Báo cáo ca lâm sàng: Hẹp tĩnh mạch chậu gốc phải ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo
Lâm sàng có thể là tình trạng phù nề không
đối xứng ở nửa cơ thể có can thiệp mở đường vào
lòng mạch.
Các biểu hiện lâm sàng thường gặp:
• Đau vùng chi có cầu nối: là biểu hiện sớm
nhất, thường đau liên tục và tăng dần.
• Phù nề lan tỏa mô mềm: sưng nề, tụ dịch,
ấn lõm.
• Sung huyết tĩnh mạch: da đổi màu sẫm do
ứ máu, các tĩnh mạch nông dưới da nổi rõ.
• Hoại tử mô mềm: là giai đoạn nặng do tình
trạng sung huyết, ứ đọng máu kéo dài.
Tùy theo vị trí tĩnh mạch trung tâm bị hẹp - tắc
mà biểu hiện lâm sàng có vị trí khác nhau. Thường
gặp nhất là hẹp - tắc tĩnh mạch dưới đòn, cánh
tay đầu với cùng bên có AVF/AVG [5]. Khi đó sẽ
có hiện tượng phù nề lan tỏa mô mềm ở chi trên
tương ứng, có thể lan đến nách, vai, nửa mặt cùng
bên. Khi hẹp tĩnh mạch chủ trên thì sẽ có hiện
tượng phù áo khoác, tức là phù nề toàn bộ vùng
đầu - mặt - cổ và chi trên hai bên. Khi hẹp tĩnh
mạch chậu thì sẽ biểu hiện ở chân cùng bên. Khi
hẹp tĩnh mạch chủ dưới thì sẽ biểu hiện ở cả hai
chân. Trong trường hợp này hẹp tĩnh mạch chậu
phải nên biểu hiện triệu chứng phù chân phải rõ.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo ca lâm sàng: Hẹp tĩnh mạch chậu gốc phải ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 79
I. đẶT VẤN đỀ
Hẹp tĩnh mạch trung tâm (CVS) khá phổ biến
ở bệnh nhân lọc máu chu kỳ, ước tính có khoảng
40-42% các trường hợp có bệnh lý này trong toàn
bộ thời gian sống phải lọc máu chu kỳ, cho dù là
tạo cầu nối AVF/AVG hay đặt ống thông tĩnh mạch
trung tâm [5]. Tỷ lệ hẹp tĩnh mạch trung tâm càng
gia tăng khi thời gian lọc máu chu kỳ càng kéo dài,
lưu lượng tuần hoàn qua cầu nối càng cao.
Có 3 phương pháp cơ bản để mở đường vào
lòng mạch tiếp cận với tuần hoàn hệ thống được
áp dụng phổ biến nhất hiện nay là: tạo cầu nối động
tĩnh mạch tự thân AVF (autogenous arteriovenous
fistular), tạo cầu nối động tĩnh mạch nhân tạo AVG
(graft arteriovenous fistular) và đặt ống thông vào
tĩnh mạch (tunneled cuffed catheter, non-tunneled
catheter). Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm,
nhược điểm và chỉ định riêng, tùy thuộc vào tình trạng
của người bệnh, cấu trúc giải phẫu của mạch máu,
nguy cơ và biến chứng có thể gặp ở người bệnh.
Theo những hướng dẫn của Hiệp hội Thận
quốc gia Hoa Kỳ (NKF) và Châu Âu thì tạo cầu nối
tĩnh mạch tự thân AVF là phương pháp được lựa
chọn ưu tiên cho những chỉ định lọc máu chu kỳ
vĩnh viễn. Đối với những trường hợp có chỉ định
lọc máu chu kỳ tạm thời thì đặt catheter nòng kép
tĩnh mạch trung tâm là phương pháp được khuyến
cáo sử dụng [3].
Dù thực hiện kỹ thuật mở đường vào lòng
mạch nào thì cũng có thể xuất hiện một biến
chứng khá phức tạp là hẹp tĩnh mạch trung tâm.
Tỷ lệ biến chứng hẹp tĩnh mạch trung tâm ở bệnh
nhân lọc máu chu kỳ thường gặp nhất là ở tĩnh
mạch dưới đòn (35%), tĩnh mạch cánh tay đầu,
tĩnh mạch cảnh (10%) và tĩnh mạch chủ trên [1].
Biến chứng này ở tĩnh mạch chậu, tĩnh mạch chủ
dưới ít được nhắc đến [2, 4].
II. CA BỆNH LÂM sàNG
Bệnh nhân nam, 79 tuổi, có tiền sử suy thận
mạn, tăng huyết áp, đái tháo đường. Cách đây
2 năm (tháng 6 - 2013) bệnh nhân phải lọc máu
nhân tạo do suy thận mạn giai đoạn IV. Bệnh nhân
được đặt catheter tại tĩnh mạch đùi phải 2 tuần,
sau đó chuyển sang làm AVF tay phải. Từ đó đến
nay lọc máu chu kỳ 3 lần/tuần. Khoảng hơn một
năm nay bệnh nhân xuất hiện phù chân phải tăng
dần, phù mềm, tím nhẹ, không đau cách hồi khi
vận động. Trong vài tháng đầu phù có giảm sau
lọc máu chu kỳ. Từ tháng 1 - 2015 phù ngày càng
tăng, sau chạy thận phù cũng không giảm.
Tháng 4 - 2015 bệnh nhân vào viện vì phù
căng to chân bên phải. Tình trạng lúc vào viện: Da
vùng cẳng chân phải nâu sẫm, toàn bộ chân phải
phù căng cứng, ấn không lõm, vận động chân phải
hạn chế vì nặng chân. Đường kính chân phải khi
BÁO CÁO CA LÂM sàNG: HẸP TĨNH MẠCH CHẬU GỐC PHẢI Ở
BỆNH NHÂN CHẠY THẬN NHÂN TẠO
Đỗ thị Ái*
*Bệnh viện Hữu Nghị
TÓM TẮT
Hẹp tĩnh mạch trung tâm là một biến chứng thường gặp ở bệnh nhân lọc máu theo chu kỳ. Tĩnh
mạch bị hẹp thường là tĩnh mạch cảnh, tĩnh mạch dưới đòn, tĩnh mạch chủ trên, còn những vị trí
khác ít được nhắc đến. Một trường hợp lâm sàng vào viện do phù chân phải được trình bày trong
báo cáo này có tiền sử suy thận mạn giai đoạn cuối đã được đặt catheter tĩnh mạch đùi phải để lọc
máu nhân tạo. Sau 6 tháng bệnh nhân bị phù chân phải và được chẩn đoán là hẹp tĩnh mạch chậu
gốc phải. Sau khi phẫu thuật bắc cầu tĩnh mạch chủ chậu, tình trạng phù chi đã khỏi hoàn toàn. Qua
đây chúng tôi thấy khi phát hiện phù chi không đối xứng trên bệnh nhân lọc máu chu kỳ thì cần chú
ý đến biến chứng hẹp tĩnh mạch trung tâm.
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX80
vào viện: Vòng đùi 59cm, bắp chân 39cm, chân
trái: vòng đùi 50cm, bắp chân 32cm. Phù chân
không đáp ứng với lợi tiểu và lọc máu chu kỳ.
Các xét nghiệm: Ure 34mmol/L, Creatinin
930Umol/ L, Protein 62g/L, Albumin 30g/L,
Na+139mmol/ L, K+ 4.51mmol/L , Cl - 102mmol/L.
HC 3.74T/L, Hb 105g/L, BC 7.07G/L, TC
110.2G/L,
Siêu âm doppler mạch chi dưới: Tình trạng
tăng đông tĩnh mạch sâu chi dưới, không thấy
huyết khối động, tĩnh mạch.
Hình 1. Phù to đùi phải gây mất đối xứng
đường kính vòng đùi hai bên qua MRI.
MRI tiểu khung: Bất thường tĩnh mạch chậu
gốc phải (nghi ngờ teo hoặc nhỏ bẩm sinh), tuy
nhiên đã có mạng lưới tuần hoàn bàng hệ phong
phú và hiện không thấy huyết khối ở cả tĩnh mạch
nông và tĩnh mạch sâu.
Kết quả CT 64 dãy đánh giá hệ động tĩnh
mạch chậu - đùi phải: Hẹp tĩnh mạch chậu gốc
phải một đoạn dài 38,8mm ngang mức chỗ đổ vào
tĩnh mạch chủ dưới do tĩnh mạch bị kẹt giữa động
mạch chậu trong và động mạch chậu ngoài ngang
ngã ba. Vôi hóa, xơ vữa nặng hệ động mạch chủ
- chậu- đùi.
Hình 2. Hẹp tĩnh mạch chậu gốc phải
Hình 3. Xơ vữa nặng hệ động mạch chủ - chậu - đùi
Điều trị: Bệnh nhân được phẫu thuật bắc cầu
tĩnh mạch chủ chậu.
Tình trạng tĩnh mạch chậu gốc phải: viêm xơ
gây hẹp tại vị trí như mô tả trên CT 64 lớp.
Quá trình phẫu thuật: Tháo bỏ 1500ml máu
tĩnh mạch chi dưới bên phải tránh nguy cơ suy
tim cấp. Bắc cầu tĩnh mạch chủ chậu bằng đoạn
mạch nhân tạo.
Sau phẫu thuật 10 ngày: Tình trạng lâm sàng
bệnh nhân cải thiện rõ. Chân phải đỡ phù, đường
kính chân phải: Vòng đùi 51cm, bắp chân 32cm.
Hiện tại: Bệnh nhân tỉnh. Huyết động ổn định.
Chân phải hết phù, vận động bình thường.
Hình ảnh lâm sàng sau phẫu thuật 10 ngày.
III. BàN LUẬN
Phù một chi không do nguyên nhân bạch
mạch ở bệnh nhân cao tuổi thường do bị chèn ép
tĩnh mạch do u, hạch hoặc do nguyên nhân huyết
khối tĩnh mạch. Trường hợp này sau khi làm các
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 81
xét nghiệm đã loại trừ các nguyên nhân trên. Do
vậy, cần tìm nguyên nhân khác.
Hẹp tắc tĩnh mạch trung tâm ở bệnh nhân
lọc máu chu kỳ là biến chứng thường gặp [5].
Tuy nhiên vị trí hẹp tắc ở tĩnh mạch chậu ít gặp.
Nguyên nhân của tình trạng hẹp các tĩnh mạch
này là do sự tổn thương lớp nội mô lòng mạch.
Trong trường hợp đặt ống thông tĩnh mạch trung
tâm sẽ có sang chấn cơ học trực tiếp từ đầu ống
thông lên thành mạch. Trong trường hợp tạo cầu
nối động tĩnh mạch, áp lực cao của động mạch
dội vào thành tĩnh mạch sẽ làm tổn thương nội mô
lòng mạch. Sự tổn thương nội mô và gia tăng áp
lực trong lòng tĩnh mạch sẽ dẫn đến sự tăng sinh
tế bào cơ trơn thành mạch kèm phản ứng tạo xơ
hóa nhằm duy trì sự thích nghi của thành mạch ở
điều kiện mới, hậu quả cuối cùng là hẹp - tắc lòng
tĩnh mạch [5,6].
Lâm sàng có thể là tình trạng phù nề không
đối xứng ở nửa cơ thể có can thiệp mở đường vào
lòng mạch.
Các biểu hiện lâm sàng thường gặp:
• Đau vùng chi có cầu nối: là biểu hiện sớm
nhất, thường đau liên tục và tăng dần.
• Phù nề lan tỏa mô mềm: sưng nề, tụ dịch,
ấn lõm.
• Sung huyết tĩnh mạch: da đổi màu sẫm do
ứ máu, các tĩnh mạch nông dưới da nổi rõ.
• Hoại tử mô mềm: là giai đoạn nặng do tình
trạng sung huyết, ứ đọng máu kéo dài.
Tùy theo vị trí tĩnh mạch trung tâm bị hẹp - tắc
mà biểu hiện lâm sàng có vị trí khác nhau. Thường
gặp nhất là hẹp - tắc tĩnh mạch dưới đòn, cánh
tay đầu với cùng bên có AVF/AVG [5]. Khi đó sẽ
có hiện tượng phù nề lan tỏa mô mềm ở chi trên
tương ứng, có thể lan đến nách, vai, nửa mặt cùng
bên. Khi hẹp tĩnh mạch chủ trên thì sẽ có hiện
tượng phù áo khoác, tức là phù nề toàn bộ vùng
đầu - mặt - cổ và chi trên hai bên. Khi hẹp tĩnh
mạch chậu thì sẽ biểu hiện ở chân cùng bên. Khi
hẹp tĩnh mạch chủ dưới thì sẽ biểu hiện ở cả hai
chân. Trong trường hợp này hẹp tĩnh mạch chậu
phải nên biểu hiện triệu chứng phù chân phải rõ.
IV. KẾT LUẬN
Hẹp tắc tĩnh mạch trung tâm ở bệnh nhân lọc
máu chu kỳ là biến chứng thường gặp, đặc biệt
trên những bệnh nhân có AVF/AVG cùng bên chi
có tiền sử can thiệp catheter. Chúng tôi báo cáo ca
lâm sàng không có biểu hiện tại chi đang có AVF
mà biểu hiện ở chi có tiền sử đặt catheter trước
đây và biểu hiện lâm sàng khá muộn (sa khi can
thiệp caheter khoảng 6 tháng). Hình ảnh “hẹp tĩnh
mạch chậu gốc phải trên một đoạn dài 38,8mm
ngang mức chỗ đổ vào tĩnh mạch chủ dưới do
tĩnh mạch bị kẹt giữa động mạch chậu trong và
động mạch chậu ngoài ngang ngã ba” có thể do
phản ứng tạo xơ hóa không chỉ tại thành mạch mà
tại mô liên kết lân cận mạch máu tổn thương [6].
Viêm xơ hóa được quan sát thấy trong quá trình
phẫu thuật, nó tạo nên hình ảnh “kẹt giữa động
mạch chậu trong và chậu ngoài” giả tạo.
Do vậy khi có triệu chứng phù một chi có tính
chất kéo dài dai dẳng, tăng dần ở bệnh nhân chạy
thận chu kỳ, việc phải tìm nguyên nhân do hẹp tĩnh
mạch là cần thiết.
TàI LIỆU THAM KHẢO
1. Stenosis and thrombosis in haemodialysis
fistulae and grafts: the surgeon’s point of
view. Mickley V. Nephrol Dial Transplant. 2004
Feb;19(2):309-11
2. Post catheterisation vein stenosis in
haemodialysis: comparative angiographic study of
50 subclavian and 50 internal jugular accesses.
AUSchillinger F, Schillinger D, Montagnac R, Milcent
T SONephrol Dial Transplant. 1991;6(10):722.
3. Vascular Access Work Group: Clinical
practice guidelines for vascular access. Am J
Kidney Dis 2006, 48(Suppl 1):S248–S273.
4. Barrett N, Spencer S, McIvor J, Brown
EA: Subclavian stenosis: A major complication
of subclavian dialysis catheters. Nephrol Dial
Transplant 3:423–425, 1988.
5. MacRae JM, Ahmed A, Johnson N, Levin
A, Kiaii M: Central vein stenosis: a common
problem in patients on hemodialysis. ASAIO J
2005, 51:77–81.
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX82
ABsTRACT
Central venous stenosis is a common complication in patient on hemodialysis. Stenosed veins are
usually jugular, subclavian veins, superior vena cava, but other veins are rarely mentioned. Reported
in this paper, a clinical case with right leg edema treated in hospital had a history of end-stage chronic
kidney disease and a catheter was installed in the right femoral vein for hemodialysis. Six months
later, the male patient suffered from edema in the right foot and he was diagnosed with stenosis in the
right pelvic vein. After pelvic vein bypass sugery, the lower limb edema completely disappeared. From
this case, it is seen that when asymmetric edema of limbs in patient on hemodialysis is detected,
attention to central venous stenosis should be taken.
6. Histologic changes in the human vein wall
adjacent to indwelling central venous catheters.
AU Forauer AR, Theoharis C SOJ Vasc Interv
Radiol. 2003;14(9 Pt 1):1163.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bao_cao_ca_lam_sang_hep_tinh_mach_chau_goc_phai_o_benh_nhan.pdf