Thứ tư, bản chất của giảng dạy pháp luật cộng
đồng ngoài giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng qua
việc làm việc theo dự án, còn có ý nghĩa nhân
văn rất lớn cho các đối tượng yếu thế trong xã
hội được tiếp cận pháp luật. Mặc dù phương pháp
này chỉ áp dụng mô hình giảng dạy tại lớp, nhưng
giảng viên có thể tiến hành tổ chức giảng dạy
pháp luật cộng đồng thực tiễn tại các cộng đồng,
trường học hay trại giam ở cuối môn học, vừa
lấy điểm đánh giá học phần lại vừa có thể cho
sinh viên thực tiễn vận dụng phương pháp đã học
vào thực tế, giảm thiểu việc học thụ động truyền
thống tại lớp.
Việc áp dụng phương pháp giảng dạy pháp
luật cộng đồng vào trong học phần Tranh tài giải
pháp (PBL 396) có ý nghĩa rất lớn trong việc thay
đổi những phương pháp giảng dạy, phương pháp
học truyền thống trong môi trường đào tạo đại
học. Các phương pháp tương tác trong giảng dạy
pháp luật cộng đồng hoàn toàn có thể vận dụng
vào các môn học khác tạo nên một môi trường
giáo dục vui tươi, chủ động, không áp lực. Bởi
một phương pháp giảng dạy thành công không
chỉ đào tạo ra những sinh viên giỏi về kiến thức
mà còn phải có kỹ năng và thái độ tích cực, gắn
trong mối tương quan chặt chẽ với môi trường
cộng đồng, xã hội. Việc đưa phương pháp giảng
dạy pháp luật cộng đồng vào giảng dạy trong học
phần PBL 396 hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu này.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng phương pháp giảng dạy pháp luật cộng đồng trong giảng dạy thực hành luật tại Đại học Duy Tân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Email: ........................
Áp dụng phương pháp giảng dạy pháp luật cộng đồng trong giảng dạy
thực hành luật tại Đại học Duy Tân
Applying teaching methods in community law to practice of law at Duy Tan university
Nguyễn Trung Tín, Nguyễn Văn Phúc*, Nguyễn Thị Thu Na
Nguyen Trung Tin, Van Phuc Nguyen, Thu Na Nguyen Thi
Khoa Luật, Trường Đại học Duy Tân, 03 Quang Trung, Đà Nẵng, Việt Nam
Faculty of Law, Duy Tan University, 03 Quang Trung, Da Nang, Vietnam
(Ngày nhận bài: 08/10/2019, ngày phản biện xong: 04/12/2019, ngày chấp nhận đăng: 06/01/2020)
Tóm tắt
Phương pháp giảng dạy truyền thống lấy người thầy làm trung tâm của việc học. Người thầy am hiểu kiến thức truyền
đạt lại cho người học những kiến thức mình có, được thực hiện thông qua lời nói, hành động và nghiệp vụ sư phạm. Tuy
nhiên, phương pháp này ngày càng bộc lộ những điểm hạn chế nhất định khi thiếu sự tương tác và gây thụ động cho người
học. Bài viết dưới đây, tác giả trao đổi về việc áp dụng phương pháp giảng dạy pháp luật cộng đồng trong giảng dạy thực
hành luật đối với học phần Tranh tài giải pháp (PBL 396) tại Khoa Luật (Trường Đại học Duy Tân). Qua đó góp phần thay
đổi phương pháp thuyết giảng truyền thống sang phương pháp giảng dạy tương tác, lấy người học làm trọng tâm, phù hợp
với nhu cầu đổi mới trong giảng dạy luật hiện nay.
Từ khóa: Pháp luật, cộng đồng, tương tác, phương pháp.
Abstract
The traditional teaching method takes the teacher as the center of learning, the knowledgeable person imparts knowledge
to learners through words, actions and pedagogy. However, this method increasingly reveals certain limitations as it lacks
interaction and causes passivity for learners. In the following article, the author discusses the application of community
law teaching methodology to law practice pháp teaching for the solution competition module (PBL 396) at the Faculty of
Law - Duy Tan University, thereby contributing to changing the traditional teaching method to interactive methods, with
learners at the center, in accordance with the needs of innovation in teaching law today.
Keywords: Law, community, interaction, method.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
DTU Journal of Science and Technology 07(38) (2020) .........
1. Giới thiệu chung về phương pháp giảng dạy
pháp luật cộng đồng
Ở Việt Nam phương pháp giảng dạy pháp luật
cộng đồng được vận dụng và giảng dạy tại các
cơ sở giảng dạy pháp luật cộng đồng trong các
trường đại học Luật trên cả nước, các trung tâm tư
vấn và hỗ trợ pháp lý Phương pháp giảng dạy
pháp luật cộng đồng gồm hai hoạt động chính là
hỗ trợ - tư vấn pháp lý cộng đồng và giảng dạy
pháp luật cho cộng đồng hoặc lồng ghép cả hai
hoạt động này với nhau. Đối tượng của phương
pháp này rất đa dạng, chủ yếu là những người
yếu thế trong xã hội hoặc những người nhận thức
pháp lý thấp cần được hỗ trợ, như trẻ em, người
già, người khuyết tật, công nhân, tù nhân, ngư
dân Địa điểm tổ chức giảng dạy cũng rất linh
46
hoạt và đa dạng, không chỉ trong lớp học mà có
thể tại các địa điểm gần nhất và thuận lợi nhất
cho các đối tượng giảng dạy, chẳng hạn: Trường
học khi giảng dạy cho học sinh, sinh viên; nhà
sinh hoạt cộng đồng cho người dân địa phương;
trại giam cho tù nhân
Phương pháp giảng dạy pháp luật cộng đồng
được các quốc gia trên thế giới hiện nay áp dụng
chủ yếu là các phương pháp giảng dạy tương tác,
với hơn 30 phương pháp khác nhau, tùy thuộc
vào hoàn cảnh, đối tượng tiếp thu mà lựa chọn và
kết hợp những phương pháp thích hợp nhất. Đối
với phương pháp giảng dạy tương tác được hiểu
là việc người dạy lấy người học làm trọng tâm,
bỏ qua cách thuyết giảng truyền thống, người dạy
kết hợp nhiều phương pháp và hình thức khác
nhau như hình ảnh, trò chơi, video để truyền
đạt kiến thức một cách sinh động, giúp người học
cùng tham gia vào bài học, cùng bàn bạc thảo
luận để tìm ra những kiến thức pháp luật dựa trên
những gợi ý của người dạy [1; 35]. Điểm đặc biệt
của phương pháp giảng dạy pháp luật cộng đồng
là chính sinh viên (người học) sẽ trở thành người
giảng dạy kiến thức pháp lý cho các đối tượng có
nhu cầu tiếp cận pháp lý trong cộng đồng sau khi
được giảng viên tư vấn và hướng dẫn các phương
pháp tổ chức mô hình một buổi giảng dạy pháp
luật cộng đồng thực tế.
Hiện nay, phương pháp giảng dạy pháp luật
cộng đồng được đưa vào giảng dạy thử nghiệm
ở học phần Tranh tài giải pháp (PBL 396). Môn
học Tranh tài giải pháp được đưa vào giảng dạy
tại Trường Đại học Duy Tân với định hướng
giảng dạy theo hai phương pháp: Học qua vấn đề
- Problem-based learning (PBL) và học qua dự
án - Project-based learning (PBL) [2] tương ứng
với ba học phần PBL 296; PBL 396 và PBL 496,
được thiết kế phù hợp với từng chuyên ngành
đào tạo. Đối với sinh viên chuyên ngành luật,
học phần PBL 296 sinh viên được học tập các
kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình, sáng tạo...
thông qua các trò chơi vận động, trò chơi tư duy.
Học phần PBL 496 sinh viên được giảng dạy dựa
trên phương pháp phiên tòa giả định dành riêng
cho chuyên ngành luật, đối với học phần PBL
396 sinh viên học dưới hình thức học qua dự án
- Project-based learning thông qua việc giao một
dự án cho người học và cần sự hợp tác với nhau
để tạo nên một sản phẩm, một bài thuyết trình
hoặc dạng thể hiện nào đó hoàn thành cuối môn
học. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy pháp
luật cộng đồng trong học phần này là hoàn toàn
phù hợp với định hướng môn học, khi mỗi nhóm
sẽ được giao một dự án pháp luật cộng đồng và
thực hiện mô phỏng ngay tại lớp bằng việc ứng
dụng các phương pháp giảng dạy tương tác.
Phương pháp này giúp sinh viên phát triển
các kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình, được
chủ động trong việc đưa ra quan điểm. Ngoài ra,
người học có thể hiểu và nắm kiến thức pháp luật
ngay trên lớp tạo nên một môi trường học tập
vui vẻ, thoải mái, không áp lực. Tuy nhiên, đòi
hỏi người dạy phải đầu tư rất nhiều thời gian và
công sức để có thể soạn được bài giảng mang
tính tương tác và hiệu quả nhất.
2. Các phương pháp tương tác sử dụng trong
giảng dạy pháp luật cộng đồng
Phương pháp giảng dạy pháp luật cộng đồng
sử dụng các phương pháp tương tác đa dạng, hiện
nay có hơn 30 phương pháp tương tác khác nhau,
tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết, tác giả chỉ
trình bày những phương pháp thường được sử
dụng và mang lại hiệu quả cao nhất.
Phương pháp phá vỡ khoảng cách: Được sử
dụng nhằm giúp cho người dạy với người học
hoặc những người học với nhau phá bỏ khoảng
cách, làm quen và thoải mái khi tiếp xúc với
người dạy. Có rất nhiều hoạt động phá vỡ khoảng
cách, như: Hoạt động tập trung thông qua một dữ
kiện dưới dạng hình ảnh, con số hay một đoạn
video liên quan đến chủ đề môn học, giúp người
học tập trung và định hướng suy nghĩ liên quan
đến chủ đề. Hoạt động này giúp những người học
làm quen với nhau; cùng di chuyển, vận động;
khuyến khích người học đưa ra nhận xét, phán
47
đoán liên quan đến chủ đề Để áp dụng hiệu
quả phương pháp này đòi hỏi người dạy phải lựa
chọn cách thức phá vỡ khoảng cách phù hợp với
từng đối tượng học, chia nhóm người học một
cách hợp lý, không nên chia nhóm quá nhỏ hoặc
quá đông. Trong các hoạt động, người dạy nên
làm mẫu trước và không nên ép buộc dẫn đến sự
không thoải mái cho người học; người dạy cũng
cần chú ý quan sát để điều chỉnh các hoạt động
phù hợp cũng như đảm bảo thời lượng cho hoạt
động giảng dạy theo kế hoạch.
Phương pháp mô phỏng: Phương pháp này
đòi hỏi người học sẽ đóng vai dựa trên kịch bản
có sẵn hoặc một tình huống đã được chọn trước,
người giảng nên cho người học thời gian để tập
trước và nói với họ đặc điểm của từng nhân vật
cụ thể. Thông thường phương pháp này được
tiến hành thông qua 5 bước:
Bước 1: Cung cấp và giải thích nội dung tình
huống cho người học (ví dụ tình huống bạo lực
gia đình khi người chồng uống rượu say về nhà
đánh vợ).
Bước 2: Giải thích cho những người xung
phong đóng tình huống về những gì họ phải làm
và tính cách của từng nhân vật (người chồng
nóng tính và không có việc làm, suốt ngày rượu
chè; người vợ cam chịu vì thương con nhưng hay
chê trách chồng trước mặt người khác).
Bước 3: Giải thích cho người học còn lại sẽ
đóng vai trò quan sát viên và những điểm họ cần
phải quan sát (như nguyên nhân bạo lực gia đình;
lời nói hay cử chỉ của các nhân vật).
Bước 4: Mô phỏng tình huống và yêu cầu
quan sát viên trình bày lại những gì mà họ quan
sát được (lời nói xấu chồng của người vợ, hành
động đánh vợ của người chồng).
Bước 5: Tổng kết tình huống và người dạy đưa
ra những câu hỏi dẫn dắt để các nhóm thảo luận
đưa ra quan điểm liên quan đến chủ đề (những
nguyên nhân chủ yếu của bạo lực gia đình? Trách
nhiệm và hệ quả pháp lý từ hành vi bạo lực gia
đình?).
Phương pháp động não: Là một phương pháp
nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ, độc đáo
về một chủ đề của người học. Các thành viên
được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không
hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra “cơn lốc” các ý
tưởng). Phương pháp động não do Alex Osborn
(Mỹ) phát triển, dựa trên một phương pháp
truyền thống từ Ấn độ [3]. Thực hiện phương
pháp này, giảng viên cần đưa ra một hệ thống
các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận và
chọn một chủ đề để người học động não. Chẳng
hạn: “Có những nguyên nhân nào gây ô nhiễm
môi trường?”. Người giảng khích lệ người học
phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt
(nguyên nhân dân số tăng; ý thức con người, biến
đổi khí hậu), liệt kê tất cả các ý kiến đó lên bảng
hoặc khổ giấy to, không loại trừ một ý kiến nào;
phân loại ý kiến (nhóm nguyên nhân con người
hay nhóm nguyên nhân tự nhiên, nhóm khác).
Sau đó, người giảng và người học cùng đưa ra
những đánh giá tích cực hoặc ủng hộ (thông qua
hình thức biểu quyết); sắp xếp theo mức độ quan
trọng và khuyến khích đưa ra giải pháp (đưa ra
các giải pháp từ góc độ ý thức, giải pháp về công
nghệ). Đối với phương pháp này đòi hỏi người
giảng dạy phải có sự am hiểu và chuẩn bị trước
nội dung chủ đề, đồng thời kiểm soát thời lượng
và số lượng đáp án đưa ra phù hợp.
Phương pháp bài tập xếp loại: Là việc sắp
xếp những vấn đề mà người học đã vận dụng
từ phương pháp động não hoặc đưa cho người
học danh sách những vấn đề để người học xếp
loại theo mức độ quan trọng có thể quy định từ 1
đến 10 hoặc từ 1 đến 5, trong đó 1 là quan trọng
nhất và các số về sau càng ít quan trọng. Tiếp đó,
người giảng hỏi lại người học về lý do cho sự sắp
xếp đó; ý kiến phản biện của người khác; đề nghị
các nhóm xem lại ý kiến của mình sau khi nghe
ý kiến của người khác; tổng kết cách xếp loại của
các bên [1; 38]. Phương pháp này sẽ giúp cho
sinh viên chủ động tư duy và biết cách trình bày
ý kiến cá nhân, kỹ năng phản biện bảo vệ quan
điểm. Tuy nhiên, người dạy cần phải có kỹ năng
48
tổng hợp vấn đề và điều tiết tranh luận nếu mỗi
bên không chấp nhận ý kiến của nhau.
Ngoài những phương pháp tương tác trên,
một số phương pháp khác thường được vận dụng
trong giảng dạy pháp luật cộng đồng như phiên
tòa giả định; bài tập tình huống; thảo luận nhóm
nhỏ; tranh luận Người dạy có thể áp dụng một
hoặc nhiều phương pháp khác nhau trong cùng
một bài giảng dạy pháp luật cộng đồng, tuy nhiên
cần lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng
và thời gian giảng dạy.
3. Quy trình xây dựng một bài giảng dạy pháp
luật cộng đồng
Thông thường, để triển khai một buổi giảng
dạy pháp luật cộng đồng thực tế sẽ qua các bước:
Bước 1: Khảo sát điều tra nhu cầu của cộng
đồng để nắm bắt được những vấn đề pháp lý mà
cộng đồng đó đang quan tâm, cần được hỗ trợ. Có
rất nhiều phương pháp khác nhau chúng ta có thể
sử dụng để khảo sát nhu cầu cộng đồng: Thông
qua người đứng đầu cộng đồng đó (ví dụ như tổ
chức công đoàn trong các doanh nghiệp; trưởng
thôn; giám đốc trung tâm bảo trợ trẻ em);
thông qua phiếu điều tra xã hội học, khảo sát trực
tiếp đối tượng trong cộng đồng đó (lập bảng hỏi,
phỏng vấn trực tiếp); lấy số liệu từ báo cáo thống
kê, tài liệu của địa phương (Ví dụ: Theo thống
kê của Công an xã X số vụ án người chưa thành
niên phạm tội năm 2019 là 100 vụ/năm, chiếm
tỷ lệ 55% tổng số vụ án hình sự tại địa bàn xã X.
Vì vậy, chắc chắn chủ đề về tuyên truyền pháp
luật phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội
đang là vấn đề xã X quan tâm.
Bước 2: Xác định đối tượng và địa điểm giảng
dạy pháp luật cộng đồng. Đối tượng giảng dạy
pháp luật cộng đồng là những người yếu thế
trong xã hội như trẻ em, người cao tuổi, công
nhân, đồng bào thiểu số, người cao tuổi Do đó,
địa điểm giảng dạy cũng rất đa dạng từ lớp học
cho đến nhà văn hóa, trại giam. Lưu ý, khi xác
định đối tượng giảng dạy pháp luật cộng đồng
cần quan tâm đến nhu cầu, đặc điểm tâm sinh
lý và lứa tuổi của người học, người quản lý đối
tượng giảng dạy pháp luật cộng đồng để hỗ trợ
cho hoạt động giảng dạy hiệu quả.
Bước 3: Chuẩn bị và phân công nhiệm vụ cho
các thành viên. Thông thường để tổ chức một buổi
giảng dạy thành công mỗi nhóm cần phân công cụ
thể vai trò của từng thành viên trong nhóm. Ví dụ:
Người dẫn chương trình, nhóm phụ trách kỹ thuật,
nhóm tổ chức trò chơi, nhóm hậu cần, nhóm đóng
vai Để quản lý và đảm bảo mỗi thành viên trong
nhóm đều tham gia vào chuẩn bị bài giảng, giảng
viên nên yêu cầu nhóm ghi lại phân công nhiệm
vụ cụ thể của các thành viên trong bài giảng để
giảng viên quản lý và đánh giá.
Bước 4: Xây dựng nội dung bài giảng. Đây là
bước quyết định chất lượng bài giảng. Nội dung của
bài giảng là những điều sẽ được giảng dạy và phải
hướng đến các mục tiêu về kiến thức - kỹ năng - giá
trị. Cấu trúc nội dung bài giảng có ba phần:
Phần mở đầu của bài giảng cần vận dụng một
số phương pháp tương tác như “phá vỡ khoảng
cách để thu hút sự chú ý của người nghe”, có thể
sử dụng một số cách thức như đưa ra những con số
thống kê gây chú ý, hình ảnh, câu hỏi kích thích trí
tò mò hay đóng một tình huống, chiếu một đoạn
video liên quan đến nội dung bài giảng
Phần nội dung là phần quan trọng, chiếm
nhiều thời gian nhất. Trong phần này, nhóm cần
xây dựng dàn bài giảng, chi tiết hóa các hoạt
động cũng như thời gian triển khai (thời lượng
một buổi giảng thông thường kéo dài từ 60 - 120
phút), các biện pháp tương tác nào sẽ được áp
dụng. Ví dụ, khi xây dựng dự kiến các hoạt động
sẽ diễn ra khi giảng dạy pháp luật cộng đồng với
chủ đề “Phòng chống bạo lực gia đình” cần xây
dựng cụ thể các nội dung:
49
HOẠT ĐỘNG THỜI GIAN NỘI DUNG
Định hướng 5 phút Tiểu phẩm về một phụ nữ là nạn nhân của bạo lực
gia đình
Thuyết giảng 15 phút Lý do và sự cần thiết của việc nhận diện được đối
tượng tổn thương
Đóng kịch 15 phút Đóng vai về nạn nhân bị bạo lực gia đình ở mức độ
nhẹ và mức độ tăng dần, hậu quả xảy ra với họ
Thảo luận nhóm 15 phút Các nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình và các
phương pháp phòng chống
Tài liệu phát tay 5 phút Cung cấp cho người học thông tin liên lạc những cá
nhân, tổ chức về bạo hành gia đình và một số quy
định pháp luật về chủ đề
Đánh giá, tổng kết 5 phút Hỏi - đáp về nội dung bài học
Tổng 60 phút
Phần kết luận cần tóm tắt ngắn gọn, rõ ràng
những nội dung quan trọng đã giảng giúp người
nghe hệ thống kiến thức và nên làm phiếu điều
tra ý kiến người học sau mỗi buổi giảng nhằm rút
kinh nghiệm cho những buổi sau.
Bước 5: Duyệt bài giảng, đây là bước cuối
cùng trước khi tiến hành giảng dạy, trong quá
trình này các thành viên trong nhóm sẽ cùng
nhau sửa chữa, bổ sung những nội dung chi tiết
còn thiếu, lường trước những nội dung câu hỏi
có thể người học sẽ hỏi trong quá trình giảng dạy.
Để kiểm soát tốt nội dung bài giảng, ở giai đoạn
này giảng viên có thể yêu cầu sinh viên cung cấp
trước nội dung bài giảng và có thể góp ý và yêu
cầu thay đổi nếu không hợp lý.
Bước 6: Tổng kết và đánh giá. Sau buổi giảng
dạy pháp luật cộng đồng các thành viên trong lớp
sẽ nhận xét và góp ý trực tiếp về bài giảng dạy pháp
luật cộng đồng của nhóm. Hình thức đánh giá của
phương pháp này giảng viên sẽ dựa trên các tiêu chí.
STT Tiêu chí đánh giá Trọng số (điểm)
1 Nội dung bài giảng được chuẩn bị 2
2 Hiệu quả các phương pháp được áp dụng 2
3 Sự tương tác của người dạy và người học 2
4 Làm việc nhóm 2
5 Người học đánh giá 2
Tổng 10
4. Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp
giảng dạy pháp luật cộng đồng trong giảng
dạy thực hành luật
Thứ nhất, giảng dạy pháp luật cộng đồng là
một phương pháp được áp dụng vào giảng dạy tại
các cơ sở giảng dạy pháp luật cộng đồng thuộc
các trường đại học luật, qua các trung tâm, các
câu lạc bộ trợ giúp pháp lý và mang tính thực
tế cao nên đối tượng và địa điểm tổ chức rất đa
dạng không chỉ trong lớp học. Trên thực tế khi
vận dụng phương pháp giảng dạy pháp luật cộng
đồng vào môn học PBL 396 chỉ áp dụng mô hình
hóa, nên sinh viên không có đủ thời gian và điều
kiện tự tiến hành bước 1 (khảo sát điều tra nhu
50
cầu cộng đồng) và bước 2 (xác định đối tượng,
địa điểm giảng dạy). Giảng viên có thể cung cấp
chủ đề, đối tượng cụ thể cho mỗi nhóm để chuẩn
bị và yêu cầu tất cả người học trong lớp hóa thân
thành những đối tượng tham gia giảng dạy pháp
luật cộng đồng. Ví dụ, nhóm 1 được giao chủ
đề “Pháp luật về an toàn giao thông cho học
sinh Trường Tiểu học Nguyễn Du, thành phố Đà
Nẵng”. Trong buổi giảng của nhóm 1 các thành
viên trong lớp sẽ đóng vai học sinh tiểu học để
hòa mình vào bài giảng của nhóm 1 và tương tác
với các thành viên nhóm giảng dạy.
Thứ hai, để các nhóm hiểu và áp dụng phương
pháp giảng dạy pháp luật cộng đồng một cách hiệu
quả, giảng viên nên làm mẫu trước cho sinh viên
như cách triển khai các phương pháp tương tác,
thu hút người học; cách xây dựng một bài giảng
mẫu trên thực tế. Yêu cầu các nhóm trước khi tiến
hành giảng dạy phải cung cấp nội dung bài giảng
trước cho giảng viên để giảng viên góp ý và kiểm
soát về thời gian diễn ra hoạt động. Thông thường
sinh viên tham gia giảng dạy không kiểm soát
được thời lượng, sử dụng các phương pháp không
phù hợp với các đối tượng giảng dạy, thuyết trình
nhiều hơn thuyết giảng, đòi hỏi giảng viên phải có
sự can thiệp và điều chỉnh.
Thứ ba, tổ chức lớp học cần có sự thay đổi so
với lớp học truyền thống, để người học và người
giảng dạy có thể tương tác thuận tiện với nhau,
lớp học nên tổ chức thành hình tròn hoặc hình
chữ U, các hoạt động sẽ được tổ chức ở giữa lớp
học. Điều này sẽ làm cho người học dễ dàng quan
sát và người giảng dạy có thể nắm bắt lớp học dễ
dàng hơn, phá bỏ rào cản về khoảng cách giữa
những người học với nhau, giữa người dạy với
người học.
Thứ tư, bản chất của giảng dạy pháp luật cộng
đồng ngoài giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng qua
việc làm việc theo dự án, còn có ý nghĩa nhân
văn rất lớn cho các đối tượng yếu thế trong xã
hội được tiếp cận pháp luật. Mặc dù phương pháp
này chỉ áp dụng mô hình giảng dạy tại lớp, nhưng
giảng viên có thể tiến hành tổ chức giảng dạy
pháp luật cộng đồng thực tiễn tại các cộng đồng,
trường học hay trại giam ở cuối môn học, vừa
lấy điểm đánh giá học phần lại vừa có thể cho
sinh viên thực tiễn vận dụng phương pháp đã học
vào thực tế, giảm thiểu việc học thụ động truyền
thống tại lớp.
Việc áp dụng phương pháp giảng dạy pháp
luật cộng đồng vào trong học phần Tranh tài giải
pháp (PBL 396) có ý nghĩa rất lớn trong việc thay
đổi những phương pháp giảng dạy, phương pháp
học truyền thống trong môi trường đào tạo đại
học. Các phương pháp tương tác trong giảng dạy
pháp luật cộng đồng hoàn toàn có thể vận dụng
vào các môn học khác tạo nên một môi trường
giáo dục vui tươi, chủ động, không áp lực. Bởi
một phương pháp giảng dạy thành công không
chỉ đào tạo ra những sinh viên giỏi về kiến thức
mà còn phải có kỹ năng và thái độ tích cực, gắn
trong mối tương quan chặt chẽ với môi trường
cộng đồng, xã hội. Việc đưa phương pháp giảng
dạy pháp luật cộng đồng vào giảng dạy trong học
phần PBL 396 hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu này.
Tài liệu tham khảo
[1] Đoàn Đức Lương (2015) “Giáo trình thực hành nghề
nghiệp” Đại học Huế - Trường Đại học Luật, Nhà
xuất bản đại học Huế.
[2] FPT Polytechnic dịch thuật từ Education Week
(2012) “Project-Based Learning và Problem-Based
Learning là gì?” https://caodang.fpt.edu.vn/blog/
project-based-learning-va-problem-based-learning-
la-gi.html truy cập ngày 09/10/2019.
[3] Giáo dục nghề nghiệp “Kỹ thuật dạy học tích cực:
động não viết và công khai” https://gdnn.edu.vn/Day-
hoc-tich-cuc/ky-thuat-day-hoc-tich-cuc-dong-nao-
viet-va-cong-khai-37.html truy cập ngày 8/10/2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ap_dung_phuong_phap_giang_day_phap_luat_cong_dong_trong_gian.pdf