ước 1: Công dân tìm hiểu thông tin
về quy hoạch, kế hoạch SDĐ
Công dân tra cứu nội dung quy hoạch,
kế hoạch SDĐ trên trang thông tin điện tử
của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện.
Tài liệu công bố công khai kế hoạch SDĐ
cấp huyện gồm: Nghị quyết hoặc Quyết định
phê duyệt; Báo cáo thuyết minh tổng hợp;
Bản đồ quy hoạch, kế hoạch SDĐ. Thời gian
lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch SDĐ là 30
ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định tổ chức lấy ý kiến.
Bước 2: Phản ánh thông tin
Ý kiến phản ánh của công dân đối
với phương án quy hoạch SDĐ của cấp
huyện được tiếp nhận trực tiếp trong các
hội nghị lấy ý kiến được tổ chức tại UBND
xã, phường, thị trấn và gửi đến UBND cấp
huyện.
Bước 3: Kiểm tra việc tiếp nhận các
thông tin phản ánh của UBND cấp huyện
Ý kiến phản ánh, kiến nghị của công
dân được Ban tổ chức hội nghị tổng hợp
trong báo cáo, giải trình cụ thể lý do tiếp thu
hay không tiếp thu ý kiến và công bố công
khai trên trang thông tin điện tử của UBND
huyện. Do đó, công dân có thể kiểm tra lại
việc tiếp nhận, giải trình các ý kiến phản ánh
trên trên trang thông tin điện tử của UBND
huyện.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền giám sát của công dân đối với việc lập, công bố và thực hiện kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích các yêu cầu nhằm bảo đảm quyền giám sát của công
dân trong việc lập, điều chỉnh, công bố, thực hiện kế hoạch sử dụng
đất (SDĐ) hàng năm của cấp huyện - một nội dung quan trọng của
quyền giám sát của công dân đối với việc quản lý và SDĐ ở Việt Nam;
và qua đó kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn Điều 199 Luật Đất đai
trên cơ sở Hiến pháp, Luật Đất đai và các đạo luật khác có liên quan.
BẢO ĐẢM QUYỀN GIÁM SÁT CỦA CÔNG DÂN
ĐỐI VỚI VIỆC LẬP, CÔNG BỐ VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
SỬ DỤNG ĐẤT HÀNG NĂM CỦA CẤP HUYỆN
Phan Trung Hiền*
Abstract:
This article provides analysis of requirements to ensure citizen’s
supervisory rights in development, amendment, announcement and
implementation of the annual land usage plan of district level - an
important one of the citizen's supervisory rights to the management
and usage of land in Vietnam. Based on the analysis, it is also
proposed to develop detailed provisions of Article 199 of the Land
Law of 2013 basing on the Constitution, the Land Law of 2013 and
relevant statutes.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền giám sát của công
dân; quản lý và sử dụng đất đai; lập,
điều chỉnh, công bố, thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 04/06/2017
Biên tập: 15/06/2017
Duyệt bài: 19/06/2017
Article Infomation:
Keywords: Citizen's supervisory
rights; management and Land
usage; development, amendment,
announcement and implementation
of the annual land usage plan.
Article History:
Received: 04 Jun 2017
Edited: 15 Jun 2017
Appproved: 19 Jun 2017
* PGS. TS, Phó trưởng Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ.
1. Quyền giám sát của công dân đối với
việc lập, công bố và thực hiện kế hoạch sử
dụng đất hàng năm của cấp huyện
1.1 Quyền giám sát của công dân
trong việc lập kế hoạch SDĐ hàng năm
của cấp huyện
- Chủ thể lấy ý kiến: Về nguyên tắc,
việc lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch SDĐ
do cơ quan, tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch
SDĐ thực hiện. Theo quy định tại Điều 42
Luật Đất đai năm 2013, Ủy ban nhân dân
(UBND) cấp huyện tổ chức lập quy hoạch,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
35Số 17(345) T9/2017
kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. Phòng Tài
nguyên và Môi trường của huyện chủ trì
giúp UBND huyện trong việc lập quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất có trách nhiệm tổ chức
lấy ý kiến đóng góp của công dân về quy
hoạch, kế hoạch SDĐ.
- Hình thức lấy ý kiến: Việc lấy ý kiến
đóng góp của công dân về kế hoạch SDĐ
hàng năm của cấp huyện được thực hiện
thông qua hình thức tổ chức hội nghị, lấy ý
kiến trực tiếp và công khai thông tin về nội
dung của kế hoạch SDĐ trên trang thông tin
điện tử của UBND cấp tỉnh và UBND cấp
huyện.
Nội dung lấy ý kiến công dân về quy
hoạch, kế hoạch SDĐ gồm: Các chỉ tiêu
quy hoạch, kế hoạch SDĐ, các dự án công
trình thực hiện trong kỳ quy hoạch, kế hoạch
SDĐ.
Thời gian lấy ý kiến về quy hoạch, kế
hoạch SDĐ: Trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định tổ chức lấy ý kiến.
Cơ quan có trách nhiệm lấy ý kiến
về kế hoạch SDĐ có trách nhiệm xây dựng
báo cáo tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến
của nhân dân và hoàn thiện phương án quy
hoạch, kế hoạch SDĐ trước khi trình Hội
đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
So với Luật Đất đai năm 2003, Luật
Đất đai năm 2013 quy định chi tiết hơn việc
lấy ý kiến theo hướng quy định cụ thể về trình
tự, thủ tục lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch
SDĐ. Tuy nhiên, trong những quy định về
việc lấy ý kiến các loại quy hoạch, kế hoạch
SDĐ, chưa có quy định cụ thể về trường hợp
1 Phan Trung Hiền, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2014, tr. 14.
trên 1/2 hoặc trên 2/3 ý kiến không tán thành
dự thảo quy hoạch, kế hoạch SDĐ mà cơ
quan nhà nước đưa ra thì giải quyết ra sao,
ngoài những quy định chung chung như: tiếp
thu và giải trình ý kiến1 Như vậy, tính chất
của ý kiến của chủ thể thực hiện quyền giám
sát chưa được xác định rõ. Không có một
quy định nào buộc UBND cấp huyện phải
tổ chức thẩm định lại quy hoạch, kế hoạch
SDĐ khi đại bộ phận công dân ở địa phương
- những người đang thực hiện quyền giám
sát - cho rằng, quy hoạch, kế hoạch SDĐ đó
là thiếu căn cứ, nếu thực hiện, có khả năng
gây phương hại đến đời sống xã hội, gây ô
nhiễm môi trường, thiếu bền vững
1.2 Quyền giám sát của công dân đối
với việc công bố kế hoạch SDĐ hàng năm
của cấp huyện
Theo Điều 48 Luật Đất đai năm 2013,
việc công bố công khai quy hoạch, kế hoạch
SDĐ được thực hiện như sau:
Kế hoạch SDĐ hàng năm ở cấp huyện
sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định, phê duyệt phải được công
bố công khai. UBND cấp huyện có trách
nhiệm công bố công khai kế hoạch SDĐ cấp
huyện tại trụ sở cơ quan, trên cổng thông
tin điện tử của UBND cấp huyện và công
bố công khai nội dung kế hoạch SDĐ cấp
huyện có liên quan đến xã, phường, thị trấn
tại trụ sở UBND cấp xã. Thời điểm, thời hạn
công bố công khai kế hoạch SDĐ theo quy
định sau đây:
a) Việc công bố công khai được thực
hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định,
phê duyệt;
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
36 Số 17(345) T9/2017
b) Việc công khai được thực hiện trong
suốt kỳ quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
Như vậy, quyền giám sát của công dân
đối với việc công bố kế hoạch SDĐ hàng
năm của cấp huyện bao gồm cả nội dung
của kế hoạch SDĐ có được công bố đầy đủ
không, đặc biệt là các nội dung liên quan đến
“kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp huyện đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt”? Trong giai đoạn này, công dân giám
sát việc công bố công khai quy hoạch, kế
hoạch SDĐ của cơ quan, cán bộ nhà nước
có thẩm quyền. Các hành vi vi phạm về lấy
ý kiến, công bố công khai thông tin đất đai
nói chung và kế hoạch SDĐ nói riêng thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
(Điều 207 Luật Đất đai năm 2013). Trong
đó, UBND cấp huyện là chủ thể có trách
nhiệm công bố công khai kế hoạch SDĐ cấp
huyện - đây là căn cứ, là cơ sở để thu hồi đất.
1.3 Quyền giám sát của công dân
đối với việc thực hiện kế hoạch SDĐ hàng
năm của cấp huyện
Liên quan đến việc giám sát trong quá
trình quản lý và SDĐ, ngoài việc giám sát
việc lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ, còn phải
giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch
SDĐ đã lập.
Trong các loại quy hoạch, kế hoạch
SDĐ có kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp
huyện là nội dung có ảnh hưởng trực tiếp đến
các quyền và nghĩa vụ của công dân trong
việc SDĐ. Điều 49 Luật Đất đai năm 2013
có nêu rõ: “Trường hợp đã có kế hoạch SDĐ
hàng năm của cấp huyện thì người SDĐ
trong khu vực phải chuyển mục đích SDĐ
và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục
thực hiện các quyền của người SDĐ nhưng
không được xây dựng mới nhà ở, công trình,
trồng cây lâu năm; nếu người SDĐ có nhu
cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện
có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép theo quy định của pháp
luật”. Điều này có nghĩa là, khi kế hoạch
SDĐ này được công bố thì người dân bị hạn
chế các quyền về xây dựng và trồng cây lâu
năm. Có thể nói, đây là quy định căn bản để
công dân thực hiện giám sát việc thực hiện
quy hoạch, kế hoạch SDĐ nói chung và thực
hiện kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp huyện
nói riêng.
Tuy nhiên, việc hạn chế quyền của
người SDĐ chỉ giới hạn trong một khoảng
thời gian xác định. Đoạn 2 khoản 2 Điều 49
Luật Đất đai năm 2013 có nêu: “Diện tích đất
ghi trong kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp
huyện đã được công bố phải thu hồi để thực
hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích SDĐ
mà sau 03 năm chưa có quyết định thu hồi
đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích
SDĐ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt kế hoạch SDĐ phải điều chỉnh,
hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy
bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối
với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch
SDĐ Trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt kế hoạch SDĐ không
điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy
bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh,
hủy bỏ thì người SDĐ không bị hạn chế
về quyền nêu trên”. Trong trường hợp này,
giám sát của công dân đối với việc thực hiện
kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp huyện thể
hiện ở nội dung: theo dõi, xem xét là chính
quyền địa phương có bảo đảm thực hiện
đúng thời điểm hạn chế và thời điểm chấm
dứt việc hạn chế các quyền liên quan đến đất
sau khi công bố kế hoạch SDĐ hàng năm
của cấp huyện.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
37Số 17(345) T9/2017
1.4 Trách nhiệm của các chủ thể có
thẩm quyền trong việc bảo đảm quyền giám
sát của công dân đối với việc lập, công bố
và thực hiện kế hoạch SDĐ hàng năm của
cấp huyện
Theo quy định tại khoản 5 Điều 199
Luật Đất đai năm 2013, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền có trách nhiệm khi nhận được ý
kiến của công dân và tổ chức đại diện cho
người dân thông qua các hoạt hoạt động như:
a) Kiểm tra, xử lý, trả lời bằng văn bản
theo thẩm quyền;
b) Chuyển đơn đến cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để giải quyết trong trường
hợp không thuộc thẩm quyền;
c) Thông báo kết quả cho tổ chức, cá
nhân đã phản ánh.
Đây là những quy định nhằm bảo đảm
tính khả thi của việc thực hiện quyền giám
sát của người dân. Trách nhiệm trên nếu
không được thực hiện nghiêm túc thì sẽ có
những chế tài đi kèm. Điều 207 Luật Đất đai
năm 2013 và Điều 97 Nghị định số 43/2014/
NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai (gọi tắt là Nghị định 43/2014/NĐ-
CP) quy định về các hành vi vi phạm quy
định về quy hoạch, kế hoạch SDĐ, bao gồm:
(i) Không tổ chức lập, điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch SDĐ kịp thời
theo quy định;
(ii) Không thực hiện đúng quy
định về tổ chức lấy ý kiến nhân dân trong
quá trình lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ;
(iii) Không công bố quy hoạch,
kế hoạch SDĐ; không công bố việc điều
chỉnh hoặc hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển
mục đích đối với phần diện tích đất ghi
trong kế hoạch SDĐ mà sau 03 năm chưa có
quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép
chuyển mục đích SDĐ; không báo cáo thực
hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
Như vậy, thẩm quyền của các cơ quan,
đơn vị đối với hoạt động quản lý đất đai thể
hiện ở hai phương diện là: “có trách nhiệm”
và “chịu trách nhiệm”. Việc không thực hiện
đúng, đủ các quy định trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có thể là hành vi vi
phạm pháp luật, là đối tượng của việc truy
cứu trách nhiệm pháp lý, tức là phải “chịu
trách nhiệm”. Các hành vi vi phạm trên đây
có thể chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự căn cứ vào mức độ
vi phạm như: (i) Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn làm trái với quy định của pháp luật; (ii)
Thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi
phạm pháp luật về đất đai Điều này cho
thấy, các quy định về cơ chế bảo đảm thực
thi quyền giám sát cơ bản đã được quy định
về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra
là liệu công dân có nắm được các quyền của
mình trong từng giai đoạn để thực thi việc
giám sát hay không. Mặt khác, khi công dân
phát hiện có những bất cập cần phản ánh,
kiến nghị, chính quyền địa phương có bảo
đảm việc thực hiện quyền này theo quy định
hay không?
1.5 Thực trạng về thực thi và bảo
đảm quyền giám sát của công dân đối với
việc thực hiện kế hoạch SDĐ hàng năm
của cấp huyện
Theo quy trình thực hiện quy hoạch,
kế hoạch SDĐ, ngay sau khi cấp thẩm quyền
công bố kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp
huyện thì chính quyền địa phương sẽ tiến
hành định vị các khu có đất thu hồi và kêu
gọi đầu tư để triển khai các dự án trong phạm
vi kế hoạch SDĐ. Việc hạn chế các quyền
về trồng cây lâu năm, xây dựng mới công
trình kiên cố có hiệu lực áp dụng. Các biện
pháp hành chính nhằm quản lý quy hoạch,
kế hoạch, hạn chế biến động về đất đai,
ngăn chặn khả năng trục lợi từ chính sách
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được chính
quyền địa phương triển khai. Tuy nhiên,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
38 Số 17(345) T9/2017
việc thực hiện đúng các quy định này có khả
năng phát sinh những bất cập trên thực tế2:
Thứ nhất, ảnh hưởng đối với việc sản
xuất và kinh doanh: Các yêu cầu cơ bản về
thủ tục hành chính thông thường của chủ thể
SDĐ trong vùng quy hoạch, kế hoạch phát
sinh trở ngại, vướng mắc, gây khó khăn trong
sinh hoạt, ràng buộc điều kiện sản xuất, kinh
doanh. Ví dụ: Việc lên kế hoạch trồng cây
lâu năm trong sản xuất nông nghiệp, việc
dự kiến xây mới công trình làm mặt bằng
kinh doanh của các hộ gia đình buộc phải
thay đổi từ ổn định sang tạm thời, ngắn hạn,
giữ nguyên hiện trạng, cầm chừng. Hiệu quả
SDĐ của các hộ dân nói riêng và của địa
phương nói chung sụt giảm, việc làm đình
trệ, mất thu nhập...
Thứ hai, ảnh hưởng đến việc hợp thức
hóa hoặc thay đổi mục đích SDĐ: Thực tế,
việc xử lý thủ tục hành chính của cơ quan
chức năng đối với các quan hệ hành chính
liên quan đến diện tích đất trong quy hoạch
cũng bộc lộ bất cập. Đặc biệt là với diện tích
đất trong quy hoạch, kế hoạch chưa được
cấp Giấy chứng nhận quyền SDĐ, quyền
sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất lần
đầu hoặc các thửa đất có một phần diện tích
thuộc phạm vi quy hoạch, kế hoạch xin cấp
đổi Giấy chứng nhận quyền SDĐ. Điều này
thậm chí còn gây ảnh hưởng đến việc tính
diện tích bồi thường thiệt hại về đất nên đất
của các hộ dân chưa được hợp thức hoá trên
Giấy chứng nhận.
Thứ ba, thời hạn hạn chế quyền của
người SDĐ có thể bị kéo dài trên thực tế:
Mặc dù quy định về thời hạn hạn chế quyền
SDĐ tối đa là ba năm nhưng thực tế, nhiều
địa bàn đã điều chỉnh, công bố lại dẫn đến
một bộ phận công dân sống trong vùng có
2 Hùng Long, Khắc phục bất cập trong bồi thường thu hồi đất,
song/201506/khac-phuc-bat-cap-trong-boi-thuong-thu-hoi-dat-596862/, truy cập ngày 03/02/2017.
kế hoạch SDĐ kéo dài hơn 6 năm. Điều này
khiến diễn biến phát sinh các thiệt hại ở giai
đoạn công bố kế hoạch SDĐ hàng năm của
cấp huyện có điều chỉnh, kéo dài.
Thứ tư, một số địa phương tự ý mở
rộng việc hạn chế quyền của công dân SDĐ:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật
Đất đai năm 2013 thì người dân không bị
hạn chế các quyền như: quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, tặng cho,
cho thuê, cho thuê lại, góp vốn bằng quyền
SDĐ. Tuy nhiên, theo cách giải quyết “sợ
kẻ gian làm cả ngàn người khó”, có những
địa phương đã cản trở nhu cầu chia đất, tách
hộ của các hộ dân có đất trong phạm vi kế
hoạch SDĐ hàng năm cấp huyện, khiến
nhiều gia đình không thể cải thiện được
môi trường sống. Không ít gia đình đang
có nhiều người, nhiều thế hệ, ở chung trong
một căn nhà xuống cấp; cần xây dựng mới
nhưng không được cấp phép, không thể tách
hộ khẩu riêng Sự ràng buộc này đã làm
cho việc xem xét thực hiện chính sách hỗ
trợ, tái định cư không phản ánh đúng nhu
cầu cuộc sống, khiến kết quả giải quyết tái
định cư sau đó không đáp ứng nhu cầu chính
đáng về chỗ ở và gây thiệt hại cho người
dân. Như vậy, việc thực thi không đúng các
quy định của pháp luật về quyền của người
dân khi có đất nằm trong kế hoạch SDĐ
hàng năm của cấp huyện đã dẫn đến những
căn cứ thiếu khách quan, làm nảy sinh bất
cập, gây khiếu nại, khiếu kiện về sau.
2. Kiến nghị nhằm bảo đảm việc hướng
dẫn và thực thi quyền giám sát của công
dân đối với kế hoạch sử dụng đất hàng
năm của cấp huyện có hiệu quả
2.1 Hướng dẫn quyền giám sát
Mặc dù Điều 199 Luật Đất đai năm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
39Số 17(345) T9/2017
2013 ghi nhận nhiều nội dung tiến bộ về
quyền giám sát của công dân trong quản lý
và SDĐ nói chung và trong việc lập và thực
hiện kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp huyện
nói riêng, song việc thực thi các quy định
này chưa được đồng bộ mà nguyên do chính
là do thiếu các quy định hướng dẫn cần thiết
như: (i) thiếu văn bản hướng dẫn thi hành về
quyền giám sát trong lĩnh vực đất đai; (ii)
thiếu quy định về phản hồi ý kiến đóng góp
quy hoạch, kế hoạch SDĐ; (iii) thiếu các
quy định làm rõ trình tự của hoạt động giám
sát trong quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
Từ những phân tích nêu trên, để bảo
đảm thực thi quyền giám sát của công dân
đối với việc lập, điều chỉnh, công bố và
thực hiện kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp
huyện, pháp luật cần được hoàn thiện về
những vấn đề sau:
Thứ nhất, bổ sung các quy định về
thực thi quyền sở hữu của toàn dân về đất
đai, trong đó có nội dung về giám sát của
công dân đối với việc quản lý và SDĐ ở
nước ta. Thực tế cho thấy, việc giám sát và
thực thi quyền giám sát này phải xác định
giá trị pháp lý một cách cụ thể, tác động trực
tiếp đến công tác quản lý nhà nước về lập
quy hoạch, kế hoạch SDĐ. Ví dụ: trước hết,
tỷ lệ đồng thuận và không đồng thuận này
phải được công bố công khai, kể cả những
nguyên nhân dẫn đến việc không đồng thuận.
Trong trường hợp có trên 50% số công dân
trong địa bàn có quy hoạch, kế hoạch không
đồng thuận với quy hoạch, kế hoạch thì quy
trình tiếp theo phải được quy định chặt chẽ.
Chẳng hạn, cần phải tổ chức việc giải trình
công khai trước người dân và các phương
tiện thông tin đại chúng; cần trải qua thủ tục
lấy ý kiến công khai đối với đại diện cộng
đồng dân cư, các tổ chức đoàn thể đại diện
cho tiếng nói của công dân trên địa bàn. Mặt
khác, cần làm rõ các tiêu chí phê duyệt quy
hoạch, kế hoạch SDĐ; trong đó, việc đồng
thuận của đa số người dân trên địa bàn là
tiêu chí đầu tiên có tính chất quyết định.
Thứ hai, bổ sung quy định xác định rõ
nội dung giám sát về kế hoạch SDĐ hàng
năm của cấp huyện như sau:
- Giám sát việc lấy ý kiến của nhân
dân khi xây dựng phương án quy hoạch, kế
hoạch SDĐ;
- Giám sát việc lập và phê duyệt và
điều chỉnh (nếu có) đối với quy hoạch, kế
hoạch SDĐ;
- Giám sát việc công bố công khai
phương án quy hoạch, kế hoạch SDĐ;
- Giám sát việc thực thi kế hoạch SDĐ
hàng năm của cấp huyện về: các chỉ tiêu
SDĐ, các hoạt động giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất căn cứ trên quy hoạch, kế hoạch
SDĐ.
Đặc biệt, trong quá trình giám sát, cần
phải xem xét đến các quyền mà công dân
bị hạn chế khi kế hoạch SDĐ công bố. Một
mặt, việc hạn chế này phải được thực hiện
nghiêm túc, đúng pháp luật, ví dụ như không
được phép trồng cây, xây mới nhà cửa nhằm
“đón đầu” quy hoạch, kế hoạch. Trong
trường hợp này, các quy định về xử phạt vi
phạm hành chính được áp dụng đối với các
hành vi như: SDĐ sai mục đích, xây dựng
không phép Mặt khác, cần phải giám sát
giới hạn về các quyền bị hạn chế và thời gian
các quyền này bị hạn chế. Về nguyên tắc,
trong giai đoạn kế hoạch SDĐ được công bố
thì các quyền cơ bản của người SDĐ được
quy định tại Điều 167 Luật Đất đai năm
2013 vẫn phải được bảo đảm thực hiện như:
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế,
thế chấp, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại,
góp vốn bằng quyền SDĐ.
2.2 Thực thi quyền giám sát
Thứ nhất, cần xây dựng quy trình bảo
đảm cho công dân thực thi có hiệu quả quyền
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
40 Số 17(345) T9/2017
giám sát việc lập và thực hiện kế hoạch
SDĐ hàng năm của cấp huyện là UBND
cấp huyện.
Bước 1: Công dân tìm hiểu thông tin
về quy hoạch, kế hoạch SDĐ
Công dân tra cứu nội dung quy hoạch,
kế hoạch SDĐ trên trang thông tin điện tử
của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện.
Tài liệu công bố công khai kế hoạch SDĐ
cấp huyện gồm: Nghị quyết hoặc Quyết định
phê duyệt; Báo cáo thuyết minh tổng hợp;
Bản đồ quy hoạch, kế hoạch SDĐ. Thời gian
lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch SDĐ là 30
ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định tổ chức lấy ý kiến.
Bước 2: Phản ánh thông tin
Ý kiến phản ánh của công dân đối
với phương án quy hoạch SDĐ của cấp
huyện được tiếp nhận trực tiếp trong các
hội nghị lấy ý kiến được tổ chức tại UBND
xã, phường, thị trấn và gửi đến UBND cấp
huyện.
Bước 3: Kiểm tra việc tiếp nhận các
thông tin phản ánh của UBND cấp huyện
Ý kiến phản ánh, kiến nghị của công
dân được Ban tổ chức hội nghị tổng hợp
trong báo cáo, giải trình cụ thể lý do tiếp thu
hay không tiếp thu ý kiến và công bố công
khai trên trang thông tin điện tử của UBND
huyện. Do đó, công dân có thể kiểm tra lại
việc tiếp nhận, giải trình các ý kiến phản ánh
trên trên trang thông tin điện tử của UBND
huyện.
Thứ hai, cần bổ sung quy định về
bộ tiêu chí theo dõi, đánh giá và kiểm tra
hiệu quả của việc quản lý và SDĐ. Các tiêu
chí này dựa trên những căn cứ khi lập quy
hoạch, kế hoạch SDĐ nói chung và quy
hoạch, kế hoạch SDĐ hàng năm của cấp
huyện nói riêng. Tuy đây là bước cuối cùng
nhưng rất quan trọng của quá trình quản lý
nhà nước trong công tác lập quy hoạch, kế
hoạch SDĐ. Trong bộ tiêu chí về hiệu quả
SDĐ, phải thể hiện được quyền giám sát của
người dân trong từng giai đoạn của việc lập,
điều chỉnh và thực hiện kế hoạch SDĐ.
Thứ ba, cần bổ sung các chế tài cần
thiết khi có hành vi cản trở hoặc không tạo
điều kiện để bảo đảm công dân thực hiện
quyền giám sát. Cần phải cụ thể hóa các nội
dung của Điều 207 Luật Đất đai năm 2013
và Điều 97 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.
Các văn bản hiện hành cần quy định chi tiết
hơn đối với chế tài cho từng nhóm hành vi
thay vì quy định chung chung là áp dụng
theo các quy định của pháp luật có liên quan
đến cán bộ, công chức, viên chức khi thi
hành công vụ.
3. Kết luận
Quyền giám sát của công dân trong
quản lý và SDĐ là quy định tiến bộ, thể hiện
tính ưu việt của chế độ ta, là Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Điều này càng có ý nghĩa thiết thực đối với
một quốc gia có chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai. Việc thực thi quyền giám sát chính là
quyền thực thi quyền tối cao của chủ sở hữu
về đất đai (toàn dân) đối với chủ thể được
giao quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai
(Nhà nước). Quyền giám sát là cơ sở để thực
hiện các quyền như quyền tiếp cận thông tin,
quyền tham gia vào hoạt động quản lý nhà
nước và thực hiện dân chủ cơ sở, dân chủ
trực tiếp, dân chủ đại diện. Trong lĩnh vực
quản lý và SDĐ, đặc biệt là khâu lập, công
bố quy hoạch, kế hoạch SDĐ của cấp huyện,
hoạt động này là cơ sở để thực hiện một loạt
các hoạt động tiếp theo như: giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất. Do vậy, nếu hoạt động
này được thực hiện nghiêm túc sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và
SDĐ ở Việt Nam
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
41Số 17(345) T9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_dam_quyen_giam_sat_cua_cong_dan_doi_voi_viec_lap_cong_bo.pdf