- Nâng cao nhận thức của Quốc hội,
của ĐBQH về trách nhiệm làm luật của
mình. Luật là một văn kiện quy định những
vấn đề quan trọng liên quan đến sự phát triển
của đất nước trên phạm vi toàn xã hội, trong
một thời gian khá dài. Trên thế giới đã có
những luật, bộ luật nổi tiếng không chỉ trong
nước mà còn ở phạm vi thế giới, tồn tại hàng
chục đến cả trăm năm. Do vậy, không thể
xem thường hoạt động này bởi nó liên quan
đến lợi ích của rất nhiều người. Quốc hội,
cũng như từng ĐBQH phải ý thức được làm
luật là nhiệm vụ, quyền hạn, song cũng là
vinh dự, trách nhiệm cao cả của mình trước
nhân dân đối với đất nước.
- Những chi phí về các nguồn lực cho
việc làm luật phải theo tinh thần tiết kiệm,
sao cho có thể chấp nhận được trong điều
kiện hiện nay của đất nước. Như trên đã
bàn, để làm được những luật, bộ luật có chất
lượng, có hiệu quả cao, Nhân dân không tiếc
tiền của, công sức, song không có nghĩa là
muốn chi bao nhiêu cũng được mà không
tiết kiệm. Theo chúng tôi, nếu thấy chưa cần
thiết về một luật nào đó thì không tiến hành
làm, còn đã thấy cần phải làm (do nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi) thì phải tập trung làm cho
xong. Không thể chấp nhận việc có những
dự án luật “treo” đến cả chục năm mà không
thông qua được trong khi cuộc sống đòi hỏi
phải có luật, những trường hợp như vậy
được xem là có sự lãng phí trong quá trình
làm luật.
Đành rằng, để việc làm luật của Quốc
hội có hiệu quả còn đòi hỏi hoạt động của
các bộ phận khác có liên quan đến dự án
luật như soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và
trình dự thảo luật cũng phải có hiệu quả. Tuy
nhiên, các bộ phận này cũng chỉ là những
bộ phận giúp cho hoạt động của Quốc hội,
ĐBQH được tốt hơn, người quyết định cuối
cùng vẫn phải là ĐBQH. Quốc hội, ĐBQH
phải chịu trách nhiệm về số lượng, chất
lượng, hiệu quả của các luật đã được thông
qua, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm
về tình trạng thiếu luật điều chỉnh những
quan hệ xã hội quan trọng.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về hiệu quả làm luật của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Có thể nói, hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất
của sự phát triển trong khi xây dựng nền kinh tế thị trường. Nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN đang được xây dựng và phát
triển ở nước ta có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác, trong
đó có hoạt động pháp luật. Vấn đề hiệu quả cần được vận dụng
thích hợp vào đánh giá hoạt động làm luật, sửa đổi luật của Quốc
hội và đánh giá những luật mà Quốc hội đã làm được. Có như vậy
thì trách nhiệm của Quốc hội, của từng đại biểu Quốc hội, của các
tổ chức, cá nhân tham gia vào việc làm luật sẽ được nâng cao hơn.
Nguyễn Minh Đoan*
* GS.TS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
It can be seen that socio-economic efficiency is the most important
criterion for the development when it is to persue a market economy.
The socialist-oriented market economy that is being established
and developed in our country, which has a great influence on
several activities, including legislative activities. The efficiency
criterion needs to be appropriately applied for the assessment of
legislative activity, the law amendments by the National Assembly
and also the assessment of the laws by the National Assembly.
Thus, the responsibilities of the National Assembly, the mandates
of National Assembly deputies and takeholders involving in the
law making will be raised.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: hiệu quả làm luật, Quốc hội,
đại biểu Quốc hội
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/07/2018
Biên tập : 23/07/2018
Duyệt bài : 30/07/2018
Article Infomation:
Keywords: law making efficiency;
National Assembly, National
Assembly deputies
Article History:
Received : 13 Jul. 2018
Edited : 23 Jul. 2018
Approved : 30 Jul. 2018
BÀN VỀ HIỆU QUẢ LÀM LUẬT CỦA QUỐC HỘI
1. Quan niệm về hiệu quả làm luật của
Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, một trong những nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội là “làm luật và sửa đổi
luật”. Thời gian gần đây, việc làm luật và
sửa đổi luật của Quốc hội đã đạt được những
kết quả, thành tựu rất to lớn không thể phủ
nhận. Điều này thể hiện ở số lượng các luật
được làm ngày càng nhiều, chất lượng các
luật ngày càng cao, các luật được làm đã
phát huy tốt vai trò của mình trong đời sống
xã hội. Tuy vậy, việc làm luật và sửa đổi luật
của Quốc hội vẫn còn có nhiều vấn đề cần
phải được bàn luận, trong đó có vấn đề chậm
làm luật và hiệu quả của một số quy phạm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 16(368) T8/2018
pháp luật mà Quốc hội đã làm ra chưa cao.
Lâu nay, trên các diễn đàn khoa học
luật, đã có nhiều công trình nghiên cứu, đánh
giá vấn đề hiệu quả của các quy phạm pháp
luật, các luật mà Quốc hội làm ra1, còn hiệu
quả làm luật của Quốc hội chưa được đặt ra.
Khi tổng kết đánh giá hoạt động làm luật,
chúng ta thường nói tới số lượng và chất
lượng các luật mà Quốc hội đã làm trong
nhiệm kỳ hoặc trong một thời gian nhất
định. Chúng tôi cho rằng, ngoài vấn đề số
lượng và chất lượng của luật, còn cần phải
nói tới hiệu quả của các quy phạm pháp luật
và cả hiệu quả làm luật của Quốc hội.
Vậy nên hiểu thế nào về hiệu quả làm
luật của Quốc hội? Theo lý thuyết, hiệu quả
là một đại lượng so sánh giữa kết quả thực tế
đạt được với kết quả (mục đích) mong muốn
đạt được với mức độ những chi phí về các
nguồn lực để đạt được kết quả đó. Do vậy,
hiệu quả làm luật của Quốc hội sẽ là kết quả
so sánh giữa kết quả mong muốn (mục đích)
khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn làm luật,
sửa đổi luật của Quốc hội với kết quả trên
thực tế các luật (số lượng, chất lượng các
luật) mà Quốc hội đã làm được với mức độ
những chi phí về các nguồn lực (số người
tham gia, thời gian thực hiện, chi phí về vật
chất và các chi phí khác cho việc làm luật)
trong khoảng thời gian nhất định. Với cách
tiếp cận trên cho thấy, hiệu quả làm luật của
Quốc hội không chỉ là kết quả về số lượng,
về chất lượng các luật mà Quốc hội đã làm
được mà còn phải quan tâm đến tất cả những
chi phí và thời gian để đạt được kết quả đó
trên thực tế.
Để đánh giá hiệu quả việc làm luật
của Quốc hội cần phải xác định được những
tiêu chí cơ bản sau: kết quả (mục đích)
mong muốn đạt được khi Quốc hội thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn làm luật, sửa đổi
luật; kết quả thực tế các luật mà Quốc hội đã
làm được, sửa đổi được; những chi phí về
các nguồn lực cho việc đạt được kết quả làm
1 Xem, Nguyễn Minh Đoan, Hiệu quả của pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2012, tr. 9-36.
luật, sửa đổi luật trên thực tế.
Hiệu quả làm luật, sửa đổi luật của
Quốc hội có thể được đánh giá với những
khoảng thời gian nhất định như theo nhiệm
kỳ, theo giai đoạn được đánh dấu bằng
những sự kiện có tính chất bước ngoặt trong
sự phát triển của đất nước.
- Kết quả (mục đích) mong muốn đạt
được của Quốc hội khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn làm luật, sửa đổi luật. Kết quả
mong muốn (gọi tắt là mục đích) khi thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn làm luật, sửa đổi
luật của Quốc hội thể hiện ở dự định, kế
hoạch mà Quốc hội đề ra cho kỳ họp hoặc
cho nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội là tạo
ra được những luật, bộ luật nào đó có chất
lượng cao, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu,
đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, việc quản lý xã hội bằng pháp luật ở
mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Mục
đích (kết quả) mong muốn của Quốc hội
phải thống nhất với mục đích (kết quả) mong
muốn chung của đất nước (của Đảng, của tất
cả các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã
hội, của nhân dân). Điều này cũng thể hiện
sự thống nhất ý chí giữa Đảng, Nhà nước và
Nhân dân trong việc ban hành pháp luật để
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Khi xác định
mục đích làm luật cũng cần phải xác định cả
những yêu cầu (mức độ phải đạt được khi
thực hiện mục đích) đối với những luật và bộ
luật được làm ra. Tuy nhiên, đôi khi mức độ
đạt được cũng là mục đích cụ thể nên trong
những trường hợp đó khó phân biệt được
mục đích với yêu cầu của việc làm luật.
Những mục đích, yêu cầu đề ra khi làm
luật có thể được định lượng, nhưng cũng có
thể chỉ được định tính và được thể hiện ở
nhiều cấp độ khác nhau như đối với cả quá
trình làm luật của Quốc hội nói chung (làm
được hệ thống các văn bản luật điều chỉnh có
hiệu quả các quan hệ xã hội nhằm bảo đảm
cho các quan hệ đó có trật tự và phát triển
theo hướng mong muốn trên quy mô toàn xã
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 16(368) T8/2018
hội, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, tập
thể và cá nhân, duy trì sự phát triển ổn định
của cả xã hội, thực hiện sự công bằng xã hội
và đưa lại hạnh phúc cho con người); cũng
có thể là mục đích, yêu cầu được đề ra đối
với từng nhiệm kỳ, từng kỳ họp, phiên họp
của Quốc hội (thảo luận, xem xét sơ bộ hoặc
thông qua được một số văn bản luật nhất
định). Tuy nhiên, mục đích, yêu cầu được
đề ra cho mỗi phiên họp, kỳ họp, nhiệm kỳ
của Quốc hội về thực chất chỉ là sự chi tiết
hoá, cụ thể hoá mục đích chung, xuất phát từ
mục đích chung của việc làm luật của Quốc
hội. Việc thực hiện tốt những mục đích, yêu
cầu của từng phiên họp, kỳ họp sẽ là điều
kiện để đạt được mục đích ở mức độ cao
hơn của cả nhiệm kỳ Quốc hội của công tác
làm luật của Quốc hội nói chung. Do vậy,
muốn đạt được mục đích chung của Quốc
hội trong công tác làm luật thì phải thực
hiện được những mục đích của từng nhiệm
kỳ, từng kỳ họp, từng phiên họp cụ thể. Một
phiên họp, một kỳ họp hay một nhiệm kỳ
làm luật không có hiệu quả hoặc hiệu quả
thấp có thể sẽ làm giảm tính hiệu quả làm
luật của Quốc hội nói chung. Mức độ ảnh
hưởng là tùy theo mức độ quan trọng, phạm
vi ảnh hưởng của luật đó đối với đời sống
Nhà nước và xã hội.
Khi tìm hiểu mục đích của việc làm
luật cần phải quan tâm tới những điều kiện
bảo đảm cho việc thực hiện chúng. Mục
đích đề ra cho việc làm luật của Quốc hội
cần phải phù hợp với các điều kiện thực tế
như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... mà
trong đó việc làm luật được thực hiện. Mục
đích đề ra cho việc làm luật của Quốc hội
chỉ có thể thực hiện được khi các điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất
nước đủ khả năng để bảo đảm cho việc làm
luật được thực hiện trên thực tế.
Xác định mục đích, yêu cầu của việc
làm luật là cơ sở để đối chiếu, so sánh với
các kết quả thực tế đạt được trong việc làm
luật của Quốc hội về sự phù hợp và mức độ
phù hợp với mục đích đề ra.
- Kết quả thực tế các luật mà Quốc
hội đã thông qua. Kết quả thực tế đạt được
trong việc làm luật, sửa đổi luật của Quốc
hội thể hiện ở số lượng luật mà Quốc hội đã
thông qua theo dự định và chất lượng của
luật cao hay thấp. Khi xem xét những kết
quả đó, cần chú ý tới số lượng, chất lượng
của quy định hay văn bản luật, tính ổn định
(văn bản luật đó tồn tại được bao nhiêu năm
cho đến khi bị sửa đổi hoặc hủy bỏ), mức độ
khả thi và hiệu quả của chúng trong đời sống
xã hội. Luật được xem là có hiệu quả phải là
luật thúc đẩy, tạo điều kiện cho những mục
tiêu phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội của đất nước, phải góp phần tạo ra sự
tiến bộ, công bằng xã hội, đưa lại cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, được xã hội
đón nhận và ủng hộ.
Khi xem xét những kết quả thực tế đạt
được trong hoạt động lập pháp của Quốc
hội, cần tính tới cả những tác dụng tích cực
và cả những ảnh hưởng không tích cực nếu
có của hoạt động đó và của cả các quy định
của văn bản luật mà Quốc hội đã thông qua.
Một số quy định pháp luật, văn bản luật có
thể vừa có những tác dụng tích cực vừa có
những tác dụng không tích cực nhất định.
Chẳng hạn, đối với Dự thảo Luật Đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt, mặt tích cực
của nó là có thể thu hút được vốn, tranh thủ
được công nghệ tiên tiến của nước ngoài, tạo
ra nhiều việc làm cho người lao động Việt
Nam, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh
tế của đất nước... song Dự thảo Luật cũng có
thể sẽ làm cho vấn đề bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội khó khăn, phức
tạp hơn. Vì vậy, khi đánh giá những lợi ích
mà quy định hay văn bản luật được làm ra
mang lại phải tính đến sự tương quan giữa
cái cơ bản (những lợi ích) đạt được với cái
không cơ bản (những hạn chế, tiêu cực có
thể phát sinh) từ những quy định của luật và
việc thực hiện chúng trên thực tế.
Thông thường, khi làm luật, Quốc hội
cần phải dự liệu trước được những tác động
tích cực cũng như những tác động tiêu cực
(nếu có) sẽ diễn ra đối với các quan hệ xã hội
do sự tác động của quy định hay văn bản luật
(RIA - đánh giá dự báo tác động của luật)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 16(368) T8/2018
để cân nhắc xem, nên hay không nên thông
qua quy định hay văn bản đó. Tuy nhiên,
trên thực tế, có những trường hợp Quốc hội
đã không dự liệu được, không lường trước
được hết những biến đổi có thể có của các
quan hệ xã hội, dẫn tới những kết quả không
ngờ khi thông qua quy định hay văn bản luật
đó. Những biến đổi không ngờ đó có thể tốt
hơn, nhiều hơn so với kết quả dự định đề ra
ban đầu, nhưng cũng có thể xấu hơn, ít hơn
so với dự liệu ban đầu và thậm chí có trường
hợp những biến đổi của các quan hệ xã hội
trong thực tế còn trái ngược với dự tính ban
đầu của nhà làm luật.
Những kết quả do sự tác động của
luật luôn thay đổi theo không gian, nó có
thể tác động tốt ở phạm vi không gian này
của đất nước nhưng lại tác động một cách
hạn chế ở phạm vi không gian khác. Sự
khác nhau đó phụ thuộc vào hoàn cảnh,
điều kiện, đặc điểm và nhiều yếu tố khác
của từng vùng lãnh thổ mà quy định của
luật tác động. Thông thường, theo thời
gian, tác dụng của luật sẽ giảm dần cùng
với những thay đổi của các quan hệ xã hội.
Khi tác dụng hữu ích của văn bản, của quy
định giảm đi đến một mức độ nào đó thì nó
cần phải được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ
bỏ cho phù hợp với sự thay đổi của đời
sống xã hội.
- Những chi phí về vật chất và những
chi phí khác cho việc đạt được kết quả làm
luật, sửa đổi luật trên thực tế. Mức độ chi
phí các nguồn lực như số lượng người tham
gia lên kế hoạch, soạn thảo, khảo sát trong và
ngoài nước, thẩm định, thẩm tra, thảo luận,
thông qua, công bố... Ngoài ra, còn có thể
có cả chi phí cho việc tham gia đóng góp ý
kiến, tham vấn, phản biện của các tổ chức và
cá nhân, chi phí trưng cầu ý dân (nếu có)
Những chi phí về các nguồn lực cho
việc đạt được các kết quả thực tế trong quá
trình làm luật và điều chỉnh pháp luật cần
phải được tính trong tổng thể của Nhà nước,
các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã
hội, của các tập thể và của cá nhân công dân
hoặc của các chủ thể pháp luật khác. Thông
thường, bên cạnh những ưu điểm, những lợi
ích mà các quy định của luật mang lại, chúng
còn có thể có những hạn chế, thậm chí, có
thể gây ra những thiệt hại cho một số chủ thể
nhất định. Vì thế, khi xem xét những lợi ích
mà việc làm luật mang lại và những phí tổn
mà nó gây ra đòi hỏi phải có cái nhìn tổng thể
giữa lợi ích cũng như phí tổn của Nhà nước,
xã hội với lợi ích và phí tổn của tổ chức, cá
nhân sao cho có thể chấp nhận được, thể hiện
tinh thần tiết kiệm ở tất cả các giai đoạn, quy
trình của quá trình làm luật. Tuy nhiên, tiết
kiệm là không lãng phí, không chi phí bừa
bãi chứ không có nghĩa là cắt giảm những
chi phí quan trọng, cần thiết cho hoạt động
này. Chẳng hạn, để làm được những luật có
chất lượng, hiệu quả liên quan đến an ninh
quốc gia hay tính mạng, số phận con người
thì tốn bao nhiêu cũng cần phải chi. Đối với
việc làm luật, tiêu chí của hiệu quả phải là
làm ra được những luật hoàn thiện có chất
lượng cao chứ không thể chỉ lấy phí tổn vật
chất đã được sử dụng để đánh giá. Không vì
lý do tiền bạc, lý do thời gian mà chấp nhận
thông qua những luật có chất lượng thấp để
bắt xã hội phải trả giá đắt khi nó được thực
hiện. Trong mọi trường hợp, khi ban hành,
sửa đổi hay hủy bỏ một quy định nào đó của
luật phải quán triệt nguyên tắc là việc ban
hành, sửa đổi hay hủy bỏ quy định đó phải
mang lại những lợi ích lớn hơn, lâu dài hơn
so với những thiệt hại có thể có trước mắt và
tạm thời. Việc hạch toán trong quá trình làm
luật, quá trình điều chỉnh pháp luật còn cho
phép dự báo được tính khả thi của luật trong
thực tế. Theo đó, Quốc hội sẽ dự liệu nên hay
không nên thông qua văn bản hay quy định
đó hoặc sẽ lựa chọn thời điểm (thời gian)
thông qua khi nào thì phù hợp nhất, thuận lợi
nhất để đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, hoạt động lập pháp của
Quốc hội được xem là hiệu quả khi các kết
quả (mục đích) mong muốn được hiện thực
hóa bằng số lượng, chất lượng các luật mà
Quốc hội đã thông qua với chi phí về các
nguồn lực ở mức thấp trong thời gian dự
định. Hiệu quả cao hay thấp là phụ thuộc
vào số lượng, chất lượng các luật đã được
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 16(368) T8/2018
thông qua, những chi phí và thời gian dành
cho việc làm ra hay sửa đổi các luật đó. Nếu
số lượng các luật được thông qua quá ít so
với dự định thì hiệu quả không cao. Nếu số
lượng luật được thông qua đúng như dự định
nhưng chất lượng của chúng không cao, có
nhiều sai sót, không thể đi vào cuộc sống,
không phát huy được vai trò trong đời sống
xã hội thì hiệu quả làm luật cũng không cao.
Nếu số lượng và chất lượng các luật được
thông qua đều đạt như dự định nhưng những
chi phí về các nguồn lực quá nhiều hoặc thời
gian làm quá lâu thì hiệu quả làm luật
cũng không cao.
Từ phân tích trên cho thấy, nếu trên
thực tế Quốc hội không làm đủ luật, hoặc
làm luật có chất lượng thấp thì Quốc hội
đã không hoàn thành nhiệm vụ đối với Nhà
nước với tư cách là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, đồng thời Quốc hội cũng có
lỗi với Nhân dân với tư cách là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân. Tuy nhiên, cũng
phải thấy rằng, hoạt động lập pháp của Quốc
hội còn phụ thuộc vào hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân và rất nhiều những
yếu tố, khác như: chất lượng của dự thảo
luật được trình Quốc hội; năng lực, trình độ,
trách nhiệm của đại biểu Quốc hội (ĐBQH);
phương thức, quy trình xem xét, thông qua
dự thảo luật; các điều kiện vật chất, kỹ thuật
phục vụ hoạt động của Quốc hội; điều kiện
làm việc, thời gian, công sức, trí tuệ thực tế
mà đại biểu Quốc hội dành cho hoạt động
lập pháp; việc tổ chức tham vấn chuyên gia,
lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân, nhân dân
trong quá trình nghiên cứu, xem xét dự thảo
luật; chất lượng thẩm định, thẩm tra của các
cơ quan, bộ phận được giao trách nhiệm
tất cả các khâu, các công đoạn trên đều đòi
hỏi phải được tổ chức, được tiến hành có
chất lượng, có hiệu quả thì mới làm cho hoạt
động lập pháp của Quốc hội có hiệu quả và
các luật làm ra mới có hiệu quả.
Trong một xã hội dân chủ, hoạt động
lập pháp của Quốc hội không thể thiếu được
những cuộc tranh luận, những ý kiến trái
chiều về một số vấn đề thuộc nội dung của
luật. Chẳng hạn, khi thảo luận về dự thảo
Luật Tố cáo, một số ý kiến cho rằng, ngoài
hình thức tố cáo bằng văn bản hoặc trực
tiếp thì nên mở rộng hình thức tố cáo bằng
tin nhắn qua điện thoại, bằng thông báo
qua điện thoại, fax số khác lại cho rằng,
không nên mở rộng vì như vậy có thể dẫn
đến một số người lợi dụng tố cáo có tính
chất vu khống, sai sự thật Trong trường
hợp này, những người ủng hộ sẽ tập trung
nêu cái hay, cái được của phương án, còn
những người phản đối thường tập trung nêu
cái hạn chế, cái chưa được của phương án.
Đấy là tinh thần dân chủ của công tác lập
pháp rất đáng phát huy ở Quốc hội nước ta
hiện nay. Tuy nhiên, nếu so sánh cái được
và cái mất khi mở rộng hoặc không mở rộng
hình thức tố cáo thì việc mở rộng hình thức
tố cáo sẽ được nhiều hơn là mất. Bởi lẽ, nếu
mở rộng hình thức tố cáo thì sẽ giúp chủ thể
tố cáo thuận lợi, nhanh chóng, đỡ ngại khi
gửi thông tin đến chủ thể tiếp nhận và giải
quyết. Vì vậy, những cơ quan, tổ chức, cá
nhân có việc làm trái pháp luật sẽ bị tố cáo
nhiều hơn, đội ngũ cán bộ sẽ trong sạch hơn,
còn người tố cáo có thể sẽ hạn chế bị trả thù.
Còn cái hại ở đây là có thể sẽ có người mạo
danh lợi dụng tố cáo để vu khống, vu cáo
làm hại người khác, việc giải quyết tố cáo sẽ
vất vả, khó khăn phức tạp hơn. Tuy nhiên,
việc lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, vu
cáo làm hại người khác đã bị Hiến pháp và
pháp luật nghiêm cấm và trừng phạt. Như
vậy, nếu áp dụng lý thuyết hiệu quả của các
quy phạm pháp luật vào hoạt động làm luật
trong trường hợp này sẽ giúp ĐBQH lựa
chọn phương án dễ hơn.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả làm
luật của Quốc hội
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả làm luật của Quốc hội, do vậy, cũng có
nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả làm
luật của Quốc hội. Chúng tôi xin nêu ra một
số giải pháp quan trọng dưới đây:
- Cần lựa chọn được những ĐBQH
thực sự có tài, có đức, có đủ năng lực và điều
kiện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại
biểu. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 16(368) T8/2018
của Nhân dân thì đại biểu phải được chọn từ
các địa phương, các tầng lớp Nhân dân trong
cả nước, song Quốc hội đồng thời là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất để lập hiến, lập
pháp và quyết định những vấn đề quan trọng
nhất của đất nước thì ĐBQH phải là những
người giỏi nhất, có đức độ nhất từ những địa
phương, những tầng lớp nhân dân mà họ là
đại diện. Có như vậy, họ mới đủ năng lực và
phẩm chất để thay mặt Nhân dân quyết nghị
những vấn đề liên quan đến sự phát triển
của đất nước. Do vậy, theo chúng tôi, việc
giới thiệu ứng viên vào ĐBQH phải thật cẩn
thận, bởi chúng ta vẫn nói rằng, cử tri phải
thật sáng suốt khi lựa chọn, song trên thực
tế cử tri của chúng ta không có thông tin
đầy đủ về các ứng cử viên nên họ thường
bị nhầm khi lựa chọn. Bên cạnh đó, đại biểu
Quốc hội cần phải được bồi dưỡng những
kiến thức cần thiết về pháp luật và kỹ năng
đại biểu để có đủ năng lực tham gia làm luật,
sửa đổi luật, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
- Nâng cao nhận thức của Quốc hội,
của ĐBQH về trách nhiệm làm luật của
mình. Luật là một văn kiện quy định những
vấn đề quan trọng liên quan đến sự phát triển
của đất nước trên phạm vi toàn xã hội, trong
một thời gian khá dài. Trên thế giới đã có
những luật, bộ luật nổi tiếng không chỉ trong
nước mà còn ở phạm vi thế giới, tồn tại hàng
chục đến cả trăm năm. Do vậy, không thể
xem thường hoạt động này bởi nó liên quan
đến lợi ích của rất nhiều người. Quốc hội,
cũng như từng ĐBQH phải ý thức được làm
luật là nhiệm vụ, quyền hạn, song cũng là
vinh dự, trách nhiệm cao cả của mình trước
nhân dân đối với đất nước.
- Những chi phí về các nguồn lực cho
việc làm luật phải theo tinh thần tiết kiệm,
sao cho có thể chấp nhận được trong điều
kiện hiện nay của đất nước. Như trên đã
bàn, để làm được những luật, bộ luật có chất
lượng, có hiệu quả cao, Nhân dân không tiếc
tiền của, công sức, song không có nghĩa là
muốn chi bao nhiêu cũng được mà không
tiết kiệm. Theo chúng tôi, nếu thấy chưa cần
thiết về một luật nào đó thì không tiến hành
làm, còn đã thấy cần phải làm (do nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi) thì phải tập trung làm cho
xong. Không thể chấp nhận việc có những
dự án luật “treo” đến cả chục năm mà không
thông qua được trong khi cuộc sống đòi hỏi
phải có luật, những trường hợp như vậy
được xem là có sự lãng phí trong quá trình
làm luật.
Đành rằng, để việc làm luật của Quốc
hội có hiệu quả còn đòi hỏi hoạt động của
các bộ phận khác có liên quan đến dự án
luật như soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và
trình dự thảo luật cũng phải có hiệu quả. Tuy
nhiên, các bộ phận này cũng chỉ là những
bộ phận giúp cho hoạt động của Quốc hội,
ĐBQH được tốt hơn, người quyết định cuối
cùng vẫn phải là ĐBQH. Quốc hội, ĐBQH
phải chịu trách nhiệm về số lượng, chất
lượng, hiệu quả của các luật đã được thông
qua, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm
về tình trạng thiếu luật điều chỉnh những
quan hệ xã hội quan trọng.
- Cần tổng kết, đánh giá dưới phương
diện hiệu quả, rút kinh nghiệm về hoạt động
làm luật đối với cả Quốc hội và từng ĐBQH.
Đánh giá hoạt động lập pháp của Quốc hội
không nên dừng lại là đã thông qua được
bao nhiêu luật trong nhiệm kỳ, mà còn phải
đánh giá cả chất lượng của các luật đã được
thông qua, hiệu quả thực tiễn của chúng sau
những khoảng thời gian thực hiện nhất định.
Tổng kết đánh giá cả những chi phí cho việc
làm các luật đó mà còn phải đánh giá cả tinh
thần thái độ, kết quả hoạt động của các bộ
phận, cơ quan, từng ĐBQH đã tham gia làm
luật đó như thế nào. Những thông tin đó nên
được công bố để cử tri biết. Cử tri có biết
được đại biểu của họ hoạt động như thế nào,
đại biểu có tham gia hay không tham gia tích
cực vào các hoạt động làm luật của Quốc
hội, trên cơ sở đó mới có thể bỏ phiếu miễn
nhiệm (nếu cơ quan có thẩm quyền tổ chức
bỏ phiếu miễn nhiệm đối với đại biểu) hoặc
bỏ phiếu cho đại biểu tái cử ở những lần bầu
cử sau■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 16(368) T8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_hieu_qua_lam_luat_cua_quoc_hoi.pdf