The South and South-central Vietnam continental shelf is a region with the diversely
complicated conditions of geology. In spite of over the past many years of investigation, the fault systems in
many places have remained poorly understood.
In this paper, the author has studied and applied some techniques for interpretation of the newest gravity
data and others, which are frequency filtering, gravity horizontal gradient and maximum horizontal gradient,
in order to determine plainly the main faults systems in the South and South-central Vietnam continental shelf
and also clear up whether or not as well as the location of the fault named ‘Thuan Hai - Minh Hai'.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 659 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bằng chứng trọng lực về đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải và hệ thống đứt gãy trên thềm lục địa nam Trung Bộ và nam Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
234
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 234-240
ISSN: 1859-3097
BẰNG CHỨNG TRỌNG LỰC VỀ ĐỨT GÃY THUẬN HẢI -
MINH HẢI VÀ HỆ THỐNG ĐỨT GÃY TRÊN THỀM LỤC ĐỊA
NAM TRUNG BỘ VÀ NAM VIỆT NAM
Trần Tuấn Dũng
Viện Địa chất và Địa vật lý biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
E-mail: trantuandung@yahoo.com
Ngày nhận bài: 4-1-2013
TÓM TẮT: Thềm lục địa phía Nam và Nam Trung Bộ Việt Nam là khu vực có các điều kiện địa chất đa
dạng và phức tạp. Mặc dù đã được điều tra khảo sát trong nhiều năm qua, nhưng đặc điểm hệ thống các đứt
gãy vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu một cách chi tiết và làm sáng tỏ hơn.
Trong nghiên cứu này, đã áp dụng phương pháp, mô hình mới minh giải nguồn tài liệu trọng lực hiện có
trong khu vực nghiên cứu. Phương pháp lọc trường theo tần số, phương pháp gradient ngang, gradient ngang
trọng lực cực đại được sử dụng để xác định vị trí cũng như là đặc điểm cấu trúc của hệ thống các đứt gãy
chính trên thềm lục địa Nam và Nam Trung Bộ Việt Nam. Đồng thời tìm ra bằng chứng trọng lực làm sáng tỏ
vấn đề có tồn tại hay không tồn tại đứt gãy được gọi là “Thuận Hải - Minh Hải”.
Từ khóa: Nam và Nam Trung Bộ, Đứt gãy Thuận Hải-Minh Hải, Trọng lực
GIỚI THIỆU CHUNG
Hình thái cấu trúc hệ thống các đứt gãy, các đới
nâng hạ trong móng trên khu vực Biển Đông nói
chung và trên thềm lục địa Nam - Đông Nam nói
riêng cho đến nay vẫn là một vấn đề đã và đang
được quan tâm nghiên cứu bởi các nhà khoa học
trong và ngoài nước. Các kết quả nghiên cứu đạt
được là hết sức đa dạng và phong phú, chúng được
đề cập đến trong một loạt công trình nghiên cứu của
Bùi Công Quế, Nguyễn Đình Xuyên, Cao Đình
Triều, Phùng Văn Phách, Nguyễn Trọng Tín, Trần
Tuấn Dũng. Ngoài ra, còn có các công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học nước ngoài, tiêu biểu có
thể kể đến như Hayes và Taylor, P. Tapponnier, A.
Briais và nnk, Kulinic R.G, Wujimin, Lieng Dehua,
Rangin, Watkins, Hinz và n.n.k, Braitenberg. C., [2,
3, 4, 7, 9, 11, 13].
Đứt gãy ‘Thuận Hải - Minh Hải’ (hay là hệ
thống đứt gãy) đã được đề cập đến trong các nghiên
cứu từ thế kỷ trước (trong các báo cáo, các bản
đồ). Theo kết quả từ một số nghiên cứu trước đây
thì đứt gãy ‘Thuận Hải - Minh Hải’ đóng vai trò là
ranh giới cấu trúc. Nó có chiều dài lớn trên 600km
và khống chế làm đổi hướng sự phát triển của hệ
thống đứt gãy Tây Bắc - Đông Nam từ đất liền kéo
dài ra thềm lục địa. Người ta cho rằng đó là một đứt
gãy trượt bằng thuận [4, 6, 8] (xem hình 1).
Ngày nay với nguồn số liệu địa vật lý thăm dò
trực tiếp trên biển, cùng với nguồn tài liệu đo đạc từ
vệ tinh, thì việc minh giải kết hợp giữa tài liệu trọng
lực, tài liệu địa chấn bằng các phương pháp hiện đại
và công nghệ mới sẽ cho phép xác định được các
tham số hình học của đứt gãy, đặc điểm đới đứt gãy
cũng như các đới nâng hạ trong móng trước Kainozoi
một cách đầy đủ với mức độ chính xác cao.
Bằng chứng trọng lực về đứt gãy Thuận Hải
235
Hình 1. Sơ đồ vị trí đứt gãy ‘Thuận Hải - Minh Hải’ [6]
Nguồn tài liệu sử dụng
Trong nghiên cứu này, tài liệu trọng lực, tài liệu
địa chấn được sử dụng chủ yếu là từ các chuyến đo
trực tiếp trên biển của các công ty Địa vật lý Nga và
Việt Nam trong những năm 90 thế kỷ trước, các
nguồn số liệu đo của các nước Pháp, Đức, Mỹ, Nhật
và Việt Nam trong những năm tiếp theo. Các đề tài
cấp nhà nước thuộc chương trình nghiên cứu biển
do Viện Địa chất và Địa vật lý biển chủ trì hoặc kết
hợp cùng với Viện Dầu khí trong những năm qua
như 48B-III-2 (1986-1990), KT-03-02 (1991-1995),
KHCN-06-04 (1996-1998), KHCN-06-12 (1999-
2000), KC-09-02 (2001-2005), KC.09-25/06-10
(2008-2010), cũng đã thu thập, xử lý và bổ sung
thêm những kết quả nghiên cứu mới rất có giá trị [9,
11, 13].
Nghiên cứu còn sử dụng nguồn số liệu đo đạc
chủ động từ vệ tinh kết hợp với đo đạc trực tiếp trên
biển. Trong những năm qua, các nhà khoa học Mỹ đã
xây dựng được mạng lưới số liệu dị thường trọng lực
mới nhất với độ chi tiết đạt đến 1ˊ × 1ˊ (Sandwell and
Smith V21.1), cũng như độ sâu đáy biển (2,5 ×
2,5km). Có thể nói, đó là nguồn số liệu địa vật lý có
độ phân giải đồng đều nhất, độ bao phủ rộng, với một
mức độ chính xác phù hợp và đang được khai thác sử
dụng một cách hiệu quả cho với các nghiên cứu cấu
trúc địa chất trong vùng Biển Đông Việt Nam [10,
13]. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng nguồn số
liệu dị thường trọng lực Bughe đầy đủ từ công trình
nghiên cứu [13] (hình 2).
Hình 2. Dị thường trọng lực Bughe
Trần Tuấn Dũng
236
CÁC PHƯƠNG PHÁP ÁP DỤNG
Lọc trường tần số thấp
Phương pháp lọc trường tần số thấp nhằm tách
bỏ hiệu ứng trọng lực gây bởi các lớp trầm tích ra
khỏi trường tổng để xác định các ranh giới mật độ,
các cấu trúc nâng hạ cũng như là các đứt gãy phát
triển ở các chiều sâu lớn hơn trong vỏ Trái đất.
Dị thường trọng lực tần thấp được tính cho toàn
bộ khu vực với bộ lọc Gauss [7]:
1( , ) , exp2(2 )g x y g p i x y d dx y x y x yLPF cutof
Lọc trường được thực hiện với các bước sóng
khác nhau, lần lượt là 25, 50, 75 và 100km. Sau
khi đã lọc trường tần số thấp (xem hình 2) thì dị
thường trọng lực tương ứng với các bước sóng
nói trên sẽ được sử dụng để tính toán xác định
gradient ngang và gradient trọng lực cực đại (cả
về độ lớn và vector) [1, 11].
Hình 3. Dị thường trọng lực tần thấp: a> lọc trường trường với bước sóng =50km;
b> lọc trường trường với bước sóng =100km
Gradient ngang trọng lực cực đại
Ở đây, trường dị thường trọng lực sau khi lọc ở
các bước sóng khác nhau = 25, 50, 75 và 100km
được sử dụng để tính gradient ngang và gradient
ngang trọng lực cực đại tương ứng.
Quá trình tính được tiến hành theo các bước:
a. Bước 1, tính gradient ngang trọng lực từ dị
thường ở các mức lọc trường nêu trên dựa theo
phương trình lựa chọn dọc theo hướng x và y của
mạng lưới số liệu [1, 11]:
2 2
( , ) ( , )( , ) g x y g x yH g x y
x y
g(x,y) là dị thường trọng lực.
b. Bước 2, Xác định gradient ngang trọng lực
cực đại [1, 11].
Dị thường gradient ngang cực đại trọng lực
được tính dựa trên dị thường gradient ngang đã tính
theo bước 1. Vị trí cực đại của các giá trị gradient
ngang trên lưới số liệu được tiến hành bằng cách so
sánh giá trị ,H g i j (có tọa độ (i,j)) với 8 điểm
xung quanh theo các bất đẳng thức sau [1, 11]:
1, , 1,H g H g H gi j i j i j ;
, 1 , , 1H g H g H gi j i j i j ;
1, 1 , 1, 1H g H g H gi j i j i j ;
1, 1 , 1, 1H g H g H gi j i j i j ;
Tại một điểm bất kỳ trên mạng lưới số liệu, số
lần các bất đẳng thức trên được thỏa mãn tối đa là
N=4, tối thiểu là N=0. Theo một số nghiên cứu thì
Bằng chứng trọng lực về đứt gãy Thuận Hải
237
để xác định được vị trí cũng như độ lớn gradient cực
đại một cách đầy đủ thì N ≥2 [1, 5, 11].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn N ≥2,
khi đó thì vị trí cũng như giá trị cực đại của
,H g i j sẽ được xác định bằng một đa thức bậc 2:
2
bdX Max a
2 ,G aX bX H gMax Max Max i j
Ở đây, d là tỷ lệ mạng lưới số liệu; a, b là các hệ
số khai triển của đa thức được xác định dựa trên các
giá trị trọng lực của mạng lưới số liệu [1, 11].
c. Bước3, xác định phương vị của vector
gradient ngang trọng lực cực đại
Góc phương vị của véc tơ gradient ngang cực
đại được xác định theo công thức:
( , )
( , )
d g x y
dyarctg
d g x y
dx
Gradient trọng lực cực đại phản ánh rõ nét các
ranh giới về mật độ đất đá - với một góc độ nào đó
chúng ta có thể gọi chúng là hệ thống các đứt gãy.
Các đứt gãy thường được biểu thị bằng các dải
vector gradient ngang cực đại kéo dài kế tiếp nhau
và cùng hướng. Các khối có mật độ cao hơn xung
quanh thường được thể hiện bằng các dải vector cực
đại khép kín, hướng ra bên ngoài trung tâm của khối
[1, 5, 11].
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hệ thống đứt gãy trên thềm lục địa Nam - Nam
Trung Bộ
Vị trí, độ lớn và phương vị của vector gradient
ngang trọng lực cực đại của dị thường trọng lực sau
lọc trường với các bước sóng =25, 50, 75 và
100km được tính toán, biểu diễn tương ứng trên các
hình 4, 5, 6, 7.
Trên hình 4, 5 là bức tranh phân bố gradient
ngang và vector gradient ngang cực đại trường trọng
lực sau khi lọc với bước sóng =25 và 50km. Với
phương diện nghiên cứu đứt gãy theo tài liệu trọng
lực thì đó cũng chính là phân bố của hệ thống các
đứt gãy, của các ranh giới mật độ. Hệ thống các đứt
gãy được thể hiện bằng vị trí và hướng của các dải
vector gradient cực đại. Mặc dù phân bố của vector
gradient cực đại còn khá là phức tạp, nhưng cũng đã
thể hiện rõ được các đứt gãy ở tầng nông cũng như
là các ranh giới về mật độ đất đá trong khu vực. Các
đứt gãy được biểu thị bằng các dải vector gradient
ngang cực đại kéo dài kế tiếp nhau và cùng hướng,
đặc biệt rõ nét là các đứt gãy mang tính khu vực.
Hình 4. Gradient ngang và vector gradient ngang
trọng lực cực đại (lọc trường bước sóng =25km)
Hình 5. Gradient ngang và vector gradient ngang
trọng lực cực đại (lọc trường bước sóng =50km).
Trên hình 6, 7 là phân bố gradient ngang và
vector gradient ngang trọng lực cực đại sau khi lọc
với bước sóng =75 và 100km. Với những bước
sóng lọc trường này thì chúng ta chỉ còn thấy các
đứt gãy ở độ sâu lớn, các khối cấu trúc lớn, ranh
Trần Tuấn Dũng
238
giới các kiểu vỏ, còn các đứt gãy, các cấu trúc ở độ
sâu nhỏ hơn thì hầu như đã bị mờ đi. Trên hình,
chúng ta thấy rõ sự thay đổi phương phát triển của
đứt gãy kinh tuyến 1090, kể cả sau khi qua shear
zone Tuy Hòa. Hệ thống các đứt gãy phân chia các
bể trầm tích, các đứt gãy lớn khác cũng được thể
hiện khá rõ, đặc biệt là đứt gãy rất dài chạy sát và
gần như song song với đường bờ, từ Tuy Hòa đến
Vũng tàu (được biểu hiện bằng dải vector gradient
ngang trọng lực cực đại).
Hình 6. Gradient ngang và vector gradient ngang
trọng lực cực đại (lọc trường bước sóng =75km)
Hình 7. Gradient ngang và vector gradient ngang
trọng lực cực đại (lọc trường bước sóng =100km)
Bằng việc phân tích, liên kết theo phương
ngang và thẳng đứng vị trí và giá trị của gradient,
max-gradient với phương pháp thích hợp, nghiên
cứu đã đưa ra được một bức tranh tổng quát về phân
bố hệ thống đứt gãy cả về vị trí không gian và mức
độ phát triển. Tuy nhiên, phạm vi của bài báo cũng
chỉ đi vào mô tả một cách khái quát hình thái cấu
trúc của một số đứt gãy chính trong khu vực
(hình 8), đó là:
Hệ đứt gãy Tây Biển Đông (đứt gãy 109)
được biểu hiện khá rõ bằng dải gradient ngang trọng
lực cực đại có giá trị >1,5mGal/km, kéo dài theo
hướng kinh tuyến dọc theo rìa phía Tây Biển Đông.
Bằng phép phân tích vị trí không gian và hướng của
vector gradient trọng lực cực đại của đứt gãy này ở
các mức lọc trường khác nhau, chúng tôi thấy rằng
hướng cắm của đứt gãy này thay đổi khá phức tạp
theo độ sâu. Đó là, ở phần trên, đứt gãy cắm ra
hướng biển (đứt gãy thuận), nhưng phần nằm sâu
phía dưới lại cắm về phía đất liền (đứt gãy nghịch).
Tại Khánh Hòa, có thể thấy shear zone Tuy
Hòa (đứt gãy Tuy Hòa?) làm dịch chuyển đứt gãy
109 về phía Đông. Càng xuống độ sâu lớn thì shear
zone Tuy Hòa càng được thể hiện rõ nét hơn. Qua
phân tích các kết quả thu được, tác giả cho rằng
shear zone Tuy Hòa có thể là ranh giới phía Tây
Nam của vỏ đại dương với vỏ lục địa (xem hình 8).
Sau khi có sự dịch chuyển qua shear zone Tuy
Hòa, đứt gãy kinh tuyến 109 dường như bị chia làm
hai nhánh: nhánh thứ nhất chạy dọc theo ranh giới
bể Cửu Long - Nam Côn Sơn xuống phía Nam về bể
Malay - Thổ Chu; Nhánh thứ hai chạy dọc theo kinh
tuyến 110 xuống phía Nam, đến kinh tuyến 6 thì bị
gián đoạn bởi các đứt gãy bậc nhỏ hơn.
Đặc biệt, dọc theo bờ biển từ Tuy Hòa đến
Vũng tàu có một dải gradient trọng lực cực đại có
giá trị khá lớn và có các vector phát triển liên tục,
cùng hướng (xem trên hình 4, 5, 6, 7). Có thể nói
đây là một hệ đứt gãy kéo dài song song với đường
bờ (sau đây được gọi là đứt gãy Vũng Tàu - Tuy
Hòa). Đứt gãy này bị phân cắt bởi nhiều đứt gãy
chạy từ trong đất liền ra biển. Đứt gãy Vũng Tàu -
Tuy Hòa có hướng cắm về phía biển, đây là một đứt
gãy thuận, cách bờ từ 5 - 10km (đặc điểm này được
xác định qua phân tích vị trí không gian và hướng
của vector gradient trọng lực cực đại ở các mức lọc
trường khác nhau).
Về đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải
Như chúng ta đã biết, cái tên đứt gãy ‘Thuận
Hải-Minh Hải’ (hay là hệ thống đứt gãy) đã được đề
cập đến trong các nghiên cứu (trong các báo cáo,
Bằng chứng trọng lực về đứt gãy Thuận Hải
239
các bản đồ) từ thế kỷ trước. Có thể nói ở thời
điểm đó các khảo sát về địa chất - địa vật lý trên
biển còn rất ít, thưa thớt, đặc biệt là ở các khu vực
ven bờ (lúc đó các khảo sát mới chỉ có ở các bể trầm
tích với mục đích tìm kiếm dầu khí). Đứt gãy
‘Thuận Hải - Minh Hải’ đã được vẽ và mô tả như là
một đứt gãy lớn, mang tính khu vực, kéo dài từ
Thuận Hải (cắt qua rìa trong của bể Cửu Long) đến
tận Minh Hải. Có thể hiểu đơn giản rằng, đã là đứt
gãy mang tính khu vực thì hiển nhiên sẽ có biểu
hiện rất rõ trên trường trọng lực, cho dù nó có bị
phủ bởi lớp trầm tích dày đến mức nào.
Hình 8. Hệ thống đứt gãy trên thềm lục địa Nam -
Nam Trung Bộ
Phương pháp minh giải tài liệu trọng lực là một
phương pháp có độ tin cậy trong xác định các ranh
giới mật độ đất đá trong vỏ Trái đất - với một góc độ
nào đó, chúng ta có thể gọi chúng là hệ thống các đứt
gãy. Tuy nhiên, tác giả đã không phát hiện được dấu
hiệu về sự tồn tại của đứt gãy ‘Thuận Hải - Minh Hải’
trên dị thường trọng lực. Thay vào đó là đứt gãy
Vũng Tàu - Tuy Hòa chạy sát, song song với đường
bờ có hướng cắm về phía biển (đứt gãy thuận), cách
bờ từ 5 - 10km. Qua nghiên cứu này, có thể nói rằng,
không có bằng chứng trọng lực nào nói lên sự tồn tại
của đứt gãy gọi là ‘Thuận Hải - Minh Hải’.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu áp dụng được nguồn tài liệu trọng
lực đầy đủ nhất hiện có trong khu vực nghiên cứu
cùng với các phương pháp minh giải, mô hình mới.
Đã đưa ra được một bức tranh trực quan, khách
quan về hình thái cấu trúc cũng như là xu thế phát
triển của hệ thống đứt gãy trên thềm lục địa Nam
Trung Bộ và Nam Việt Nam.
Trong nghiên cứu này không phát hiện được
dấu hiệu về sự tồn tại của đứt gãy ‘Thuận Hải -
Minh Hải’ trên dị thường trọng lực. Thay vào đó là
đứt gãy Vũng Tàu - Tuy Hòa chạy sát, song song
với đường bờ có hướng cắm về phía biển, cách bờ
từ 5 - 10km. Với kết qủa thu được, tác giả có thể
đưa ra kết luận rằng, không có bằng chứng trọng lực
nào nói lên sự tồn tại của đứt gãy gọi là ‘Thuận Hải
- Minh Hải’.
Lời cảm ơn: Các tác giả cảm ơn Đề tài
VAST06.01/12-13; KC09.11/11-15 đã hỗ trợ các
điều kiện cần thiết để hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blakely, R, J. and Simpson, R. W. 1986.
Approximating edges of source bodies
frommagnetic or gravity anomalies. Geophy-
sics, 51, 1,494-1,498.
2. Braitenberg. C., Wienecke S., and Wang Y.,
2006. Basement structures from satellite-
derived gravity field: South China Sea ridge.
Journal of Geophysical Research, Vol. 111,
B05407, doi: 10.1029/2005 JB003938.
3. Bùi Công Quế, Trần Tuấn Dũng, 2008. Nghiên
cứu các đặc điểm cấu trúc sâu và địa động lực
vùng biển Việt Nam và kế cận. Tạp chí Các
khoa học về Trái đất, Số 4, Tập 30. Tr. 481-490.
4. Cao Đình Triều, 2005. Trường Địa vật lý và cấu
trúc thạch quyển lãnh thổ Việt Nam. Nxb. Khoa
học Kỹ thuật. Hà Nội. 330tr.
5. Lê Huy Minh, Lưu Việt Hùng, Cao Đình Triều,
2002. Sử dụng trường verto gradient ngang cực
đại trong minh giải tài liệu từ và trọng lực ở
Việt Nam. Tạp chí các khoa học về trái đất,
24(1): 67-80.
6. Lê Triều Việt, Vũ Văn Chinh và nnk, 2012. Sự
phát triển cấu trúc kiến tạo bồn trũng Cửu Long
trong Kainozoi. Tạp chí Các khoa học về trái
đất, 34(2): 136-145.
7. Mikhail Kaban, 2005. Development of
geophysical software: solution of direct and
inverse gravity problems (2D and 3D spherical
cases), dynamic modelling of the Earth's
mantle, cross-spectral (admittance) technique.
GFZ German Research Centre for Geosciences,
Section 1.3, Earth System Modelling.
8. Nguyễn Đình Xuyên và nnk, 2009. Độ nguy
hiểm động đất vùng Nam Bộ và thành phố Hồ
Trần Tuấn Dũng
240
Chí Minh. Tạp chí Các khoa học về trái đất,
31(3): 193-200.
9. Nguyễn Trọng Tín, Trần Tuấn Dũng và nnk,
2010. Đặc điểm kiến tạo các bể trầm tích
Cenozoic ở Biển Đông Việt Nam trên cơ sở kết
quả nghiên cứu mới. Tuyển tập Hội nghị Khoa
học và Công nghệ quốc tế 35 năm ngành Dầu
khí Việt Nam. Tr. 57-73.
10. Sandwell, D. T., E. Garcia, K. Soofi, P. Wessel,
and W. H. F. Smith, 2013. Towards 1 mGal
Global Marine Gravity from CryoSat-2,
Envisat, and Jason-1, The Leading Edge,
August, 2013.
11. Trần Tuấn Dũng và nnk., 2006. Kiến tạo đứt
gãy theo minh giải tài liệu trọng lực vùng thềm
lục địa Đông Nam Việt Nam. Tạp chí Khoa học
và Công nghệ biển, Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, T.2, 124-133.
12. Trần Tuấn Dũng, 2013. Đặc điểm cấu trúc kiến
tạo khu vực nước sâu biển đông việt nam trên
cơ sở minh giải tổng hợp các tài liệu trọng lực
và từ. Hội nghị 35 năm thành lập viện Dầu khí
Việt Nam, 6/2013. Tr. 55-66.
13. Trần Tuấn Dũng, Nguyễn Quang Minh, Vũ Thu
Anh, 2012. Ảnh hưởng địa hình đáy biển lên dị
thường trọng lực trên khu vực biển đông và lân
cận. Báo cáo tại Hội nghị quốc tế Biển Đông
2012: 90 năm các hoạt động hải dương học trên
vùng biển Việt Nam và lân cận, Nha Trang. Tr.
111.
GRAVITY EVIDENCE ON THE THUAN HAI-MINH HAI
FAULT AND FAULTS SYSTEM IN SOUTH AND SOUTH -
CENTRAL VIETNAM CONTINENTAL SHELF
Tran Tuan Dung
Institite of Marine Geology and Geophysics-VAST
ABSTRACT: The South and South-central Vietnam continental shelf is a region with the diversely
complicated conditions of geology. In spite of over the past many years of investigation, the fault systems in
many places have remained poorly understood.
In this paper, the author has studied and applied some techniques for interpretation of the newest gravity
data and others, which are frequency filtering, gravity horizontal gradient and maximum horizontal gradient,
in order to determine plainly the main faults systems in the South and South-central Vietnam continental shelf
and also clear up whether or not as well as the location of the fault named ‘Thuan Hai - Minh Hai'.
Keywords: South and South-central Vietnam, Thuan Hai - Minh Hai fault, gravity
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3528_11929_1_pb_6709_2079590.pdf