Thứ nhất, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an cần
phối hợp ban hành văn bản liên tịch giải
thích nội hàm quyền im lặng của người bị
buộc tội, hướng trình tự, thủ tục và trách
nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố
tụng trong việc bảo đảm quyền im lặng của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của Tòa án.
Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ cho thẩm phán, hội
thẩm nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về
ý nghĩa, vai trò của việc bảo đảm thực hiện
quyền im lặng của bị cáo: im lặng là quyền
của bị cáo, những lời khai của bị cáo tại tòa
không phải là chứng cứ duy nhất để buộc tội
bị cáo; bảo đảm quyền im lặng phải được
thực hiện đồng thời với thực hiện nguyên tắc
“trách nhiệm chứng minh”, “suy đoán vô
tội”, “đảm bảo quyền bào chữa”. Tổ chức
tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
thẩm phán, hội thẩm nhân dân khi có hướng
dẫn về trình tự, thủ tục bảo đảm quyền im
lặng của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm các vụ
án hình sự.
Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho KSV; Nâng cao nhận
thức, kỹ năng và trách nhiệm của KSV trong
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động xét xử để góp phần bảo đảm quyền im
lặng của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự. KSV phải nắm chắc toàn bộ
tiến trình điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ hồ
sơ vụ án (bao gồm những chứng cứ buộc tội
và chứng cứ gỡ tội cho bị cáo), chuẩn bị tốt
cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Khi bị cáo
sử dụng quyền im lặng, KSV chỉ công bố các
chứng cứ thu thập được trong quá trình điều
tra, truy tố kết hợp với xét hỏi các bị cáo
khác, bị hại, người làm chứng tại phiên
tòa. Khi có những tình tiết mới phát sinh
chưa được kiểm tra làm rõ thì KSV đề nghị
ngay với Chủ tọa cho dừng phiên tòa, trả hồ
sơ để điều tra bổ sung.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm “quyền im lặng” của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm bảo đảm quyền im lặng của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự
Trong tố tụng hình sự (TTHS) ở nhiều
nước, quyền im lặng được coi “là sự phòng
vệ rất tự nhiên”1 của người bị buộc tội trước
sự cáo buộc của cơ quan công quyền. Pháp
luật cho phép khi người bị buộc tội “tự thấy
chưa đủ điều kiện về nhiều mặt như kiến
thức pháp luật, thể chất, tinh thần; họ cần
thời gian để bình tĩnh suy nghĩ cân nhắc, cần
có người trợ giúp về mặt pháp lý để tránh
tình trạng tự đưa mình vào tình thế bất lợi,
tự buộc tội chính mình”2. Theo đó, người bị
buộc tội “có quyền nói hoặc giữ im lặng
trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử.
Sự “im lặng” này không được coi là một lý
do để xác định có tội hay vô tội”3. Như vậy,
1 Võ Văn Tài, Trịnh Tuấn Anh (2015), Một số vấn đề lý luận về quyền im lặng trong TTHS, Tạp chí phát
triển KH&CN, tập 19, quyển 3, 2016, tr.90.
2 https://dantri.com.vn/xa-hoi/thuc-hien-quyen-im-lang-de-giam-toi-da-oan-sai-1435200544.htm.
3 Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm (2017), Quyền im lặng trên thế giới và gợi mở cho việc bảo đảm quyền
con người trong TTHS theo Hiến pháp năm 2013, trong Sách “Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến
pháp năm 2013”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.307.
BẢO ĐẢM “QUYỀN IM LẶNG” CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Võ Quốc Tuấn*
*TS. Chánh án Tòa án nhân dân TP. Nha Trang, Khánh Hòa.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Quyền im lặng, bảo đảm
quyền im lặng, bị cáo.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 20/5/2020
Biên tập : 04/6/2020
Duyệt bài : 10/6/2020
Article Infomation:
Keywords: Right to silence; assurance
of the right to silence; the accused
person
Article History:
Received : 20 May. 2020
Edited : 04 Jun. 2020
Approved : 10 Jun. 2020
Tóm tắt:
Hiến pháp năm 2013 và Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã
gián tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố
tụng hình sự. Vậy, cần phải bảo đảm thực hiện quyền này của bị
cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án
như thế nào? Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân
tích khái niệm, thực trạng bảo đảm quyền im lặng của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Tòa án Việt Nam
hiện nay và đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền im
lặng của bị cáo.
Abstract:
The Constitution of 2013 and the Criminal Procedure Code of
2015 both indirectly recognized the right of the accused persons
to silence in criminal proceedings. It is necessary to ensure
exercising this right of the defendant in the first instance trial of
criminal cases of the court. Within the scope of this article, the
author presents, analyzes the concept and the current situation to
ensure the right to silence of the defendant in the first instance
trial of criminal cases in the current Vietnamese Court and
proposes a number of recommendations to ensure the right of the
defendant to silence.
Số 13 (413) - T7/202020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
quyền im lặng của bị cáo là một yếu tố quan
trọng bảo đảm phiên tòa hình sự được diễn
ra công bằng, tiến bộ và là một trong những
yếu tố nhằm giảm án oan sai, tránh bức
cung, nhục hình trong hoạt động tố tụng.
Ở Việt Nam, quyền im lặng của người
bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng, tuy
chưa được ghi nhận trực tiếp và trở thành
một điều luật độc lập, nhưng xét về mặt nội
dung, quyền im lặng được gián tiếp ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013, các văn bản luật
như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ
luật TTHS năm 2015 và các văn bản dưới
luật khác. Theo đó, quyền im lặng của bị cáo
được thể hiện thông qua các quy định về
nguyên tắc hoạt động, chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Điểm h khoản 2 Điều 61 Bộ luật TTHS
năm 2015 quy định: bị cáo có quyền trình
bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc
phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội; khoản 3
Điều 309 quy định: nếu bị cáo không trả lời
các câu hỏi thì Hội đồng xét xử (HĐXX),
Kiểm sát viên (KSV), người bào chữa, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự tiếp tục hỏi những người khác và
xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến
vụ án. Xét về nội hàm, quy định bị cáo có
quyền không đưa ra lời khai chống lại chính
mình, “đồng nghĩa với việc người bị buộc tội
có quyền không khai những điều chứa đựng
thông tin bất lợi cho bản thân mình. Quy
định này có thể hiểu tương đương với quyền
im lặng”4. Như vậy, bị cáo có toàn quyền và
độc lập ý chí, tự chủ trong việc khai báo,
trình bày lời khai mà không phải là nghĩa vụ
bắt buộc, và cơ quan, người tiến hành tố
tụng, các chủ thể khác không được ép buộc
bị cáo phải khai báo.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai
đoạn bắt buộc của quá trình tố tụng trong
giải quyết vụ án hình sự. Bị cáo có quyền im
lặng tính từ thời điểm Tòa án quyết định đưa
vụ án hình sự ra xét xử, cho đến khi Tòa án
thực hiện các thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét
hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Tuy
nhiên, trong quá trình đó, không nên hiểu
quyền im lặng của bị cáo một cách tuyệt đối,
cứng nhắc là bị cáo có quyền không giao
tiếp, quyền không trả lời câu hỏi của người
tiến hành tố tụng mà bị cáo thực hiện quyền
im lặng có thể với một hoặc nhiều chủ thể
bằng việc từ chối trả lời, từ chối đưa ra lời
khai nếu lời khai có chứa đựng thông tin
chống lại họ hoặc buộc họ phải nhận mình
có tội. Ngược lại, đối với các câu hỏi khác
không chứa đựng thông tin chống lại hoặc
buộc bị cáo phải nhận mình có tội thì bị cáo
không cần thực hiện quyền im lặng. Điều đó
có nghĩa là quyền im lặng không mâu thuẫn
với quyền khai báo hay loại trừ quyền khai
báo mà tại phiên tòa bị cáo có quyền khai
báo. Pháp luật quy định việc nhận tội của bị
cáo luôn được xem là tình tiết giảm nhẹ
trong quyết định hình phạt đối với bị cáo. Do
vậy, không nên hiểu một cách máy móc,
cứng nhắc rằng, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự bị cáo thực hiện quyền im lặng
là không khai báo, bất hợp tác mà quyền im
lặng rộng hơn việc không khai báo.
Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật TTHS
năm 2015 quy định, Tòa án có nhiệm vụ bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Do vậy, một khi quyền im lặng
được pháp luật ghi nhận thì các cơ quan tố
tụng nói chung và Tòa án phải bảo đảm thực
hiện quyền đó cho bị cáo. Cụ thể, tại phiên
tòa, trong khi bị cáo thực hiện quyền im lặng,
người tiến hành tố tụng phải xem xét tất cả
các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn
điều tra cùng với các chứng cứ mới được thu
thập một cách công khai, khách quan, toàn
diện, đầy đủ; làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội; những tình
tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của bị cáo. Từ đó, Tòa án ra bản án và các
quyết định theo quy định của pháp luật xác
4
21Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
định là tội phạm và quyết định hình phạt đối
với người đã có hành vi phạm tội.
Sự ghi nhận bằng pháp luật đối với
quyền im lặng của bị cáo tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự chỉ mới là điều kiện
cần. Điều kiện đủ ở đây là cần phải tổ chức
thực hiện, áp dụng các quy định của pháp
luật đó vào thực tế và bảo đảm cho bị cáo sử
dụng quyền đó. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự, mặc dù có nhiều chủ thể
tham gia việc bảo đảm quyền im lặng của bị
cáo, tuy nhiên, các chủ thể chính là Chủ tọa
phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
(HTND), Kiểm sát viên (KSV), người bào
chữa. Những người này có nghĩa vụ thực
hiện hay không thực hiện những công việc
do luật quy định và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi và quyết
định của mình.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu,
bảo đảm quyền im lặng của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của Tòa án là việc ghi nhận bằng pháp luật
quyền im lặng của bị cáo; trách nhiệm các
chủ thể tham gia phiên tòa tạo điều kiện cần
thiết để bị cáo sử dụng quyền im lặng theo
quy định của pháp luật.
2. Thực tiễn bảo đảm quyền im lặng
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự hiện nay
Thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự những năm gần đây cho thấy,
HĐXX đã tạo điều kiện để bị cáo thực hiện
quyền im lặng của mình tại phiên tòa. Tình
trạng mớm cung, ép cung, bức cung được
hạn chế ở mức thấp nhất. Văn hóa xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm được cải thiện rõ rệt.
Những vụ án lớn, nghiêm trọng được dư
luận xã hội quan tâm đều được đưa ra xét xử
kịp thời, đúng pháp luật. Phần lớn ở các
phiên tòa, HĐXX đã thực hiện đúng đắn
nhiệm vụ của mình, thể hiện được vị trí, vai
trò trung tâm trong hoạt động tranh luận tại
phiên tòa, không có những biểu hiện hạn chế
thời gian tranh luận, hay định hướng việc
tranh luận giữa các bên theo đề cương xét xử
đã chuẩn bị trước. HĐXX đã xác định lời
khai của bị cáo tại tòa không phải căn cứ duy
nhất để định tội mà phải xem xét thấu đáo,
khách quan, toàn diện tại phiên tòa các
chứng cứ, tài liệu buộc tội, gỡ tội trên
nguyên tắc tôn trọng sự thật khách quan;
tranh tụng; suy đoán vô tội; độc lập trong xét
xử. Bản án của Tòa án tuyên đều dựa trên
kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Ở nhiều
phiên tòa, bị cáo sử dụng quyền im lặng
bằng cách không khai báo, không trả lời câu
hỏi của HĐXX, KSV “nhưng các cơ quan
tiến hành tố tụng vẫn xác định được sự thật
vụ án để buộc tội các bị cáo một cách “tâm
phục khẩu phục”5.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, việc bảo đảm quyền im lặng của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án còn tồn tại những bất cập
sau:
Pháp luật hiện hành chưa có điều khoản
cụ thể, độc lập để quy định về quyền im lặng
của bị cáo. Các quy định hiện hành đều gián
tiếp đề cập đến các khía cạnh của quyền im
lặng. Bên cạnh đó, “vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn về cách thức, trình tự, thủ tục
thực hiện; từ đó dẫn đến nhiều khó khăn,
lúng túng cho các cơ quan và người tiến
hành tố tụng khi giải quyết các vụ án6. Do
vậy, việc áp dụng pháp luật bảo vệ quyền im
lặng của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự “còn gây tranh cãi và chưa
được bảo vệ hiệu quả ở nước ta, nhất là khi
quyền tiếp cận luật sư của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo còn nhiều hạn chế”7 hoặc “do
kỹ thuật lập pháp không quy định trực tiếp
5 https://nld.com.vn/phap-luat/quyen-im-lang-hieu-sao-cho-dung-20170623231637035.htm.
6 https://kiemsat.vn/quyen-im-lang-cua-bi-cao-va-nhung-yeu-cau-voi-kiem-sat-vien-tai-phien-toa-hinh-su-
50450.html.
7 Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm (2017), Quyền im lặng trên thế giới và gợi mở cho việc bảo đảm quyền
con người trong TTHS theo Hiến pháp năm 2013, trong Sách “Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến
pháp năm 2013”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.312.
Số 13 (413) - T7/202022
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
quyền không trình bày lời khai mà chỉ có thể
hiểu gián tiếp nên thực tế những quy định
trên không được chấp hành nghiêm”8.
Quy định của pháp luật hiện hành vẫn
coi trọng địa vị pháp lý của những người tiến
hành tố tụng trong khi địa vị của người bào
chữa chưa hoàn toàn được độc lập với các
chủ thể khác. Điều này dẫn đến tâm lý của
người tiến hành tố tụng như thẩm phán, KSV
tự cho mình quyền năng cao hơn, đứng trên
các chủ thể khác trong phiên tòa. Bên cạnh
đó, phiên tòa xét xử hình sự vẫn còn nặng về
“xét hỏi”, làm cho cơ quan buộc tội không
chủ động tranh luận, trong khi Tòa án không
phát huy vai trò “trọng tài” chứng kiến, xem
xét cuộc tranh luận và vẫn coi là một bên của
tranh luận thì quyền bào chữa của bị cáo sẽ
không được thực hiện trên thực tế. Như vậy,
mặc dù pháp luật đã trao cho bị cáo quyền
chủ động, tích cực tham gia phiên tòa, sử
dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi cho mình
nhưng trước thực trạng trên, một số bị cáo
sử dụng quyền im lặng của mình một cách
thụ động như thực hiện quyền “không khai
báo” khi HĐXX xét hỏi.
Trong mô hình tố tụng ở nước ta hiện
nay, trong chừng mực nhất định, Tòa án còn
có vai trò “chi phối”, “định hướng” đến hoạt
động tranh luận tại phiên tòa. Trên thực tế,
trong nhiều vụ án xét xử sơ thẩm hình sự,
HĐXX chưa vô tư, công bằng trong việc tìm
kiếm sự thật khách quan của vụ án, trong khi
đó bị cáo không thực hiện quyền trình bày
lời khai bị đánh giá là “thiếu thành khẩn”,
“không hợp tác với cơ quan tố tụng”; nghi
can tự bào chữa bị coi là “quanh co, chối tội
hòng trốn tránh trách nhiệm”... tất cả những
tình tiết này đều bị tòa án dùng làm căn cứ
để quyết định mức án nặng hơn9.
Ở nhiều phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự gần đây, khi bị cáo sử dụng quyền im
lặng thì HĐXX, KSV lúng túng, bị động,
thiếu sự phối hợp bởi Bộ luật TTHS năm
2015 và các văn bản hướng dẫn thực hiện
“chưa có quy định cụ thể hoặc hướng dẫn;
hơn nữa chưa có tài liệu nghiệp vụ nào quy
định về cách thức, trình tự, thủ tục để các cơ
quan và người tiến hành tố tụng thực hiện khi
bị can, bị cáo thực hiện quyền im lặng”10.
Trong trường hợp này, Tòa án thường trả hồ
sơ cho Viện kiểm sát để tiến hành điều tra bổ
sung hoặc hoãn phiên tòa để điều tra bổ sung.
Người bào chữa chưa tích cực phát huy
hết trách nhiệm của mình trong việc tranh
luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự nên họ có xu hướng “cổ súy, nhiệt tình
ủng hộ các thân chủ của mình thực hiện
“quyền im lặng” ở các giai đoạn tố tụng,
nhất là khi vụ án được đưa ra xét xử”11.
Một số KSV làm nhiệm vụ thực hành
quyền công tố tại phiên tòa chưa quán triệt
nguyên tắc suy đoán vô tội; vẫn còn tư duy
coi bị cáo là người có tội theo bản cáo trạng
đã chuẩn bị sẵn, khi luận tội chỉ chú ý mục
tiêu bảo vệ các quan điểm của VKS trong
bản cáo trạng mà không xuất phát và căn cứ
vào kết quả điều tra công khai và tranh tụng
tại phiên tòa. Do vậy, khi tranh luận, KSV
chỉ chú ý đến bị cáo có tội hay không mà
chưa chú ý đến những điều kiện và nguyên
nhân phạm tội của bị cáo, những tình tiết
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Một số KSV
chưa thật sự tích cực trong việc đi tìm sự thật
khách quan của vụ án mà “giữ nguyên quan
điểm như cáo trạng”, cá biệt có KSV từ chối
tham gia phiên tòa mà không có lý do chính
đáng12. Do đó, việc bị cáo sử dụng quyền im
lặng của mình tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự như là “vũ khí phòng vệ”.
8 https://dantri.com.vn/xa-hoi/thuc-hien-quyen-im-lang-de-giam-toi-da-oan-sai-1435200544.htm.
9 https://dantri.com.vn/xa-hoi/thuc-hien-quyen-im-lang-de-giam-toi-da-oan-sai-1435200544.htm.
10 https://kiemsat.vn/quyen-im-lang-cua-bi-cao-va-nhung-yeu-cau-voi-kiem-sat-vien-tai-phien-toa-hinh-su-
50450.html.
11 https://kiemsat.vn/quyen-im-lang-cua-bi-cao-va-nhung-yeu-cau-voi-kiem-sat-vien-tai-phien-toa-hinh-su-
50450.html.
12
23Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Ở một số phiên tòa, chủ tọa chưa chú ý
đến thực hiện nguyên tắc dân chủ, công khai
minh bạch, chưa đề cao tranh tụng mà còn
nặng về xét hỏi; không bảo đảm quyền được
thể hiện ý kiến, quan điểm của người bào
chữa đối với bị cáo. Chủ tọa vẫn dành quyền
hỏi nhiều hơn so với KSV và luật sư. Một số
chủ tọa phiên tòa không chỉ hỏi mà còn đưa
ra quan điểm nhận xét, bình luận các ý kiến
và đánh giá về lời khai, giáo dục bị cáo. Do
vậy, bị cáo có tâm lý không hợp tác và họ sử
dụng quyền im lặng. Khi bị cáo sử dụng
quyền im lặng, những người tiến hành tố
tụng cho rằng, bị cáo không thành khẩn,
không hợp tác, thậm chí coi đây là tình tiết
tăng nặng.
3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm
quyền im lặng của bị cáo trong hoạt động
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Để bảo đảm quyền im lặng của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự, chúng tôi cho rằng, cần thực hiện
một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an cần
phối hợp ban hành văn bản liên tịch giải
thích nội hàm quyền im lặng của người bị
buộc tội, hướng trình tự, thủ tục và trách
nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố
tụng trong việc bảo đảm quyền im lặng của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của Tòa án.
Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ cho thẩm phán, hội
thẩm nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về
ý nghĩa, vai trò của việc bảo đảm thực hiện
quyền im lặng của bị cáo: im lặng là quyền
của bị cáo, những lời khai của bị cáo tại tòa
không phải là chứng cứ duy nhất để buộc tội
bị cáo; bảo đảm quyền im lặng phải được
thực hiện đồng thời với thực hiện nguyên tắc
“trách nhiệm chứng minh”, “suy đoán vô
tội”, “đảm bảo quyền bào chữa”... Tổ chức
tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
thẩm phán, hội thẩm nhân dân khi có hướng
dẫn về trình tự, thủ tục bảo đảm quyền im
lặng của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm các vụ
án hình sự.
Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho KSV; Nâng cao nhận
thức, kỹ năng và trách nhiệm của KSV trong
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động xét xử để góp phần bảo đảm quyền im
lặng của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự. KSV phải nắm chắc toàn bộ
tiến trình điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ hồ
sơ vụ án (bao gồm những chứng cứ buộc tội
và chứng cứ gỡ tội cho bị cáo), chuẩn bị tốt
cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Khi bị cáo
sử dụng quyền im lặng, KSV chỉ công bố các
chứng cứ thu thập được trong quá trình điều
tra, truy tố kết hợp với xét hỏi các bị cáo
khác, bị hại, người làm chứng tại phiên
tòa. Khi có những tình tiết mới phát sinh
chưa được kiểm tra làm rõ thì KSV đề nghị
ngay với Chủ tọa cho dừng phiên tòa, trả hồ
sơ để điều tra bổ sung.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực
cho đội ngũ luật sư bảo vệ bị cáo. Để nắm
được các tình tiết của vụ án, bảo vệ tốt các
quyền của bị cáo, luật sư phải theo dõi mọi
diễn biến tại phiên toà, lắng nghe các câu hỏi
của HĐXX, KSV, người bão chữa và các câu
trả lời của những người bị hỏi. Khi được hỏi,
luật sư phải đặt những câu hỏi sắc bén, ngắn
gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng
của vụ án nhưng chưa được làm sáng tỏ và
có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ. Luật
sư không nên cổ súy, hướng dẫn bị cáo sử
dụng quyền im lặng một cách thụ động mà
gây khó khăn cho các chủ thể khác.
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về quyền im lặng cho bị cáo
tại phiên tòa hình sự để họ hiểu và sử đụng
đúng quyền của mình. Tại phiên tòa, chủ tọa
cần giải thích rõ quyền không buộc phải đưa
ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận mình có tội cho bị cáo. Chủ tọa
phải giải thích để bị cáo hiểu rõ khi nào nên
sử dụng quyền im lặng và sử dụng như thế
nào giúp bị cáo ăn năn hối cải mà thành thật
khai báo để hưởng sự giảm nhẹ, khoan hồng
của pháp luật n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_dam_quyen_im_lang_cua_bi_cao_trong_hoat_dong_xet_xu_so_t.pdf