Thứ ba, sửa đổi khoản 1 Điều 19 Luật
KDBH theo hướng cho phép một bên có
quyền từ chối cung cấp thông tin nếu
thông tin được yêu cầu cung cấp không rõ
ràng hoặc bên được yêu cầu cho rằng
không cần thiết phải cung cấp. Dựa vào
thực tiễn một bên từ chối cung cấp thông
tin, bên còn lại tự cân nhắc việc có giao
kết HĐBH hay không.
Thứ tư, về hậu quả pháp lý của việc một
bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin:
Nếu thời điểm phát hiện một bên vi phạm
nghĩa vụ cung cấp thông tin trước khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra thì bên bị vi phạm có
quyền tuyên bố đơn phương đình chỉ HĐBH
nhân thọ. Nếu thời điểm phát hiện một bên
vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin sau khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra thì tòa án chỉ có
quyền tuyên bố vô hiệu nếu thông tin bị cho
là lừa dối là nguyên nhân xảy ra sự kiện bảo
hiểm; trường hợp thông tin bị cho là lừa dối
là không phải nguyên nhân xảy ra sự kiện
bảo hiểm thì DNBH vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận
trong HĐBH.
Thứ năm, sửa đổi khoản 4 điều 34 Luật
KDBH theo hướng ghi nhận việc khôi phục
hiệu lực của HĐBH là “tự do thỏa thuận” mà
không đi kèm các điều kiện như đã phân tích
tại mục 1. Đồng thời, cần xác định nguyên
tắc DNBH im lặng thu phí của người mua
bảo hiểm là đồng ý khôi phục hiệu lực của
hợp đồng, trừ khi người mua bảo hiểm khôi
phục hiệu lực của HĐBH là có yếu tố trục
lợi bảo hiểm.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bất cập trong quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51Số 15 (415) - T8/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Trần Minh Hiệp
ThS. Khoa Luật Thương mại – Trường Đại học Luật Tp. HCM.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bảo hiểm nhân thọ,
hợp đồng bảo hiểm.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 29/03/2020
Biên tập : 15/04/2020
Duyệt bài : 22/04/2020
Article Infomation:
Key words: Life insurance,
insurance contracts
Article History:
Received : 29 Mar. 2020
Edited : 15 Apr. 2020
Approved : 22 Apr. 2020
Tóm tắt:
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) vừa là một hình thức chuyển giao rủi ro,
vừa là một hình thức đầu tư tài chính. Mục tiêu của BHNT là đảm bảo
khả năng chi trả các chi phí tài chính của người thụ hưởng khi có sự
kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm (NĐBH). Trong quan
hệ BHNT, do hạn chế về trình độ chuyên môn và khả năng đàm phán
trực tiếp với doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), người mua bảo hiểm
thường ở vị thế bất lợi hơn trong việc thỏa thuận dẫn đến nguy cơ từ
chối chi trả bảo hiểm. Vì vậy, các quy định của pháp luật trở thành yếu
tố quan trọng chi phối đến hợp đồng bảo hiểm (HĐBH). Tuy nhiên,
trong giai đoạn hiện nay, một số quy định của pháp luật về hợp đồng
BHNT đã không còn phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và xu thế phát
triển chung của thế giới. Điều này vừa là rào cản cho sự phát triển của
thị trường BHNT, vừa không bảo đảm được quyền lợi chính đáng của
NĐBH hoặc người thụ hưởng.
Abstract:
Life insurance is not only a form of risk transfer but also a form of
financial investment. The goal of life insurance is to ensure the
beneficiary’s ability for financial expenses when an insured event occurs
to the insurance clients. In the relationship of insurance, due to limited
professional qualifications and the ability to negotiate directly with the
insurance service providers, the insurance clients are often in a
disadvantageous position in the agreement, which may lead to the risk
of rejection of the insurance payout. Therefore, the provisions of the law
become an important factor governing the insurance contract. However,
in the current period, some provisions of the law on life insurance
contracts are no longer appropriate with reality in Vietnam and the
general development trend of the world. This is a barrier to the
development of the life insurance market, and to the eligible interests of
the insurance clients or the beneficiaries.
1. Một số bất cập trong quy định của
pháp luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ
Giao kết hợp đồng bảo hiểm con người
cho trường hợp chết
Mục đích của việc mua bảo hiểm cho
trường hợp chết của người khác là nhằm thực
hiện nghĩa vụ của NĐBH cho người được
nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Do đó, NĐBH phải
được biết người thụ hưởng là ai và số tiền
bảo hiểm bao nhiêu tại thời điểm giao kết
HĐBH1. Dưới góc độ đạo đức, quy định này
nhằm đảm bảo người mua bảo hiểm không
trục lợi từ sự kiện chết của NĐBH. Tuy
1 Khoản 1 Điều 38 Luật KDBH.
Số 15 (415) - T8/202052
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nhiên, đoạn hai khoản 1 Điều 38 Luật Kinh
doanh bảo hiểm (KDBH) quy định: “Mọi
trường hợp thay đổi người thụ hưởng phải có
sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo
hiểm”. Quy định này vừa thừa, vừa thiếu.
Thừa bởi vì, thay đổi người thụ hưởng là thay
đổi nội dung của HĐBH thì đương nhiên
phải được người mua bảo hiểm đồng ý; thiếu
bởi vì, bên mua bảo hiểm có thể tùy ý thay
đổi người thụ hưởng mà không cần ý kiến
của NĐBH. Nội dung này bị xung đột với
quy định của khoản 1 Điều 38 Luật KDBH.
Các trường hợp không trả tiền bảo
hiểm
Nhằm loại bỏ hành vi trục lợi bảo hiểm,
Luật KDBH quy định 3 trường hợp không
được trả tiền bảo hiểm do có yếu tố trục lợi
từ người mua bảo hiểm, NĐBH hoặc người
thụ hưởng2. Về vấn đề này, chúng tôi có một
số nhận xét như sau:
Thứ nhất, điểm a khoản 1 Điều 39 Luật
KDBH quy định: “DNBH không phải trả
tiền bảo hiểm trong trường hợp NĐBH chết
do tự tử trong thời hạn hai năm, kể từ ngày
nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ
ngày HĐBH tiếp tục có hiệu lực”. Quy định
này nhằm loại bỏ tình trạng trục lợi bảo
hiểm. Hai năm được xác định là khoảng thời
gian cần thiết cho NĐBH quên đi ý định tự
tử để trục lợi bảo hiểm hình thành vào ngày
nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc hoặc
vào ngày đóng phí gia hạn hiệu lực của
HĐBH. Dưới góc độ tâm lý, trừ những
người bị tâm thần phân liệt, tự tử là hành vi
bộc phát mang tính ngắn hạn3. Do đó,
khoảng thời gian bị loại trừ bảo hiểm đến 2
năm là quá dài. Khoảng thời gian khá dài
này làm cho hành vi tự tử và ý thức trục lợi
bảo hiểm không còn liên quan nhau. Chúng
tôi cho rằng, quy định này gây bất lợi cho
người thụ hưởng khi NĐBH không có ý thực
trục lợi bảo hiểm.
Bên cạnh đó, pháp luật chưa quy định rõ
đối với trường hợp NĐBH tự tử khi đang
mắc bệnh tâm thần thì người thụ hưởng có
được trả tiền bảo hiểm hay không? Theo đó,
giả định tại thởi điểm giao kết HĐBH,
NĐBH không mắc bệnh tâm thần. Trong
thời hạn 2 năm tính từ ngày đóng khoản phí
bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày HĐBH
tiếp tục có hiệu lực thì NĐBH bị bệnh tâm
thần và có hành vi tự tử. Căn cứ theo quy
định tại khoản điểm a khoản 1 Điều 39 Luật
KDBH thì DNBH có quyền từ chối trả tiền
bảo hiểm.
Thứ hai, điểm b khoản 1 Điều 39 Luật
KDBH quy định: “DNBH không phải trả
tiền bảo hiểm trong trường hợp NĐBH chết
hoặc bị thương tật vĩnh viễn do lỗi cố ý của
bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người
thụ hưởng”. Trong trường hợp này, “DNBH
vẫn phải trả tiền bảo hiểm cho những người
thụ hưởng khác theo thoả thuận trong
HĐBH”4. Chúng tôi nhận thấy có 2 vấn đề
phát sinh:
Một là, nếu người mua bảo hiểm chỉ
định nhiều người thụ hưởng thì những người
thụ hưởng còn lại vẫn được trả tiền bảo
hiểm. Tuy nhiên, pháp luật không quy định
số tiền thụ hưởng của mỗi người vẫn giữ
nguyên theo chỉ định của người mua bảo
hiểm hay được hưởng thêm phần của người
thụ hưởng bị tước quyền thụ hưởng.
Hai là, nếu người mua bảo hiểm chỉ
định một người thụ hưởng hoặc nhiều người
thụ hưởng nhưng tất cả những người thụ
hưởng đều cố ý gây ra cái chết hoặc bị
thương tật vĩnh viễn cho NĐBH thì DNBH
không phải trả tiền bảo hiểm mà chỉ “trả cho
bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của
HĐBH hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã
đóng sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên
quan”. Chúng tôi cho rằng, quy định này
2 Xem khoản 1 Điều 39 Luật KDBH.
3 Xem thêm tại truy cập ngày 20/3/2020.
4 Xem khoản 2 điều 39 Luật KDBH.
53Số 15 (415) - T8/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
chưa hợp lý vì lý do sau: Bản chất của
BHNT là đầu tư tài chính, do giá trị của số
tiền bảo hiểm và giá trị hoàn lại của HĐBH
hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng sau
khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan có
sự chênh lệch rất hớn, nên người mua bảo
hiểm với tư cách là nhà đầu tư hoàn toàn có
quyền chỉ định người khác là người thụ
hưởng nhằm tối đa hóa kết quả đầu tư; hoặc
trong trường hợp, người mua bảo hiểm chỉ
định người thụ hưởng theo cơ chế thiết lập
thứ tự ưu tiên thì xử lý như thế nào? Có ý
kiến cho rằng, cần ghi nhận quyền chỉ định
người thụ hưởng bổ sung nếu người thụ
hưởng cố ý gây ra cái chết hoặc bị thương
tật vĩnh viễn cho NĐBH mà không còn
người thụ hưởng khác được chỉ định trước
đó trong HĐBH5.
Thứ ba, điểm c khoản 1 Điều 39 Luật
KDBH quy định: “DNBH không phải trả
tiền bảo hiểm trong trường hợp NĐBH chết
do bị thi hành án tử hình”. Cố ý phạm tội
một cách đặc biệt nghiêm trọng để được/bị
tử hình (mong muốn phát sinh sự kiện bảo
hiểm) nhằm mang lại lợi ích cho người thụ
hưởng cũng là một hình thức trục lợi bảo
hiểm. Tuy nhiên, quy định trên rõ mục đích
là nhằm: (i) loại bỏ ý định trục lợi bằng hành
vi phạm tội để được/bị tử hình hay (ii) trừng
phạt NĐBH do có hành vi phạm tội nên
không được thực hiện quyền, nghĩa vụ nuôi
dưỡng, cấp dưỡng với người thụ hưởng.
Nếu ở khía cạnh thứ nhất, chúng tôi cho
rằng cần ấn định một khoảng thời gian từ
ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc
vào ngày đóng phí gia hạn hiệu lực của
HĐBH đến ngày NĐBH thực hiện hành vi
phạm tội (khác với ngày bị thi hành án tử
hình). Khoảng thời gian này cần thiết bằng
với khoảng thời gian tại điểm a khoản 1 Điều
39 Luật KDBH để NĐBH phạm tội không
vì ý định trục lợi bảo hiểm.
Nếu ở khía cạnh thứ hai, dù NĐBH có
phạm tội như thế nào thì quyền được nuôi
dưỡng, cấp dưỡng của người thụ hưởng phải
được pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo
đó, sự kiện NĐBH chết do bị thi hành án tử
hình đã làm mất đi người nuôi dưỡng, cấp
dưỡng đối với người thụ hưởng. Do đó,
quyền và lợi ích của người thụ hưởng vẫn
phải được bảo đảm.
Về nghĩa vụ cung cấp thông tin và hậu
quả pháp lý
Thông tin được một bên cung cấp chính
là yêu tố quan trọng để bên còn lại quyết
định giao kết hoặc không giao kết HĐBH.
Trong BHNT, thông thường DNBH sẽ gửi
cho người mua bảo hiểm một danh sách các
câu hỏi với cấu trúc trả lời là có hoặc không.
Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi
không bàn về nội dung thông tin cần cung
cấp mà chỉ đề cập đến 2 khía cạnh sau:
Thứ nhất, cung cấp thông tin trong hợp
đồng BHNT là quyền hay nghĩa vụ của
người mua bảo hiểm. Khoản 1 Điều 19 Luật
KDBH quy định: “Bên mua bảo hiểm có
trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên
quan đến đối tượng bảo hiểm cho DNBH”.
Như vậy, pháp luật KDBH xác định cung
cấp thông tin là nghĩa vụ bắt buộc của người
mua bảo hiểm. Giả định trường hợp DNBH
đặt một câu hỏi khó theo kiểu là “đã từng”
hoặc “có thường uống chất có cồn không?
Nếu có thì loại gì? Bao nhiêu ml/tuần”6,
người mua không chắc chắn về câu trả lời
nên không trả lời hoặc trả lời là “không biết”
thì có vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin
hay không? Hoặc ngược lại nếu người mua
bảo hiểm yêu cầu DNBH cung cấp báo cáo
tài chính 3 năm gần nhất của DNBH. Vì giữ
5 Xem thêm Trần Vũ Hải, Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách chuyên
khảo, Nxb. Tư pháp, 2006, tr.148.
6 Xem tại https://www.prudential.com.vn/export/sites/prudential-vn/.content/HSYCBHNT-MAU-15.pdf , truy
cập ngày 16/3/2020.
Số 15 (415) - T8/202054
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
bí mật tài chính, DNBH từ chối cung cấp thì
có bị xem là vi phạm nghĩa vụ cung cấp
thông tin hay không? Chúng tôi cho rằng,
Luật KDBH nên ghi nhận quyền từ chối
cung cấp thông tin của người mua bảo hiểm
và DNBH nếu một bên nhận thấy không thể
cung cấp chính xác hoặc không cần thiết
phải cung cấp.
Thứ hai, quy định của pháp luật về xử lý
hậu quả nếu một bên vi phạm nghĩa vụ cung
cấp thông tin. Theo đó, khoản 2 và khoản 3
Điều 19 Luật KDBH áp dụng chế tài đơn
phương đình chỉ hợp đồng nếu một bên “cố
ý cung cấp thông tin sai sự thật cho bên còn
lại”. Trong khi đó, điểm d khoản 1 Điều 22
Luật KDBH quy định hành vi “lừa dối khi
giao kết HĐBH” của một bên được coi là
căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tuy
nhiên, “mấu chốt của vấn đề chính là, pháp
luật không nói rõ, lúc nào hành vi cố ý cung
cấp thông tin sai sẽ dẫn đến hợp đồng vô
hiệu và lúc nào thì đơn phương chấm dứt
hợp đồng”7.
Khôi phục hiệu lực của hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ
Thời hạn bảo hiểm trong BHNT thường
rất dài. Do đó, khả năng dự báo về năng lực
đóng phí của người mua rất thấp. Việc vi
phạm nghĩa vụ đóng phí dẫn đến hợp đồng
bị chấm dứt là hoàn toàn có thể xảy ra.
Nhằm bảo vệ quyền lợi các bên, khoản 4
điều 34 Luật KDBH quy định cho phép các
bên có quyền thỏa thuận khôi phục hiệu lực
của HĐBH. Tuy nhiên, quy định này còn tồn
tại nhiều hạn chế:
Thứ nhất, về hình thức khôi phục hiệu
lực của hợp đồng BHNT, khoản 4 Điều 34
Luật KDBH quy định: “Các bên có thể thoả
thuận khôi phục hiệu lực HĐBH đã bị đơn
phương đình chỉ thực hiện theo quy định”.
Như vậy, pháp luật không quy định chi tiết
trình tự, thủ tục để khôi phục hiệu lực của
hợp đồng BHNT bị đơn phương đình chỉ mà
chỉ ghi nhận “các bên có thể thỏa thuận”.
Thực tiễn cho thấy, do khó khăn về tài chính
chỉ mang tính ngắn hạn, khi bị trễ hạn đóng
phí bảo hiểm, người mua thường chọn giải
pháp là đóng phí bù cho thời gian còn nợ phí
và mặc nhiên xem như hoàn thành nghĩa vụ
đóng phí. Khi thực hiện việc đóng bù phí bảo
hiểm, người mua bảo hiểm không nhận bất
kỳ phản hồi nào từ DNBH về trình tự, thủ
tục khôi phục hiệu lực của hợp đồng BHNT.
Tuy nhiên, trong bộ quy tắc bảo hiểm,
DNBH thường ghi nhận việc khôi phục hiệu
lực của hợp đồng BHNT phải được thỏa
thuận giữa người mua bảo hiểm và DNBH8.
Như vậy, trong trường hợp này, sự im lặng
của DNBH khi nhận phí thanh toán bù cho
thời gian vi phạm của người mua bảo hiểm
không được coi là đồng ý khôi phục hiệu lực
của hợp đồng BHNT. Theo đó, người mua
bảo hiểm vẫn tiếp tục đóng phí nhưng sẽ
không được trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện
bảo hiểm xảy ra.
Thứ hai, về điều kiện khôi phục hiệu lực
của HĐBH: Căn cứ theo khoản 4 Điều 64
Luật KDBH thì việc khôi phục hiệu lực của
hợp đồng BHNT chỉ được thực hiện khi thỏa
mãn 3 điều kiện:
Một là, thời hạn hợp đồng BHNT đã bị
DNBH đơn phương đình chỉ không được
quá 2 năm tính đến ngày người mua bảo
hiểm và DNBH thỏa thuận khôi phục hiệu
7 Nguyễn Thị Thủy, Pháp luật hợp đồng bảo hiểm con người, Sách chuyên khảo, Nxb. Hồng Đức, 2017, tr.169.
8 Điểm k khoản 12.1 Bộ Quy tắc và điều khoản sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết chung đóng phí định kỳ
quy định khi “Bên mua bảo hiểm và Người được bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác, trung
thực các thông tin về nhân thân, sức khỏe, nghề nghiệp trong hồ sơ yêu cầu khôi phục hiệu lực Hợp đồng
bảo hiểm và tuân thủ các điều kiện đã thỏa thuận tại Quy tắc, Điều khoản này. Nếu Bên mua bảo hiểm vi
phạm các nghĩa vụ quy định tại Điều này, yêu cầu khôi phục hiệu lực Hợp đồng bảo hiểm sẽ bị hủy bỏ”.
Xem https://www.prudential.com.vn/export/sites/prudential-vn/.content/Phu-Toan-Gia-Hung-Thinh-Dieu-
Kien-Dieu-Khoan.pdf, truy cập ngày 15/3/2020.
55Số 15 (415) - T8/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
lực của hợp đồng. Chúng tôi cho rằng, khôi
phục hiệu lực bảo hiểm là nhằm đảm bảo
quyền lợi của các bên được tiếp tục thực
hiện. Vì vậy, việc pháp luật giới hạn thời hạn
khôi phục là không cần thiết.
Hai là, người mua bảo hiểm đã đóng đủ
số phí bảo hiểm còn thiếu. Đây là điều kiện
cần thiết đảm bảo cho hợp đồng tiếp tục có
hiệu lực. Tuy nhiên, hành vi chậm trễ đóng
phí bảo hiểm chỉ được thực hiện bằng việc
đóng đủ phí bảo hiểm còn thiếu mà không bị
áp dụng bất kỳ chế tài nào là chưa phù hợp
với bản chất của hoạt động đầu tư tài chính.
Điều này dẫn đến sự không bình đẳng giữa
những người mua bảo hiểm trong việc thực
hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm.
Ba là, việc khôi phục hiệu lực hợp đồng
BHNT chỉ được thực hiện trong trường hợp
hợp đồng BHNT bị đơn phương đình chỉ khi
người mua bảo hiểm đã đóng bảo hiểm dưới
2 năm. Ngược lại, nếu người mua bảo hiểm
đã đóng bảo hiểm từ 2 năm trở lên thì các
bên không được thỏa thuận khôi phục hiệu
lực của hợp đồng. Chúng tôi cho rằng, nếu
người mua bảo hiểm đóng bảo hiểm từ 2
năm trở lên thì trong trường hợp hợp đồng
BHNT bị DNBH đơn phương đình chỉ thì
người mua bảo hiểm được nhận giá trị hoàn
lại. Do đó, các bên không được thỏa thuận
khôi phục hiệu lực của hợp đồng BHNT. Tuy
nhiên, khả năng vi phạm nghĩa vụ đóng phí
của người mua BHNT là phổ biến. Do đó,
việc thỏa thuận khôi phục hiệu lực của hợp
đồng BHNT nếu đạt được sẽ đảm bảo quyền
lợi của người thụ hưởng bảo hiểm. Giả định
nếu người mua bảo hiểm đã đóng bảo hiểm
từ 2 năm trở lên và vi phạm nghĩa vụ đóng
phí. DNBH tuyên bố đơn phương đình chỉ
hiệu lực của hợp đồng bỏ hiểm nhưng người
mua bảo hiểm chưa nhận giá trị hoàn lại. Sau
đó, người mua bảo hiểm muốn khôi phục
hiệu lực của hợp đồng BHNT đã bị chấm dứt
thì không thể thực hiện được theo quy định
của pháp luật.
Bốn là, việc khôi phục hiệu lực của
HĐBH chỉ áp dụng trong trường hợp hợp
đồng BHNT bị DNBH đơn phương đình chỉ
do người mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ
đóng phí mà không bao gồm các trường hợp
khác. Bởi vì, việc hợp đồng bị đơn phương
đình chỉ bởi một bên trong quan hệ hợp đồng
có rất nhiều lý do khác nhau như người mua
chậm khắc phục các biện pháp hạn chế rủi ro,
vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin nên bị
đình chỉ nhưng sau đó đã kịp thời cung cấp
thông tin đầy đủ Việc giới hạn các trường
hợp khôi phục hiệu lực của hợp đồng BHNT
là không cần thiết và vi phạm quyền tự quyết
của các bên trong quan hệ hợp đồng9.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định
của pháp luật điều chỉnh hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ
Với mục tiêu bảo vệ quyền lợi của
NĐBH hoặc người thụ hưởng, đồng thời
đảm bảo thị trường BHNT phát triển minh
bạch, cần thiết phải có những sửa đổi, bổ
sung các quy định điều chỉnh quan hệ
HĐBH nhân thọ. Chúng tôi đề xuất một số
kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật
điều chỉnh hợp đồng BHNT như sau:
Thứ nhất, sửa đổi đoạn hai khoản 1 Điều
38 Luật KDBH theo hướng đảm bảo tính lô
gích và thống nhất với đoạn thứ nhất của
điều này và bảo vệ được quyền lợi của
NĐBH. Theo đó, đoạn hai khoản 1 Điều 38
được viết lại như sau: “Mọi trường hợp thay
đổi người thụ hưởng và số tiền bảo hiểm
phải có sự đồng ý bằng văn bản của NĐBH”.
Thứ hai, nhằm bảo vệ quyền lợi của
người thụ hưởng, cần sửa đổi các trường hợp
hợp đồng được trả tiền bảo hiểm như sau:
Một là, điểm a khoản 1 Điều 39 Luật
KDBH sửa đổi theo hướng giảm thời gian
theo quy định tại khoản này từ 2 năm xuống
9 Xem them Trần Minh Hiệp, Về thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 05(78), năm 2013, tr.37-43.
Số 15 (415) - T8/202056
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
còn 1 năm. Khoảng thời gian này là đủ để
loại bỏ mối liên hệ giữa hành vi mua bảo
hiểm và ý định tự tử để trục lợi bảo hiểm.
Hai là, bổ sung vào điểm c khoản 1 Điều
39 Luật KDBH quy định về thời hạn tính từ
ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc
kể từ ngày HĐBH tiếp tục có hiệu lực đến
ngày thực hiện hành vi phạm tội mà khi xét
xử, tội phạm đó bị áp dụng hình phạt tử
hình. Khoảng thời hạn này bằng với khoảng
thời hạn quy định tại điểm a khoản 1 Điều
39 Luật KDBH.
Ba là, bổ sung vào khoản 2 Điều 39 Luật
KDBH hai nội dung sau:
(i) Nếu tất cả những người thụ hưởng
đều có lỗi cố ý gây ra cái chết hoặc thương
tật vĩnh viễn cho NĐBH thì người mua bảo
hiểm có quyền chỉ định người thụ hưởng tiếp
theo; trường hợp người mua bảo hiểm không
thể chỉ định người thụ hưởng thì người thụ
hưởng là người thừa kế của NĐBH.
(ii) Trong trường hợp, một hoặc một số
người thụ hưởng cố ý gây ra cái chết hay
thương tật vĩnh viễn cho NĐBH, DNBH vẫn
phải trả tiền bảo hiểm cho những người thụ
hưởng khác theo thoả thuận trong HĐBH, số
tiền bảo hiểm của một hoặc một số người thụ
hưởng bị tước quyền thụ hưởng sẽ được xử
lý theo quy định tại trường hợp (i).
Thứ ba, sửa đổi khoản 1 Điều 19 Luật
KDBH theo hướng cho phép một bên có
quyền từ chối cung cấp thông tin nếu
thông tin được yêu cầu cung cấp không rõ
ràng hoặc bên được yêu cầu cho rằng
không cần thiết phải cung cấp. Dựa vào
thực tiễn một bên từ chối cung cấp thông
tin, bên còn lại tự cân nhắc việc có giao
kết HĐBH hay không.
Thứ tư, về hậu quả pháp lý của việc một
bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin:
Nếu thời điểm phát hiện một bên vi phạm
nghĩa vụ cung cấp thông tin trước khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra thì bên bị vi phạm có
quyền tuyên bố đơn phương đình chỉ HĐBH
nhân thọ. Nếu thời điểm phát hiện một bên
vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin sau khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra thì tòa án chỉ có
quyền tuyên bố vô hiệu nếu thông tin bị cho
là lừa dối là nguyên nhân xảy ra sự kiện bảo
hiểm; trường hợp thông tin bị cho là lừa dối
là không phải nguyên nhân xảy ra sự kiện
bảo hiểm thì DNBH vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận
trong HĐBH.
Thứ năm, sửa đổi khoản 4 điều 34 Luật
KDBH theo hướng ghi nhận việc khôi phục
hiệu lực của HĐBH là “tự do thỏa thuận” mà
không đi kèm các điều kiện như đã phân tích
tại mục 1. Đồng thời, cần xác định nguyên
tắc DNBH im lặng thu phí của người mua
bảo hiểm là đồng ý khôi phục hiệu lực của
hợp đồng, trừ khi người mua bảo hiểm khôi
phục hiệu lực của HĐBH là có yếu tố trục
lợi bảo hiểm.
Tóm lại, mua BHNT là nhu cầu tất yếu
của nền kinh tế, khi mà con người có nhu
cầu bảo đảm các khoản chi trả tài chính
trong tương lai. Trong khi đó, tỷ lệ mua
BHNT tại Việt Nam còn rất thấp so với các
quốc gia trên thế giới (90% dân số Mỹ mua
BHNT, người Việt chỉ là 8%)10. Bên cạnh
những yếu tố như thu nhập còn thấp, ít có
tâm lý phòng ngừa rủi ro thì rào cản về
pháp lý là một trong những yếu tố làm mất
niềm tin của người mua bảo hiểm vào
BHNT. Pháp luật BHNT Việt Nam phải
được ban hành theo hướng bảo vệ quyền lợi
người mua bảo hiểm, thay người mua bảo
hiểm ghi nhận các quy định mang tính
phòng ngừa, bảo vệ tối đa lợi ích của NĐBH
hoặc người thụ hưởng khi người mua bảo
hiểm không đủ năng lực thỏa thuận, đàm
phán HĐBH11.
10 Xem thêm tại
50.htm, truy cập ngày 15/3/2020.
11 Xem thêm: Trần Vũ Hải, Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm nhân thọ và
một số kiến nghị, Tạp chí Luật học, Số 7(146), năm 2013, tr.22-29.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bat_cap_trong_quy_dinh_cua_phap_luat_dieu_chinh_hop_dong_bao.pdf