuyết về sự kiện khởi nghiệp (EEM)
của (Shapero & Sokol, 1982), lý thuyết hành
vi có kế hoạch (TPB) của (Ajzen, 1991) cho
rằng ý định là chỉ báo quan trọng dự báo hành
vi của con người. Theo Randall & Wolff
(1994), mối quan hệ giữa ý định và hành vi
không thay đổi theo thời gian. Trong nghiên
cứu tổng kết về định lượng 98 nghiên cứu
trước đó của (Schlaegel & Koenig, 2014)
khẳng định vẫn có tương quan cao cùng chiều
giữa ý định và hành vi trong bối cảnh khởi
nghiệp. Từ những phân tích nêu trên, giả
thuyết H1a được đưa ra như sau:
H1a: ý định mục tiêu tác động cùng chiều
đến hành vi khởi nghiệp.
Mối quan hệ giữa ý định hành động và
hành vi khởi nghiệp
Ý định hành động hiệu quả trong việc dẫn
dắt hành động, đặc biệt khi các mục tiêu có
thể đạt được thông qua các hành động, hoặc
đối với mô hình hành vi tương đối phức tạp
như khởi nghiệp. Sheeran & Silverman (2003)
xác nhận ý định hành động làm tăng khả năng
hành động và hiệu quả của nó cũng không
giảm theo thời gian. Các ý định hành động
cũng có thể giúp giải quyết một cách hiệu quả
sự lo lắng và những cảm xúc tiêu cực
(Sheeran & cộng sự, 2007). Như vậy, căn cứ
vào những phân tích trên, giả thuyết H1b
được phát biểu như sau:
H1b: Ý định hành động sẽ có tác động
cùng chiều đến hành vi khởi nghiệp.
Mối quan hệ giữa ý định mục tiêu và ý
định hành động
Ý định mục tiêu được theo đuổi sẽ thành
công hơn khi kết hợp với các ý định hành
động (Gollwitzer & Brandstätter, 1997). Vì nó
tạo ra một liên kết chặt chẽ giữa các tín hiệu
và các hành vi trong trí nhớ và mục đích thực
hiện sẽ làm tăng khả năng tiếp cận trong tư
duy vì thế gây ra hành động (Gollwitzer,
1993). Cho nên, các ý định hành động tạo
thuận lợi cho việc bắt đầu các hành vi dự định
(Gollwitzer & Sheeran, 2006). Trên cơ sở lý
thuyết của Gollwitzer (1993), giả thuyết H2
được phát biểu như sau:
H2: Ý định mục tiêu sẽ có tác động cùng
chiều đến ý định hành động khởi nghiệp.
Mối quan hệ giữa nhận thức khởi
nghiệp và ý định mục tiêu
Các nghiên cứu gần đây cho rằng mong
muốn và khả thi là đặc điểm của các cơ hội
kinh doanh cụ thể (Haynie & cộng sự, 2009).
Kết quả này cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của
tính mong đợi và khả thi của việc đánh giá cơ
hội (Haynie & cộng sự, 2009; Robert Mitchell
& cộng sự, 2011). Hơn nữa tính mong muốn
và tính khả thi cao đều có ảnh hưởng tích cực
đến việc đánh giá cơ hội. Lý thuyết tiềm năng
khởi nghiệp của (Krueger & Brazeal, 1994)
cho rằng một cá nhân ham muốn khởi nghiệp,
cảm nhận về tính khả thi khởi nghiệp thì sẽ có
tiềm năng khởi nghiệp, nếu có tác động của
các nhân tố kéo hoặc đẩy thì tiềm năng khởi
nghiệp sẽ thúc đẩy cá nhân hình thành ý định
khởi nghiệp. Từ những phân tích nêu trên giả
thuyết H3a và H4a được phát biểu như sau:
H3a: Nhận thức khả thi sẽ tác động cùng
chiều đến ý định mục tiêu khởi nghiệp.
28 Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36
H4a: Nhận thức mong muốn sẽ tác động
cùng chiều đến ý định mục tiêu khởi nghiệp.
Mối quan hệ giữa nhận thức khởi
nghiệp và ý định hành động
Gollwitzer (1993) cho rằng giai đoạn
nhận thức chính là giai đoạn tạo động lực để
khởi nghiệp. Một cá nhân khi có động lực sẽ
hình thành ý định mục tiêu hoặc là ý định
hành động. Sức mạnh của ý định hành động
trong việc nối kết giữa nhận thức, ý định mục
tiêu và hành vi lần đầu tiên được Gollwitzer
kiểm tra và nhiều nghiên cứu thực nghiệm
khác. Nghiên cứu của (M Brännback & Cộng
sự, 2006), ý định khởi nghiệp chủ yếu phụ
thuộc vào nhận thức cơ hội và nhận thức khả
năng khởi nghiệp. Trong nghiên cứu của
(Schlaegel & Koenig, 2014), kết hợp giữa hai
mô hình TPB (Ajzen, 1991) và EEM (Krueger
& cộng sự, 2000). Vì thế, giả thuyết H3b, H4b
được phát biểu như sau:
H3b: Nhận thức khả thi sẽ tác động cùng
chiều đến ý định hành động khởi nghiệp.
H4b: Nhận thức mong muốn sẽ tác động
cùng chiều đến ý định hành động khởi nghiệp.
Tổng hợp các giả thuyết trên, mô hình
nghiên cứu đề xuất được trình bày như Hình 1:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng nguồn dữ liệu điều
tra bằng phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng
câu hỏi chi tiết với thang đo Likert 7 bậc (từ
1: Hoàn toàn không đồng ý đến 7: hoàn toàn
đồng ý).
Mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng kỹ thuật phỏng
vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi chi tiết với
sinh viên năm cuối tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu. Thời gian phỏng vấn từ tháng 4-7/2017.
Mẫu được chọn theo phương pháp thuận
tiện với số lượng theo nguyên tắc 5:1 (Nguyễn
Đình Thọ, 2011). Mô hình có (22 biến quan
sát + 02 biến kiểm soát)*5 = 120. Phát ra 1817
phiếu thu về 1432 phiếu. Trong đó có 406
phiếu trả lời đã và đang khởi nghiệp, trong số
này có 38 phiếu có số lượng các câu trả lời
trống trên 10% tổng số câu hoặc các câu chọn
điểm như nhau vì vậy bị loại. Số còn lại là 368
được đưa vào nghiên cứu chính thức. Theo đó,
Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương
(17SV-4,62%); Đại học Bình Dương (9SV-
2,45%); Đại học Thủ Dầu Một (20SV-5,43%);
Đại học Lạc Hồng (35SV-9,51%), Đại học Bà
Rịa Vũng Tàu (13SV-3,53%); Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh (157SV-42,66%);
Đại học Hoa Sen (33SV-8,97%); Đại học Tài
chính - Marketing (30SV-8,15%); Đại học Mở
Thành phố Hồ Chí Minh (54SV-14,67%). Về
ngành nghề chỉ khảo sát sinh viên năm cuối
quản trị kinh doanh. Về giới tính, nam chiếm
73,8% với 271SV, trong khi đó nữ chiếm
26,2% với 97SV.
H3a+
H1a+
H1b+
H2+
H3b+
H4a+
H4b+
Nhận thức
khả thi
Nhận thức
mong muốn
Ý định
mục tiêu
Ý định
hành động
Hành vi
khởi nghiệp
Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36 29
Thang đo
Thang đo dựa trên các thang đo lập lại và
được điều chỉnh sau nghiên cứu định tính. Tất
cả các thang đo trong mô hình nghiên cứu đều
là thang đo đa biến. Các thang đo này sử dụng
likert 7 bậc. Mô hình có 5 khái niệm nghiên
cứu với 22 biến quan sát được trình bày trong
Bảng 3.
Bảng 3
Thang đo các khái niệm trong mô hình và nguồn gốc các thang đo
Khái niệm nghiên cứu
Số biến
quan sát
Nguồn gốc
Ý định mục tiêu khởi nghiệp (INT)
1) Tôi đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một
doanh nhân; 2) Mục tiêu nghề nghiệp của tôi đang trở
thành một doanh nhân; 3) Tôi sẽ cố gắng hết sức để bắt
đầu và điều hành công ty của riêng tôi; 4) Tôi quyết tâm
tạo công ty trong tương lai
04 Krueger & Carsrud
(2000); Wang, Lu, &
Millington (2011)
Hành vi khởi nghiệp (BEH)
1) Xây dựng kế hoạch kinh doanh; 2) Phát triển sản
phẩm hoặc dịch vụ; 3) Các nỗ lực tiếp thị theo kế
hoạch; 4) Nói chuyện với khách hàng tiềm năng; 5) Thu
thập thông tin về đối thủ cạnh tranh
05 Kautonen (2015)
Ý định hành động khởi nghiệp (INT_I)
1) Bạn có nghĩ về một ý tưởng có thể làm cơ sở để bắt
đầu công ty của riêng bạn; 2) Bạn đang phát triển một
sản phẩm/dịch vụ; 3) Hiện bạn đang tiết kiệm tiền cho ý
định bắt đầu kinh doanh của mình
03 Gollwitzer & Brandstätter
(1997).
Nhận thức mong muốn (DES)
1) Là một doanh nhân có nhiều lợi thế hơn bất lợi đối
với tôi; 2) Một sự nghiệp như một doanh nhân là điều
thú vị đối với tôi; 3) nếu tôi có cơ hội, vốn và khả năng,
tôi sẽ bắt đầu một công ty mới; 4) Là một doanh nhân
sẽ cho tôi một sự hài lòng lớn; 5) Trong số các lựa chọn
khác nhau, tôi muốn trở thành một doanh nhân
05 Krueger & Carsrud (2000)
Nhận thức khả thi (FEA)
1)Tin tưởng vào khả năng tồn tại và tăng trưởng của dự
án kinh doanh nếu tôi có ý định thành lập công ty;
2) Tôi cho rằng việc thành lập công ty với tôi là khả thi;
3)Tôi đủ phẩm chất để thành lập công ty; 4) Kiến thức
và kinh nghiệm là động lực cho tôi thành lập công ty
mới; 5) Mạng lưới các mối quan hệ thuận lợi cho việc
thành lập công ty của tôi
05 Krueger & Carsrud (2000)
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
30 Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được thực hiện
thông qua 02 giai đoạn: (1) Nghiên cứu sơ bộ;
và (2) Nghiên cứu chính thức.
Nghiên cứu sơ bộ định tính: dùng để điều
chỉnh các biến quan sát đo lường các khái
niệm nghiên cứu thông qua kỹ thuật thảo luận
nhóm để các thang đo có thể được hiểu rõ
ràng và đồng nhất về yếu tố nhận thức, ý định
mục tiêu, ý định hành động, và hành vi khởi
nghiệp.
Nghiên cứu sơ bộ định lượng: Thang đo
nháp được dùng để phỏng vấn thử với mẫu
110 sinh viên đã và đang khởi nghiệp theo
phương pháp lấy mẫu thuận tiện để kiểm định
độ tin cậy của thang đo. Sau bước này, thang
đo được hoàn chỉnh và sử dụng cho bước
nghiên cứu định lượng chính thức. Nghiên
cứu sơ bộ định lượng được thực hiện để đánh
giá thang đo bằng hệ số tin cậy (Cronbach’s
Alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA).
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Kết quả nghiên cứu
Kết quả phân tích CFA với mô hình tới
hạn cho thấy chi-bình phương là 240,109 với
109 bậc tự do, giá trị p=0,000. Nếu điều chỉnh
theo bậc tự do có CMIN/df = 2,202<3, đạt yêu
cầu độ tương thích. Các chỉ tiêu khác nhau
như GFI = 0,928, TLI = 0,935, CFI = 0.948,
RMSEA = 0.057 < 0,80, đều đạt yêu cầu. Vì
vậy, mô hình tới hạn đạt được độ tương thích
với dữ liệu thị trường.
Bảng 4
Bảng tóm tắt kết quả kiểm định thang đo
Khái niệm Số biến
quan sát
Độ tin cậy Phương sai
trích (Average
Variance
Extracted)
Cronbach’s
Alpha
Tổng hợp (Composite
Reliability)
Ý định mục tiêu 03 0,860 0,862 0,676
Ý định hành động 03 0,804 0.808 0,584
Hành vi khởi nghiệp 03 0,788 0,761 0,485
Nhận thức mong muốn 04 0,756 0,806 0.517
Nhận thức khả thi 03 0,806 0,806 0,511
Nguồn: Xử lý số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu
Kết quả SEM (Hình 2) cho thấy chi-bình
phương là 322,014 với 112 bậc tự do, giá trị
p=0,000. Nếu điều chỉnh theo bậc tự do có
CMIN/df = 2,875 <3.0, đạt yêu cầu độ tương
thích; GFI = 0,907, TLI = 0,898, CFI = 0.916,
RMSEA = 0.071 < 0,80, đều đạt yêu cầu.
Hiện tượng Heywood không xuất hiện trong
quá trình ước lượng các mô hình CFA, SEM
và đa số các sai số chuẩn (standardized
residuals) đều nhỏ hơn |2,28|. Vì vậy, có thể
kết luận, mô hình này thích hợp với dữ liệu
thị trường.
Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36 31
Hình 2. Kết quả SEM cho mô hình lý thuyết (đã chuẩn hóa)
Kết quả ước lượng các tham số chính
được trình bày ở Bảng 5 tất cả các mối quan hệ
đều có ý nghĩa thống kê (p-value<5%). Như
vậy tất cả các giả thuyết đều được chấp nhận.
Bảng 5
Kết quả kiểm định mối quan hệ giữa các khái niệm nghiên cứu (chuẩn hóa)
Mối quan hệ Ước lượng S.E. C.R. P
Hành vi khởi nghiệp <--- Ý định mục tiêu 0,351 0,066 5.306 ***
Hành vi khởi nghiệp <--- Ý định hành động 0,256 0,071 3.595 ***
Ý định hành động <--- Ý định mục tiêu 0,270 0,063 4.309 ***
Ý định mục tiêu <--- Nhận thức khả thi 0,570 0,082 6.963 ***
Ý định mục tiêu <--- Nhận thức mong muốn 0,247 0,087 2.829 0,005
Ý định hành động <--- Nhận thức khả thi 0,457 0,082 5.546 ***
Ý định hành động <--- Nhận thức mong muốn 0,182 0,079 2.303 0,021
Ghi chú: *** mức ý nghĩa 1%
Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu
Kết quả các tác động trực tiếp, gián tiếp và tổng hợp vào các biến phụ thuộc (hành vi
khởi nghiệp, ý định hành động, ý định mục tiêu) được trình bày ở Bảng 6.
32 Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36
Bảng 6
Tác động nhận thức khởi nghiệp đến hành vi khởi nghiệp thông qua ý định khởi nghiệp
Biến phụ thuộc Loại tác động
Ý định
mục tiêu
Ý định
hành động
Nhận thức
khả thi
Nhận thức
mong
muốn
Hành vi khởi nghiệp Trực tiếp 0,394 0,264 0 0
Gián tiếp 0,078 0 0,328 0,115
Tổng hợp 0,472 0,264 0,328 0,115
Ý định mục tiêu Trực tiếp 0 0 0,467 0,168
Gián tiếp 0 0 0 0
Tổng hợp 0 0 0,467 0,168
Ý định hành động Trực tiếp 0,294 0 0,407 0,135
Gián tiếp 0 0 0,137 0,049
Tổng hợp 0,294 0 0,544 0,184
Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu
4.2. Đánh giá kết quả
Kết quả nghiên cứu có một số ý nghĩa
như sau:
Một là, Kiểm chứng được vai trò quan
trọng của nhận thức khả thi đến ý định khởi
nghiệp (ý định mục tiêu và ý định hành động)
của sinh viên Việt Nam.
Hai là, Khẳng định lại vai trò quan trọng
của ý định mục tiêu và ý định hành động
trong mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi
khởi nghiệp, trong đó yếu tố trung gian ý định
hành động được đưa vào mô hình có ý nghĩa
thống kê (mối quan hệ mới chưa được kiểm
định tại Việt Nam), góp phần phát triển lý
thuyết sự kiện khởi nghiệp (EEM) của
Krueger & cộng sự (2000).
Ba là, Yếu tố ý định hành động được
xem là yếu tố có hiệu quả đối với việc thúc
đẩy hành vi khởi nghiệp. Nó nhấn mạnh từ
dạng tâm trí (ý định mục tiêu) chuyển sang ý
định hành động nhằm cụ thể hóa các mục
tiêu đã định hướng trước đó. Từ đó giúp nhà
khởi nghiệp tiềm năng kiên trì với ý định
khởi nghiệp.
5. Kết luận và hàm ý chính sách cho
các trường Đại học
5.1. Kết luận
Kết quả nghiên cứu này khác với kết quả
nghiên cứu của (Schlaegel & Koenig, 2014
được kiểm định tại các nước phương Tây) cho
rằng yếu tố nhận thức mong muốn (khả năng
nhận thức cơ hội của nhà khởi nghiệp) có vai
trò rất quan trọng trong việc hình thành ý định
hơn là so với yếu tố nhận thức khả thi (nhận
thức năng lực của nhà khởi nghiệp). Schlaegel
& Koenig (2014) nhận định rằng có thể tại các
nước phương Đông nhận thức khả thi sẽ quan
trọng hơn so với nhận thức mong muốn và đề
nghị kiểm định lại mối quan hệ này. Trong
khi đó, kết quả của nghiên cứu này (tại Việt
Nam) lại cho thấy nhận thức khả thi có tác
động rất mạnh đến ý định (cả mục tiêu và
hành động) và hành vi khởi nghiệp.
Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Nghiên cứu này chỉ thực hiện đối với sinh
viên năm cuối ngành quản trị kinh doanh tại
09 trường Đại học các tỉnh/thành: Thành phố
Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa
Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36 33
Vũng Tàu, do đó khả năng tổng quát hóa chưa
cao. Kết quả sẽ tốt hơn nếu được thực hiện tại
các trường Đại học như Cần Thơ, Đà Nẵng,
Hà Nội.
Nghiên cứu này chọn mẫu thuận tiện do
đó cũng có nhược điểm là tính đại diện không
cao. Hơn nữa, nghiên cứu từ ý định đến hành
vi nếu chỉ khảo sát một lần cũng có hạn chế
nhất định, nó cần phải có các dữ liệu một thời
điểm và đa thời điểm để phân tích thì sẽ cho
kết quả tốt.
Còn nhiều các yếu tố khác tác động đến
ý định và đến hành vi khởi nghiệp như các
yếu tố văn hóa hoặc động cơ khởi nghiệp,
đây cũng là một hướng phát triển tiếp theo
của nghiên cứu.
5.2. Hàm ý chính sách và giải pháp
Kết quả nghiên cứu đã khẳng định yếu tố
nhận thức khả thi (năng lực của nhà khởi
nghiệp) và ý định hành động có tác động rất
lớn đến hành vi khởi nghiệp. Yếu tố này gợi
mở cho sinh viên cần trải nghiệm và kiên trì
đầu tư cho các ý tưởng khởi nghiệp của mình
thông qua các hoạt động đào tạo tại Đại học
nhằm tăng cường năng lực khởi nghiệp cho
sinh viên. Sau đây là một số hàm ý chính sách
và giải pháp:
Đối với sinh viên
Trước khi khởi nghiệp sinh viên cần phải
hình thành động lực thông qua nhận thức tính
hấp dẫn của các cơ hội khởi nghiệp, đánh giá
năng lực khởi nghiệp từ đó hình thành các ý
tưởng, ý định khởi nghiệp cộng với đam mê
để thực hiện những ý định khởi nghiệp đó.
Những nhà khởi nghiệp thành công ngoài
việc có động lực, khát vọng, ý chí thì cần
phải kiên trì phát triển các ý tưởng kinh
doanh dù phải đối mặt với nhiều trở ngại khó
khăn và thất bại. Nghiên cứu này cho thấy,
khả năng khởi nghiệp là yếu tố rất quan trọng,
trong khi rất nhiều người cố gắng khởi nghiệp
còn thiếu những kiến thức, kỹ năng và những
năng lực cơ bản. Đây là một trong những lý
do mà nhiều nhà khởi nghiệp gặp khó khăn
ngay từ đầu hoặc đóng cửa chỉ sau vài tháng
khởi nghiệp.
Để có thể khởi nghiệp, sinh viên cần
được trang bị rất nhiều nền tảng kiến thức
khởi nghiệp có liên quan như kiến thức về thị
trường sản phẩm/dịch vụ, bán hàng và
marketing, đối thủ cạnh tranh, công nghệ,
nguồn nhân lực, luật pháp đặc biệt là tài
chính. Nếu sinh viên có ý tưởng, kiên trì, tìm
được thị trường cho sản phẩm/dịch vụ của
mình nhưng thiếu vốn thì tất cả vẫn chỉ là ý
tưởng trên giấy. Vì vậy, nếu không có hoặc ít
vốn để khởi nghiệp thì sinh viên có thể huy
động vốn bên ngoài nếu muốn khởi nghiệp.
Đối với các trường Đại học
Các trường Đại học nên tập trung đào tạo
phương pháp và kỹ năng để giúp sinh viên
phát hiện ra các sản phẩm/dịch vụ đáp ứng
nhu cầu thị trường. Hiện nay, sinh viên
thường được đào tạo theo các quy tắc kinh
doanh, các lí thuyết kinh tế, phương pháp tài
chính và xây dựng bản kế hoạch kinh doanh
khá lý thuyết trong khi khởi nghiệp phải điều
hành doanh nghiệp thực.
Sinh viên thường chỉ được dạy làm ra
nhiều tiền thay vì được dạy về gia tăng giá trị
cho thị trường. Mục đích tối thượng của khởi
nghiệp là phá vỡ thị trường bằng việc đem tới
giá trị cho nhiều người và đồng thời tạo ra
việc làm mới, thị trường mới, và ngành công
nghiệp mới.
Các trường Đại học tại Việt Nam chưa có
hoạt động tạo môi trường để sinh viên có thể
trao đổi các ý tưởng và học hỏi từ người khác,
rất khó tìm ra người hỗ trợ giỏi, phần lớn sinh
viên đều tự làm việc độc lập. Vì vậy, các
trường Đại học nên tạo ra môi trường cho sinh
viên thảo luận về các ý tưởng của họ với các
doanh nhân thành công, từ đó hiện thực hóa ý
tưởng và tiến tới khởi nghiệp. Khởi nghiệp là
phải hành động không phải trên giấy. Bên
cạnh dạy về tài chính, kinh tế và quản trị thì
phải dạy cho sinh viên về tâm lí để có thể đối
phó với những thất bại và chấp nhận rủi ro
34 Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36
Chú thích:
1 GEM: Global Entrepreneurship Monitor – chỉ số khởi nghiệp toàn cầu
Tài liệu tham khảo
Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2),
179-211. doi:
Albert, B. (1986). Social foundations of thought and action: A social cognitive theory. NY.: Prentice-Hall.
Bird, B. (1988). Implementing Entrepreneurial Ideas: The Case for Intention. Academy of Management Review,
13(3), 442-453. doi:10.5465/amr.1988.4306970
Brandstätter, V., Lengfelder, A., & Gollwitzer, P. M. (2001). Implementation intentions and efficient action
initiation. Journal of Personality and Social Psychology, 81(5), 946-960. doi:10.1037/0022-3514.81.5.946
Bùi Thị Thanh & Nguyễn Xuân Hiệp (2016). Ý định khởi nghiệp của sinh viên: Nghiên cứu điều tra tại TP.HCM.
Hội thảo khoa học: Khởi nghiệp tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập, Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh.
Carree, M., Piergiovanni, R., Santarelli, E., & Verheul, I. (2009). Policies fostering new firm formation and self-
employment in Italy. In Public Policies for Fostering Entrepreneurship, 15-34. Springer US.
doi:10.1007/978-1-4419-0249-8_2
Cole, A. H. (1968). The Entreprenuer Introductory Remarks. The American Economic Review, 58(2), 60-63.
De Clercq, D., Dimov, D., & Thongpapanl, N. (2013). Organizational Social Capital, Formalization, and Internal
Knowledge Sharing in Entrepreneurial Orientation Formation. Entrepreneurship Theory and Practice, 37(3),
505-537. doi:10.1111/etap.12021
Fayolle, A., & Liñán, F. (2014). The future of research on entrepreneurial intentions. Journal of Business Research,
67(5), 663-666. Retrieved from
Fitzsimmons, J. R., & Douglas, E. J. (2011). Interaction between feasibility and desirability in the formation
of entrepreneurial intentions. Journal of Business Venturing, 26(4), 431-440. Retrieved from
https://doi.org/10.1016/j.jbusvent.2010.01.001
Gartner, W. B., Shaver, K. G., Gatewood, E., & Katz, J. A. (1994). Finding the entrepreneur in entrepreneurship.
Entrepreneurship Theory and Practice, 18, 5-5.
GEM (2016). Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt nam 2015: Hoạt động kinh doanh xã hội. Hà Nội:NXB GTVT.
Gollwitzer, P. M. (1993). Goal Achievement: The Role of Intentions. European Review of Social Psychology, 4(1),
141-185. doi:10.1080/14792779343000059
Gollwitzer, P. M., & Brandstätter, V. (1997). Implementation intentions and effective goal pursuit. Journal of
Personality and Social Psychology, 73(1), 186-199. doi:10.1037/0022-3514.73.1.186
Gollwitzer, P. M., & Sheeran, P. (2006). Implementation intentions and goal achievement: A meta analysis of
effects and processes. Advances in experimental social psychology, 38, 69-119. doi: 10.1016/S0065-
2601(06)38002-1
Haynie, J. M., Shepherd, D. A., & McMullen, J. S. (2009). An opportunity for me? The role of resources in
opportunity evaluation decisions. Journal of Management studies, 46(3), 337-361.
Hayton, J. C., & Cholakova, M. (2012). The Role of Affect in the Creation and Intentional Pursuit of
Entrepreneurial Ideas. Entrepreneurship Theory and Practice, 36(1), 41-68. doi:10.1111/j.1540-
6520.2011.00458.x
Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36 35
Hmieleski, K. M. and Corbett, A. C. (2006). Proclivity for Improvisation as a Predictor of Entrepreneurial
Intentions. Journal of Small Business Management, 44, 45–63. doi:10.1111/j.1540-627X.2006.00153.x
Kautonen, T., van Gelderen, M., & Tornikoski, E. T. (2015). Predicting entrepreneurial behaviour: a test of the
theory of planned behaviour. Applied Economics, 45(6), 697-707. doi:10.1080/00036846.2011.610750
Krueger, N. F., & Brazeal, D. V. (1994). Entrepreneurial potential and potential entrepreneurs. Entrepreneurship
Theory and Practice, 18, 91-91.
Krueger Jr, N. F., Reilly, M. D., & Carsrud, A. L. (2000). Competing models of entrepreneurial intentions. Journal
of Business Venturing, 15(5–6), 411-432. Retrieved from
Latham, G. P., & Locke, E. A. (1991). Self-regulation through goal setting. Organizational behavior and human
decision processes, 50(2), 212-247.
Marco van, G., Maryse, B., Mirjam van, P., Wynand, B., Erik, P., & Anita van, G. (2008). Explaining
entrepreneurial intentions by means of the theory of planned behaviour. Career Development International,
13(6), 538-559. doi:10.1108/13620430810901688
Nabi, G., & Liñán, F. (2013). Considering business start-up in recession time: The role of risk perception and
economic context in shaping the entrepreneurial intent. International Journal of Entrepreneurial Behavior &
Research, 19(6), 633-655. doi:10.1108/IJEBR-10-2012-0107
Nguyễn Đình Thọ (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh - thiết kế và thực hiện. Nhà xuất bản
Lao động Xã hội, 2011.
Parks–Stamm, E. J., Gollwitzer, P. M., & Oettingen, G. (2007). Action control by implementation intentions:
Effective cue detection and efficient response initiation. Social Cognition, 25(2), 248-266. doi:
10.1521/soco.2007.25.2.248
Randall, D. M., & Wolff, J. A. (1994). The time interval in the intention-behaviour relationship: Meta-analysis.
British Journal of Social Psychology, 33(4), 405-418. doi:10.1111/j.2044-8309.1994.tb01037.x
Reynolds, P., Bosma, N., Autio, E., Hunt, S., De Bono, N., Servais, I., . . . Chin, N. (2005). Global Entrepreneurship
Monitor: Data Collection Design and Implementation 1998–2003. Small Business Economics, 24(3), 205-
231. doi:10.1007/s11187-005-1980-1
Robert Mitchell, J., Shepherd, D. A., & Sharfman, M. P. (2011). Erratic strategic decisions: when and why
managers are inconsistent in strategic decision making. Strategic Management Journal, 32(7), 683-704.
doi:10.1002/smj.905/full
Schlaegel, C., & Koenig, M. (2014). Determinants of Entrepreneurial Intent: A Meta-Analytic Test and Integration
of Competing Models. Entrepreneurship Theory and Practice, 38(2), 291-332. doi:10.1111/etap.12087
Schumpeter, J. A. (1934). The theory of economic development: An inquiry into profits, capital, credit, interest, and
the business cycle (55). Transaction publishers.
Shane, S., & Venkataraman, S. (2000). The Promise of Entrepreneurship as a Field of Research. Academy of
Management Review, 25(1), 217-226. doi:10.5465/amr.2000.2791611
Shapero, A., & Sokol, L. (1982). The social dimensions of entrepreneurship. Encyclopedia of entrepreneurship,
72-90.
Sheeran, P., & Silverman, M. (2003). Evaluation of three interventions to promote workplace health and safety:
evidence for the utility of implementation intentions. Social Science & Medicine, 56(10), 2153-2163.
doi:10.1016/S0277-9536(02)00220-4
Sheeran, P., Aubrey, R., & Kellett, S. (2007). Increasing attendance for psychotherapy: Implementation intentions
and the self-regulation of attendance-related negative affect. Journal of Consulting and Clinical Psychology,
75(6), 853. doi: 10.1037/0022-006X.75.6.853
36 Nguyễn Quang Thu và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 23-36
Sokol, L. (1982). The social Dimension of Entrepreneurship. The Encyclopedia of Entrepreneurship. Englewood
Cliffs. NJ.: Prentice-Hall.
Souitaris, V., Zerbinati, S., & Al-Laham, A. (2007). Do entrepreneurship programmes raise entrepreneurial intention
of science and engineering students? The effect of learning, inspiration and resources. Journal of Business
Venturing, 22(4), 566-591. doi:
Stevenson, H. H., & Jarillo, J. C. (2007). A paradigm of entrepreneurship: Entrepreneurial management.
Entrepreneurship: Concepts, theory and perspective, 155-170.
Tubbs, M. E., & Ekeberg, S. E. (1991). The role of intentions in work motivation: Implications for goal-setting
theory and research. Academy of Management Review, 16(1), 180-199.
Walker, J. K., Jeger, M., & Kopecki, D. (2013). The Role of Perceived Abilities, Subjective Norm and Intentions in
Entrepreneurial Activity. The Journal of Entrepreneurship, 22(2), 181-202. doi:10.1177/0971355713490621
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_nhan_thuc_khoi_nghiep_den_hanh_vi_khoi_nghiep_cua.pdf