Trong trường hợp CĐTS của vợ chồng
theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi
ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu
thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng
quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và
5 Điều này và tại các Điều 60, 61, 62, 63 và
64 của Luật này để giải quyết”.
Như vậy, quy định này đã thể hiện rất rõ
ràng tinh thần tôn trọng các thỏa thuận của
vợ chồng trong CĐTS thỏa thuận liên quan
đến việc phân chia tài sản khi ly hôn. Ngược
lại, nếu vợ chồng có xây dựng CĐTS thỏa
thuận nhưng trong nội dung thỏa thuận
không nói gì về cách thức cũng như điều
kiện phân chia tài sản khi ly hôn thì Tòa án
sẽ áp dụng cách phân chia theo CĐTS luật
định để giải quyết.
Vấn đề cần lưu ý còn lại liên quan tới
việc chấm dứt QHTS giữa vợ chồng khi ly
hôn trong tình trạng có CĐTS thỏa thuận là
các thỏa thuận phân chia tài sản cần phải
tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại
Điều 29, 30, 31, 32 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 và đảm bảo không “vi phạm
nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền
được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cha, mẹ, con và thành viên khác
của gia đình”, đặc biệt là quyền được cấp
dưỡng sau khi ly hôn. Điều đó cũng có nghĩa
là, nếu có những thỏa thuận vi phạm các
nguyên tắc này mà vẫn chưa bị tuyên bố vô
hiệu thì sẽ xử lý giống như trường hợp “Nếu
thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng
quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và
5 Điều 59 và tại các điều 60, 61, 62, 63 và
64 của Luật này để giải quyết”.
Tóm lại, việc giải quyết QHTS giữa vợ
và chồng như thế nào khi chấm dứt QHHN
là một trong những nội dung quan trọng mà
các bên vợ chồng thường quan tâm thỏa
thuận khi xác lập CĐTS thỏa thuận cho
riêng mình. Và trong số các trường hợp
chấm dứt QHTS thì chấm dứt QHTS do ly
hôn có thể nói là trường hợp mà sự tự do
trong thỏa thuận về phân chia tài sản được
cho phép nhiều nhất
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng chế độ tài sản thỏa thuận trong giải quyết việc chấm dứt quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Chế độ tài sản thỏa thuận giữa vợ và
chồng theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014
CĐTS giữa vợ chồng là tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu)
tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định
về căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản,
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài
sản chung, tài sản riêng, các trường hợp và
nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng2
CĐTS pháp định (CĐTS theo luật định)
là CĐTS duy nhất được pháp luật Việt Nam
thừa nhận cả trong Luật HN&GĐ Việt Nam
năm 1959, 1987 và Luật năm 2000; vợ
chồng không thể thỏa thuận để xác lập một
CĐTS trong hôn nhân khác với CĐTS pháp
định. Luật HN&GĐ năm 2014 với hàng loạt
những thay đổi quan trọng, mà sự thay đổi
có thể nói mang tính cách mạng nhất là sự
ghi nhận CĐTS thỏa thuận.
AÁP DUÅNG CHÏË ÀÖÅ TAÂI SAÃN THOÃA THUÊÅN
TRONG GIAÃI QUYÏËT VIÏåC CHÊËM DÛÁT QUAN HÏå TAÂI SAÃN
GIÛÄA VÚÅ VAÂ CHÖÌNG
ĐoàN Thị PhươNg DiệP*
Chế độ tài sản (CĐTS) thỏa thuận đã từng tồn tại trong lịch sử lập pháp
của Việt Nam thời cận đại với tên gọi “Hợp đồng hôn nhân” hay “khế ước
hôn nhân”- hôn khế1. Thuật ngữ này không còn xuất hiện trong các Luật
Hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) Việt Nam năm 1959, 1986, 2000.
Luật HN&GĐ năm 2014 ghi nhận sự trở lại của CĐTS này với một số quy
định. Mặc dù chỉ dừng lại ở một số lượng khiêm tốn, song các nhà làm
luật Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến việc áp dụng CĐTS thỏa thuận
trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt quan hệ tài sản
(QHTS) của vợ chồng. Bài viết trả lời hai câu hỏi: Thứ nhất, thế nào là
CĐTS thỏa thuận giữa vợ và chồng? và thứ hai, vấn đề áp dụng CĐTS
thỏa thuận trong giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt QHTS
giữa vợ và chồng như thế nào?
* TS. Khoa Luật, Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
1 Dân luật 1972 Sài Gòn.
2 Khái niệm này, theo tác giả Nguyễn Mạnh Bách “Chế độ hôn sản gồm một số các nguyên tắc quy định quyền hạn của hai
vợ chồng trên các tài sản chung, sự đóng góp tiền bạc của hai vợ chồng trong thời gian hôn nhân, các quyền lợi của
người thứ ba giao dịch với họ và những quyền lợi của mỗi người vợ chồng khi hôn thú chấm dứt”, Tìm hiểu Luật Dân sự
Việt Nam (chế độ hôn sản, thừa kế), Nxb. Đồng Nai, 1992, tr 9.
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
CĐTS thỏa thuận (hay còn gọi là CĐTS
ước định), là tập hợp các quy tắc do chính
vợ, chồng xây dựng nên một cách hệ thống
trên cơ sở sự cho phép của pháp luật để thay
thế cho CĐTS luật định nhằm điều chỉnh
QHTS của vợ chồng. Các quy định về
CĐTS thỏa thuận của vợ chồng hiện nay khá
khiêm tốn, chỉ gói gọn trong các Điều 47,
48, 49, 50 và 59 Luật HN&GĐ năm 2014.
Ngoài ra, CĐTS này cũng được hướng dẫn
bởi 4 điều (Điều 15, 16, 17, 18) của Nghị
định số 126/CP của Chính phủ ban hành
ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ
năm 2014 và một số hướng dẫn cụ thể trong
Thông tư liên tịch số 01/TTLT- TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật
HN&GĐ năm 2014. Các quy định này đề
cập đến các khía cạnh của CĐTS thỏa thuận
(như: việc xác lập CĐTS, sửa đổi CĐTS,
tuyên bố vô hiệu và chấm dứt CĐTS).
2. áp dụng chế độ tài sản thỏa thuận
trong giải quyết hậu quả pháp lý của việc
chấm dứt quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng
2.1. Tuyên bố vô hiệu chế độ tài sản
thỏa thuận
2.1.1. Các trường hợp bị tuyên bố vô
hiệu
Thỏa thuận giữa vợ và chồng về CĐTS,
dù hiện nay pháp luật chưa quy định chính
thức là một hợp đồng, nhưng về nguyên tắc
là một loại giao dịch. Và với tư cách là một
loại giao dịch, các thỏa thuận này phải tuân
thủ những điều kiện nhất định để phát sinh
hiệu lực. Theo quy định tại Điều 50 Luật
HN&GĐ năm 2014: “1. Thỏa thuận về
CĐTS của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô
hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực
của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân
sự (BLDS) và các luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại
các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm
nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền
được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cha, mẹ, con và thành viên khác
của gia đình.
2. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối
hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ Tư pháp hướng dẫn khoản 1 Điều này”.
Như vậy, với quy định này có thể thấy
có ba lý do để Tòa án có thể tuyên bố vô
hiệu đối với một thỏa thuận về CĐTS giữa
vợ và chồng.
Về lý do thứ nhất, không tuân thủ điều
kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định
tại BLDS và các luật khác có liên quan.
Theo quy định tại Điều 122 BLDS năm
20053 thì: Giao dịch dân sự có hiệu lực khi
có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực
hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch
không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn
tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định.
Áp dụng quy định trên có thể hình dung
khả năng một thỏa thuận về CĐTS giữa vợ
và chồng sẽ bị tuyên bố vô hiệu trong các
trường hợp:
Thứ nhất, nếu một trong hai bên vợ
chồng chưa đủ tuổi kết hôn ở thời điểm xác
lập thỏa thuận hoặc bị mất năng lực hành vi
dân sự ở thời điểm thỏa thuận thì thỏa thuận
3 Quy định này vẫn được giữ lại tại Điều 117 BLDS năm 2015.
39
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
sẽ bị tuyên bố vô hiệu. Trường hợp này được
dẫn trên cơ sở có sự kết hợp giữa các quy
định của BLDS và Luật HN&GĐ về điều
kiện kết hôn. Luật HN&GĐ không yêu cầu
cụ thể về điều kiện năng lực hành vi của các
bên tham gia thỏa thuận về CĐTS, nên
chúng tôi cho rằng, một cách hợp lý, người
được xem là đáp ứng yêu cầu về năng lực
hành vi để kết hôn thì có quyền xác lập thỏa
thuận về CĐTS. Mà theo các quy định về
điều kiện kết hôn tại khoản 1 Điều 8 Luật
HN&GĐ thì: “1. Nam, nữ kết hôn với nhau
phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ
18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện
quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân
sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong
các trường hợp cấm kết hôn theo quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của
Luật này”.
Thứ hai, cũng theo quy định trên, thỏa
thuận về CĐTS giữa vợ chồng sẽ bị tuyên
bố vô hiệu nếu tại thời điểm xác lập, một
hoặc hai bên ở trong tình trạng không có sự
tự nguyện (bị đe dọa, lừa dối, nhầm lẫn).
Vấn đề về sự lừa dối, nhầm lẫn hay đe dọa
được xác định theo quy định của Bộ luật
Dân sự.
Như vậy, trên cơ sở quy định trên, nếu
việc kết hôn bị tuyên bố hủy do vi phạm
điều kiện về độ tuổi, hay điều kiện về sự tự
nguyện thì thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và
chồng cũng bị tuyên bố vô hiệu theo.
Thứ ba, về hình thức, theo quy định tại
khoản 2 Điều 122 nêu trên thì khi có vi
phạm điều kiện về hình thức, Tòa án chỉ
tuyên bố vô hiệu giao dịch nếu pháp luật có
quy định “hình thức của giao dịch là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch”. Mặc dù
Điều 47 Luật HN&GĐ có quy định rằng:
“Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn
CĐTS theo thỏa thuận thì thỏa thuận này
phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình
thức văn bản có công chứng hoặc chứng
thực”. Tuy nhiên, quy định này không nói
rằng việc lập thành văn bản có công chứng,
chứng thực là điều kiện có hiệu lực của thỏa
thuận về CĐTS giữa vợ và chồng. Cho nên,
áp dụng các quy định hiện hành này, nếu vi
phạm quy định về hình thức thì Tòa án
không thể tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về
CĐTS giữa và vợ chồng. Theo chúng tôi,
cần quy định rõ rằng các yêu cầu về hình
thức đối với CĐTS thỏa thuận (về việc công
chứng thỏa thuận, thời điểm xác lập) là một
điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận về
CĐTS giữa vợ và chồng vì hơn bất kỳ một
loại giao dịch dân sự nào, CĐTS thỏa thuận
đóng vai trò quan trọng không những đối
với các bên vợ, chồng mà còn đối với người
thứ ba. Do vậy, các yêu cầu nghiêm ngặt về
hình thức là thật sự cần thiết4.
Lý do thứ hai, thỏa thuận về CĐTS của
vợ chồng vi phạm một trong các quy định
tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật
HN&GĐ năm 2014.
Các quy định tại Điều 29, 30, 31, 32
Luật HN&GĐ năm 2014 tạo thành một
CĐTS cơ sở mà dù là CĐTS thỏa thuận hay
CĐTS theo luật định cũng phải tuân thủ. Vi
phạm một trong các nguyên tắc này thì thỏa
thuận về CĐTS sẽ bị tuyên bố vô hiệu. Có
thể lấy ví dụ nguyên tắc “vợ, chồng có
quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản
chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ,
chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng
theo khả năng kinh tế của mỗi bên”. Nguyên
4 Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP vẫn chưa có quy định gì về vấn đề này.
40
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
tắc này rất quan trọng trong việc đảm bảo
duy trì các điều kiện hỗ trợ cho sự tồn tại
của gia đình. Theo đó, nếu trong thỏa thuận
về CĐTS giữa vợ và chồng có quy định cho
rằng “trong thời kỳ hôn nhân chỉ có người
chồng có nghĩa vụ đóng góp thu nhập duy
trì đời sống chung của gia đình” thì thỏa
thuận đó sẽ vô hiệu.
Lý do thứ ba, nội dung của thỏa thuận
vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp
dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích
hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành
viên khác của gia đình.
Lý do này giúp bảo vệ các chủ thể có
liên quan khỏi các thỏa thuận giữa vợ và
chồng trong trường hợp các thỏa thuận này
tác động theo hướng bất lợi đối với họ.
Chúng tôi cho rằng, trên thực tế các thỏa
thuận giữa vợ và chồng về CĐTS có thể tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lợi
của các chủ thể có liên quan trong cấp
dưỡng hoặc thừa kế5... Và theo chúng tôi, dù
tác động trực tiếp hay gián tiếp, nếu có
những thỏa thuận giữa vợ và chồng vi phạm
nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng hay
quyền được thừa kế... của cha, mẹ, con và
các thành viên khác của gia đình, thì thỏa
thuận đó phải bị vô hiệu.
Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6
Thông tư liên tịch số 01/TTLT- TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 thì: “Nội
dung của thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng
bị vô hiệu do vi phạm nghiêm trọng quyền
được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ,
con và các thành viên khác của gia đình quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật
HN&GĐ là trường hợp thỏa thuận đó nhằm
trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định từ
Điều 110 đến Điều 115 của Luật HN&GĐ
hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những
người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc theo quy định của BLDS hoặc
vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của
cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia
đình đã được Luật HN&GĐ và pháp luật
khác có liên quan quy định”.
2.1.2. Hiệu lực của tuyên bố vô hiệu đối
với thỏa thuận về chế độ tài sản giữa vợ và
chồng
Về thẩm quyền tuyên bố vô hiệu, hiện
tại trong Luật HN&GĐ năm 2014 không có
quy định cụ thể về thẩm quyền tuyên bố vô
hiệu. Tuy nhiên, theo chúng tôi, với tư cách
là một giao dịch dân sự, thì chỉ Tòa án mới
có thẩm quyền tuyên bố vô hiệu đối với thỏa
thuận này của vợ chồng. Hướng dẫn của
Thông tư liên tịch số 01 nêu trên cũng đã
khẳng định suy luận này6.
Về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố
vô hiệu, theo quy định tại khoản 2 Điều 50
Luật HN&GĐ năm 2014: “Tòa án nhân dân
tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn
khoản 1 Điều này”. Và Thông tư liên tịch số
01 đã có hướng dẫn: “Thỏa thuận về CĐTS
của vợ chồng có thể bị Tòa án tuyên bố vô
hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần.
a) Trường hợp thỏa thuận về CĐTS của
vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ
thì CĐTS của vợ chồng theo luật định được
áp dụng.
b) Trường hợp thỏa thuận về CĐTS của
vợ chồng bị tuyên bố vô hiệu một phần thì
các nội dung không bị vô hiệu vẫn được áp
dụng; đối với phần nội dung bị vô hiệu thì
các quy định tương ứng về CĐTS của vợ
chồng theo luật định được áp dụng”.
5 Ví dụ, thỏa thuận của vợ chồng rằng “khi một trong hai bên chết thì người còn lại được thừa kế trọn di sản”, thỏa thuận
này đã, một cách gián tiếp, hạn chế, thậm chí tước đi quyền thừa kế của các thành viên khác trong gia đình của người
chết (cụ thể là quyền thừa kế của những người cùng hàng với vợ, chồng)
6 Theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP (2016) thì Tòa án có thẩm quyền này.
41
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Trên cơ sở các quy định này về CĐTS
thỏa thuận và vấn đề tuyên bố vô hiệu đối
với thỏa thuận giữa vợ và chồng về CĐTS
này, chúng tôi cho rằng, việc tuyên bố vô
hiệu cũng như các hậu quả pháp lý của tuyên
bố vô hiệu được xây dựng trên cơ sở các quy
tắc của luBộ luật Dân sự.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 131
BLDS năm 2015:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao
dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được
bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn
trả....”.
Như vậy, một khi thỏa thuận về CĐTS
giữa vợ và chồng bị tuyên bố vô hiệu thì thỏa
thuận này không phát sinh hiệu lực ngay từ
thời điểm xác lập. Điều này dẫn đến kết quả
là phải lựa chọn một trong hai giải pháp, thứ
nhất QHTS giữa vợ vàchồng không được
điều chỉnh bởi bất kỳ quy tắc nào, thứ hai vì
CĐTS thỏa thuận không tồn tại ngay từ thời
điểm xác lập quan hệ hôn nhân (QHHN) nên
CĐTS theo luật định được áp dụng. Chúng
tôi cho rằng, giải pháp thứ hai đã được đề cập
trong Thông tư liên tịch số 01 đã nêu là hợp
lý, bởi vì không thể có tình trạng không tồn
tại quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng về
QHTS. Hơn thế nữa, trong trường hợp thỏa
thuận giữa vợ chồng về CĐTS bị tuyên bố
vô hiệu, các bên cũng không thể thỏa thuận
lại một CĐTS thỏa thuận khác vì: “Trong
trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn CĐTS
theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được
lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản
có công chứng hoặc chứng thực. CĐTS của
vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ
ngày đăng ký kết hôn” (Điều 47 Luật
HN&GĐ năm 2014).
2.2. Chấm dứt chế độ tài sản thỏa
thuận khi hủy hôn nhân trái pháp luật
QHHN sẽ chấm dứt khi rơi vào một
trong ba trường hợp sau, vợ (chồng) chết, ly
hôn hay hủy hôn nhân trái pháp luật. Trong
số ba trường hợp này thì hủy hôn nhân trái
pháp luật là trường hợp chấm dứt QHHN bị
động và khác biệt về nguyên nhân cũng như
ý chí so với hai trường hợp còn lại.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật
HN&GĐ năm 2014 thì: “Kết hôn trái pháp
luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một
bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết
hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”.
Và hậu quả pháp lý về QHTS giữa vợ và
chồng của việc Tòa án tuyên bố hủy kết hôn
trái pháp luật cũng giống như trường hợp
quan hệ chung sống như vợ chồng bị Tòa án
tuyên bố không công nhận là: “1. QHTS,
nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận
giữa các bên; trong trường hợp không có
thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của
BLDS và các quy định khác của pháp luật
có liên quan.
2. Việc giải quyết QHTS phải bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con;
công việc nội trợ và công việc khác có liên
quan để duy trì đời sống chung được coi như
lao động có thu nhập” (Điều 16 Luật
HN&GĐ năm 2014).
Có thể thấy pháp luật không quy định
đặc biệt gì liên quan đến việc giải quyết
QHTS giữa vợ và chồng trong trường hợp
hủy hôn nhân trái pháp luật khi giữa họ tồn
tại thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng.
Đương nhiên là thỏa thuận về CĐTS không
thể tiếp tục tồn tại sau khi QHHN giữa vợ
và chồng đã bị Tòa án tuyên bố hủy, bởi vì
QHTS giữa vợ và chồng chỉ tồn tại khi tồn
tại QHHN - quan hệ vợ chồng. Do đó, câu
hỏi đặt ra là liệu các thỏa thuận về QHTS
42
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
giữa vợ và chồng trong CĐTS thỏa thuận
giữa họ có phát sinh hiệu lực khi giải quyết
việc chấm dứt QHHN giữa họ? Hay một khi
QHHN bị hủy do trái pháp luật thì QHTS
giữa vợ và chồng phải được giải quyết theo
quy định tại Điều 16 Luật HN&GĐ nêu
trên?
Theo chúng tôi, câu trả lời chỉ có thể
đến trên cơ sở phân tích và nhận định. Thứ
nhất, việc tuyên bố hủy hôn nhân trái pháp
luật được Tòa án tiến hành trên cơ sở yêu
cầu của một số chủ thể nhất định được chỉ
định bởi pháp luật. Việc tuyên bố hủy được
tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật,
bất chấp ý chí của các bên trong QHHN. Do
đó, nó mang ý nghĩa chế tài nhiều hơn là
một sự kết thúc QHHN thông thường. Và
một khi việc hủy hôn nhân này với ý nghĩa
chế tài như vậy, thì việc áp dụng CĐTS thỏa
thuận để giải quyết QHTS giữa vợ và chồng
là không hợp lý. Thứ hai, các quy định về
hủy QHHN trái pháp luật tại Điều 10, 11, 12
Luật H&GĐ năm 2014 về nguyên tắc là áp
dụng chung cho những trường hợp hủy hôn
nhân trái pháp luật, do đó, nếu không có quy
định riêng của pháp luật về việc xử lý QHTS
giữa vợ và chồng như thế nào khi hủy
QHHN trái pháp luật mà giữa vợ và chồng
có CĐTS thỏa thuận, thì một cách hợp lý,
theo chúng tôi là sẽ phải áp dụng các quy
định chung này.
Tóm lại, dù giữa vợ và chồng có tồn tại
CĐTS thỏa thuận, thì khi hủy hôn nhân trái
pháp luật, việc xử lý QHTS giữa họ với
nhau và trong quan hệ giữa họ với người thứ
ba vẫn phải tuân thủ các quy định như hủy
QHHN trái pháp luật trong các trường hợp
thông thường khác.
2.3. Chấm dứt chế độ tài sản thỏa
thuận khi vợ, chồng chết
Theo pháp luật dân sự Cộng hòa Pháp,
vợ và chồng luôn là người thừa kế hàng đầu
của nhau trong trường hợp một trong hai bên
chết. Quyền thừa kế này được xác định tùy
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như có
hay không có di chúc, người chết có con hay
không, và đặc biệt là vợ, chồng chết trong
tình trạng giữa vợ và chồng có thỏa thuận
đặc biệt trong việc chia tài sản hay không
(thỏa thuận này nằm trong khuôn khổ của
hợp đồng hôn nhân đã giao kết giữa họ với
nhau).
Khác với luật của Cộng hòa Pháp, ở
Việt Nam, việc thừa kế giữa vợ chồng được
quy định bởi BLDS, không xem là một phần
trong Luật HN&GĐ mặc dù có quan hệ mật
thiết với Luật HN&GĐ.
BLDS của Việt Nam được ban hành
năm 2005, trong khi CĐTS thỏa thuận được
quy định trong Luật HN&GĐ ban hành năm
2014. Vấn đề xử lý việc chấm dứt QHTS
giữa vợ và chồng khi một trong hai bên vợ,
chồng chết trong tình trạng có tồn tại CĐTS
thỏa thuận chắc chắn không được quy định
trong BLDS năm 2005, và thật tiếc là BLDS
năm 2015 cũng không đề cập đến vấn đề
này. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 48
Luật HN&GĐ năm 2014:
“1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về
CĐTS bao gồm:
a) Tài sản được xác định là tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối
với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch
có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu
thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân
chia tài sản khi chấm dứt CĐTS;
d) Nội dung khác có liên quan.
2. Khi thực hiện CĐTS theo thỏa thuận
mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ
chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ
ràng thì áp dụng quy định tại các Điều 29,
30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương
ứng của CĐTS theo luật định”.
Và theo quy định tại điểm c khoản 1
Điều 50 thì thỏa thuận giữa vợ chồng về
CĐTS sẽ bị tuyên bố vô hiệu khi: “Nội dung
43
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền
được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ,
con và thành viên khác của gia đình”. Hai
quy định vừa trích dẫn dường như có sự mâu
thuẫn nhau. Cụ thể, quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 48 cho phép các bên vợ chồng
có quyền thỏa thuận và ghi nhận vào CĐTS
thỏa thuận các “Điều kiện, thủ tục và
nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt
CĐTS”, mà các trường hợp chấm dứt QHTS
bao gồm cả trường hợp một trong hai bên
vợ, chồng chết. Trong khi đó Điều 50 lại
không cho phép những thỏa thuận “vi phạm
quyền thừa kế”, tức quyền thừa kế được ghi
nhận bởi BLDS. Ngoài ra, khoản 2 Điều 66
Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định rằng:
“2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản
chung của vợ chồng được chia đôi, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về
CĐTS. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc
bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo
quy định của pháp luật về thừa kế”. Trên cơ
sở các quy định nêu trên, có thể thấy giới
hạn của CĐTS thỏa thuận liên quan đến việc
giải quyết QHTS giữa vợ và chồng khi một
trong hai bên chết. Cụ thể và đơn giản, có
thể nói rằng việc phân chia di sản thừa kế
trong trường hợp một bên vợ, chồng chết mà
giữa họ có tồn tại CĐTS thỏa thuận vẫn phải
tuân thủ các quy định mang tính bắt buộc
của pháp luật dân sự về chia di sản thừa kế,
cụ thể là phải tôn trọng quyền thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc của những
chủ thể được bảo vệ theo quy định tại Điều
6 Thông tư liên tịch số 01 đã dẫn trên.
Tóm lại, đối với CĐTS thỏa thuận giữa
vợ và chồng, các bên có thể thỏa thuận về
việc quản lý, phân chia tài sản cũng như các
điều kiện phân chia tài sản khi chấm dứt
QHHN. Tuy nhiên, riêng các thỏa thuận về
phân chia di sản thừa kế làm ảnh hưởng đến
quyền thừa kế của những người thừa kế thì
thỏa thuận này không được phép. Đây cũng
chính là giới hạn cho CĐTS thỏa thuận giữa
vợ và chồng.
Câu hỏi đặt ra là chỉ riêng các thỏa
thuận về thừa kế là không được phép hay tất
cả các thỏa thuận làm ảnh hưởng đến quyền
thừa kế của các chủ thể có liên quan khi một
trong hai bên vợ, chồng chết sẽ bị cấm? Hãy
hình dung giả thuyết, trong thỏa thuận về
CĐTS, vợ chồng đã thỏa thuận với nhau
rằng, khi một trong hai bên vợ, chồng chết
thì người còn sống sẽ được nhận hai phần
ba (2/3) tổng số tài sản chung, một phần ba
còn lại là của người chết và sẽ đem chia thừa
kế. Rõ ràng thỏa thuận này không tác động
trực tiếp đến quyền thừa kế của những người
thừa kế, mà nó chỉ là thỏa thuận về việc
phân chia tài sản chung của vợ chồng,
nhưng thỏa thuận này đã tác động một cách
gián tiếp đến quyền được thừa kế của những
người thừa kế khác. Cụ thể là nó làm cho
khối di sản của những người này ít đi hơn
so với bình thường (nếu như không có
CĐTS thỏa thuận). Câu trả lời - theo chúng
tôi - đến từ lý do cho sự xuất hiện của quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 50 nêu trên.
Nhà làm luật khi xây dựng quy định tại Điều
50 này đã nghĩ đến nguyên tắc bảo vệ người
thứ ba, theo nguyên tắc đó, vợ chồng có
quyền xây dựng một CĐTS thỏa thuận cho
riêng họ, nhưng các thỏa thuận này không
được ảnh hưởng theo hướng tiêu cực đến
quyền lợi của người thứ ba, đặc biệt là
quyền thừa kế và cụ thể là quyền thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Và
mặc dù thỏa thuận của vợ chồng không phải
là di chúc nhưng nó cũng đã tác động tiêu
cực đến quyền thừa kế của các chủ thể được
pháp luật bảo vệ. Do đó, có thể thấy thỏa
thuận của vợ chồng trong giả thuyết đã đề
cập là không được chấp nhận nếu thỏa thuận
phân chia này làm cho quyền thừa kế của
các chủ thể đặc biệt (vợ, chồng, cha, mẹ, con
chưa thành niên... của người chết) không
được đảm bảo theo quy định của luật dân sự.
44
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(312) T4/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
2.4. Chấm dứt chế độ
tài sản thỏa thuận khi vợ
chồng ly hôn
Ly hôn là trường hợp
chấm dứt QHHN không
được lường trước bởi khi vợ
chồng xác lập QHHN là
trong điều kiện bình
thường. Tuy nhiên, đây lại
là trường hợp thường được
dự kiến bởi các thỏa thuận
về CĐTS giữa vợ và chồng,
khi ly hôn sẽ chia tài sản
như thế nào là vấn đề mà các bên thường
quan tâm khi xây dựng thỏa thuận về CĐTS
giữa vợ và chồng. Các thỏa thuận này cũng
là những thỏa thuận được phép xây dựng
trong khuôn khổ quy định tại điểm c khoản
1 Điều 48 nêu trên. Đồng thời, theo quy định
tại khoản 1 Điều 59 Luật HN&GĐ năm
2014 về giải quyết QHTS giữa vợ và chồng
khi ly hôn thì: “1. Trong trường hợp CĐTS
của vợ và chồng theo luật định thì việc giải
quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của
vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án
giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3,
4 và 5 Điều này và tại các Điều 60, 61, 62,
63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp CĐTS của vợ chồng
theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi
ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu
thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng
quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và
5 Điều này và tại các Điều 60, 61, 62, 63 và
64 của Luật này để giải quyết”.
Như vậy, quy định này đã thể hiện rất rõ
ràng tinh thần tôn trọng các thỏa thuận của
vợ chồng trong CĐTS thỏa thuận liên quan
đến việc phân chia tài sản khi ly hôn. Ngược
lại, nếu vợ chồng có xây dựng CĐTS thỏa
thuận nhưng trong nội dung thỏa thuận
không nói gì về cách thức cũng như điều
kiện phân chia tài sản khi ly hôn thì Tòa án
sẽ áp dụng cách phân chia theo CĐTS luật
định để giải quyết.
Vấn đề cần lưu ý còn lại liên quan tới
việc chấm dứt QHTS giữa vợ chồng khi ly
hôn trong tình trạng có CĐTS thỏa thuận là
các thỏa thuận phân chia tài sản cần phải
tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại
Điều 29, 30, 31, 32 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 và đảm bảo không “vi phạm
nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền
được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cha, mẹ, con và thành viên khác
của gia đình”, đặc biệt là quyền được cấp
dưỡng sau khi ly hôn. Điều đó cũng có nghĩa
là, nếu có những thỏa thuận vi phạm các
nguyên tắc này mà vẫn chưa bị tuyên bố vô
hiệu thì sẽ xử lý giống như trường hợp “Nếu
thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng
quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và
5 Điều 59 và tại các điều 60, 61, 62, 63 và
64 của Luật này để giải quyết”.
Tóm lại, việc giải quyết QHTS giữa vợ
và chồng như thế nào khi chấm dứt QHHN
là một trong những nội dung quan trọng mà
các bên vợ chồng thường quan tâm thỏa
thuận khi xác lập CĐTS thỏa thuận cho
riêng mình. Và trong số các trường hợp
chấm dứt QHTS thì chấm dứt QHTS do ly
hôn có thể nói là trường hợp mà sự tự do
trong thỏa thuận về phân chia tài sản được
cho phép nhiều nhất n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_che_do_tai_san_thoa_thuan_trong_giai_quyet_viec_cham.pdf