Thứ ba, cần sửa đổi Luật Xử lý VPHC
năm 2012 theo hướng áp dụng nguyên tắc
giảm bớt trung bình cộng trong trường hợp
có TTGN như sau:
Đối với hình thức xử phạt tiền: “Mức
phạt tiền cụ thể đối với một hành vi vi phạm
là mức trung bình của khung tiền phạt được
quy định đối với hành vi đó.
Trường hợp có một TTGN thì áp dụng
mức trung bình giảm bớt. Mức trung bình
giảm bớt được xác định bằng cách chia đôi
tổng số của mức tối thiểu và mức trung bình.
Trường hợp có từ hai TTGN thì áp
dụng mức tối thiểu của khung tiền phạt.
Trường hợp vừa có tình tiết tăng nặng và
TTGN thì bù trừ theo nguyên tắc một tình
tiết tăng nặng trừ cho một TTGN”.
Đối với hình thức xử phạt “tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
thì quy định như sau: “Thời hạn tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
hoặc thời hạn đình chỉ hoạt động cụ thể đối
với một hành vi vi phạm là mức trung bình
của khung thời gian tước hoặc đình chỉ hoạt
động được quy định đối với hành vi đó.
Trường hợp có một TTGN thì áp dụng
mức trung bình giảm bớt. Mức trung bình
giảm bớt được xác định bằng cách chia đôi
tổng số của mức tối thiểu và mức trung bình.
Trường hợp có từ hai TTGN thì áp
dụng mức tối thiểu của thời hạn. Trường hợp
vừa có tình tiết tăng nặng và TTGN thì bù
trừ theo nguyên tắc một tình tiết tăng nặng
trừ cho một TTGN”
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tình tiết giảm nhẹ trong pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRONG PHÁP LUẬT
VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Tóm tắt:
Thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đã chứng
minh rằng, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính là hiệu quả và thiết thực, có tác dụng trong việc cá thể
hóa, phân hóa mức độ trách nhiệm hành chính. Tuy nhiên, các quy định
pháp luật hiện hành về các tình tiết giảm nhẹ trong hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính vẫn tồn tại nhiều bất cập, dẫn đến việc áp dụng pháp
luật gặp nhiều khó khăn và thiếu thống nhất, làm giảm đi hiệu quả của
việc xử phạt vi phạm hành chính, do đó cần phải có giải pháp khắc phục.
Nguyễn Nhật Khanh*
* ThS., Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
Enforcement of the law on sanctioning of administrative violations has
revealed that the application of extenuating circumstances to individuals
and organizations committing administrative violations is effective and
essential, which helps the materializing and differentiating the level
of administrative responsibility. However, the current legal provisions
on mitigating circumstances in administrative sanctioning activities
still face several shortcomings, which may lead to difficulties and
inconsistencies in the application of laws. The effectiveness of sanctions
against administrative violations must therefore be overcome.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tình tiết giảm nhẹ, vi
phạm hành chính, xử phạt vi
phạm hành chính.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/06/2019
Biên tập : 28/06/2019
Duyệt bài : 01/07/2019
Article Infomation:
Keywords: Extenuating
circumstances, administrative
violation, sanctioning of an
administrative violation.
Article History:
Received : 13 Jun 2019
Edited : 28 Jun 2019
Approved : 01 Jul. 2019
1. Khái quát về các tình tiết giảm
nhẹ trong pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính (VPHC)
bên cạnh mục đích trừng trị người vi phạm
còn hướng đến mục tiêu giáo dục ý thức
tuân thủ pháp luật cho họ và thể hiện tính
nhân văn của pháp luật. Luật Xử lý VPHC
1 Điểm c khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
năm 2012 quy định nguyên tắc xử phạt như
sau: “Việc xử phạt VPHC phải căn cứ vào
tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối
tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình
tiết tăng nặng”1. Luật Xử lý VPHC năm
2012 quy định tình tiết giảm nhẹ (TTGN)
là bảo đảm tính nhân đạo và khuyến khích
người vi phạm tự giác hợp tác tích cực trong
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 15(391) T8/2019
khắc phục hậu quả hoặc thành thật khai báo.
Trong khi đó, các tình tiết tăng nặng nhằm
trừng trị nghiêm khắc những đối tượng nguy
hiểm hơn, hành vi nguy hại cho xã hội cao
hơn2.
Theo Điều 9 Luật Xử lý VPHC năm
2012, các TTGN bao gồm:
- Người VPHC đã có hành vi ngăn
chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm
hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi
thường thiệt hại;
- Người VPHC đã tự nguyện khai báo,
thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan
chức năng phát hiện VPHC, xử lý VPHC;
- VPHC trong tình trạng bị kích động
về tinh thần do hành vi trái pháp luật của
người khác gây ra; vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng; vượt quá yêu cầu của tình thế
cấp thiết;
- VPHC do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc
về vật chất hoặc tinh thần;
- Người VPHC là phụ nữ mang thai,
người già yếu, người có bệnh hoặc khuyết
tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình;
- VPHC vì hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn mà không do mình gây ra;
- VPHC do trình độ lạc hậu;
- Những TTGN khác do Chính phủ
quy định.
So với Pháp lệnh Xử lý VPHC năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008),
Luật Xử lý VPHC năm 2012 đã bổ sung
03 TTGN mới bao gồm: i. tích cực giúp
đỡ cơ quan chức năng phát hiện VPHC, xử
lý VPHC; ii. VPHC do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng; iii. VPHC do vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết. Việc bổ sung
tình tiết “tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng
phát hiện VPHC, xử lý VPHC” là cần thiết
2 Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Luật Xử lý VPHC năm 2012 (tái bản lần thứ 1),
Nxb. Hồng Đức, tr.129.
3 Khoản 2 Điều 77 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP.
nhằm khuyến khích chủ thể vi phạm sửa sai,
hợp tác với cơ quan có thẩm quyền để kịp
thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý các hành
vi vi phạm. Trong khi đó, việc bổ sung hai
tình tiết “vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng” và “vượt quá yêu cầu của tình thế cấp
thiết” cũng được coi là phù hợp với tình hình
thực tế. Điều này thể hiện tính nhân đạo của
pháp luật khi chủ thể vi phạm rơi vào các
hoàn cảnh đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác.
Về mặt lý luận, các TTGN trong xử
phạt VPHC có những đặc điểm nổi bật sau
đây:
Một là, việc áp dụng các TTGN làm
giảm đi mức độ trách nhiệm hành chính của
cá nhân, tổ chức VPHC so với các trường
hợp thông thường.
Giá trị của các TTGN trong xử phạt
VPHC thể hiện ở việc khi chủ thể vi phạm
được áp dụng các tình tiết này thì sẽ được
giảm trách nhiệm hành chính so với các chủ
thể vi phạm trong trường hợp thông thường
(mức phạt trung bình). Đơn cử, trong trường
hợp bị áp dụng hình thức xử phạt tiền, khoản
4 Điều 23 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy
định “nếu có TTGN thì mức tiền phạt có thể
giảm xuống nhưng không được giảm quá
mức tối thiểu của khung tiền phạt”. Đối với
hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn trong lĩnh vực
giao thông đường bộ, đường sắt, Nghị định
số 46/2016/NĐ-CP quy định “nếu có TTGN
thì thời hạn tước, đình chỉ hoạt động là mức
tối thiểu của khung thời gian tước hoặc đình
chỉ hoạt động”3. Qua đó, có thể thấy, việc
áp dụng các TTGN có ý nghĩa trong việc cụ
thể hóa trách nhiệm hành chính, bảo đảm sự
công bằng trong việc áp dụng pháp luật trên
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 15(391) T8/2019
tinh thần cá nhân, tổ chức vi phạm sẽ phải
chịu trách nhiệm pháp lý tương ứng với đặc
điểm, tính chất, mức độ vi phạm của từng
chủ thể.
Hai là, các TTGN trong xử phạt VPHC
có tính “mở”.
Phân tích quy định tại Điều 9 của Luật
Xử lý VPHC năm 2012 có thể thấy danh
sách các TTGN không phải là danh sách
đóng mà có thể được mở rộng, bổ sung thêm
bởi ngoài các TTGN do Quốc hội quy định
được liệt kê một cách cụ thể từ khoản 1 đến
khoản 7, điều luật còn quy định theo hướng
mở tại khoản 8 khi cho phép Chính phủ quy
định thêm các TTGN khác. Sự mở rộng, bổ
sung này phụ thuộc vào quyền quyết định
của Chính phủ. Quy định này là cần thiết, tạo
điều kiện thuận lợi cho Chính phủ trong việc
chủ động xây dựng và lựa chọn các TTGN
phù hợp với sự đa dạng của các VPHC trong
từng lĩnh vực khác nhau theo hướng có lợi
cho người vi phạm. Đây cũng là đặc điểm
khác biệt giữa TTGN với các tình tiết tăng
nặng bởi danh sách tình tiết tăng nặng là
danh sách đóng và chỉ thuộc thẩm quyền
quy định của Quốc hội4.
4 Điều 10 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy định danh sách đóng các tình tiết tăng nặng gồm 12 tình tiết sau:
a) Vi phạm hành chính có tổ chức;
b) Vi phạm hành chính nhiều lần; tái phạm;
c) Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần
thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
d) Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi để vi phạm hành chính;
đ) Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành công vụ; vi phạm hành chính có tính chất côn đồ;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm hành chính;
g) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi
phạm hành chính;
h) Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý vi phạm hành chính;
i) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
k) Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính;
l) Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn;
m) Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.
5 Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Luật Xử lý VPHC năm 2012 (tái bản lần thứ 1), Nxb. Hồng
Đức, tr.169.
6 Đào Thị Thu An (2007), Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trong xử lý vi phạm hành chính - Thực tiễn thi hành và các
vấn đề đặt ra, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 5, tr. 10.
Cần lưu ý rằng, chỉ riêng Chính phủ
mới có quyền này, ngoài ra các chủ thể có
thẩm quyền quản lý khác không được quyền
quy định thêm các TTGN. Đây là quy định
hoàn toàn hợp lý vì Quốc hội không phải là
chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động hành
chính mà quan hệ phát sinh trong hoạt động
hành chính xảy ra đa dạng nên cần phải đa
đạng hóa các hình thức xử phạt. Đồng thời,
Chính phủ - với tư cách là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất, thống nhất lãnh
đạo hoạt động hành chính từ trung ương đến
địa phương, có quyền ban hành các nghị
định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực. Việc
giao cho Chính phủ được mở rộng thêm
các căn cứ là TTGN trong xử phạt VPHC
giúp người có thẩm quyền xử lý một cách
hợp tình, hợp lý đối với sự đa dạng của tình
huống và chủ thể VPHC, đề cao tính dân
chủ trong hoạt động xử phạt VPHC5. Tuy
nhiên, trong quá trình xây dựng nghị định
về xử phạt VPHC trong các lĩnh vực, các cơ
quan soạn thảo hầu như chỉ chú trọng đến
việc quy định hành vi, mức phạt mà chưa
quan tâm đến các quy định khác mang tính
đặc thù trong lĩnh vực quản lý nhà nước
của mình6.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 15(391) T8/2019
Ba là, việc áp dụng các TTGN do
chủ thể có thẩm quyền xử phạt áp dụng và
phải được thể hiện trong quyết định xử phạt
VPHC.
Xử phạt VPHC là một hoạt động thực
thi quyền lực nhà nước, thông qua việc xử
phạt, chủ thể có thẩm quyền nhân danh
quyền lực của Nhà nước để ban hành các
quyết định xử phạt buộc chủ thể VPHC phải
chấp hành các hình thức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả. Với bản chất là hoạt
động thực thi quyền lực của Nhà nước nên
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này phải
do các chủ thể có thẩm quyền xử phạt theo
quy định của pháp luật thực hiện.
Các TTGN trong xử phạt VPHC là
các tình tiết gắn liền với chủ thể vi phạm,
có tác dụng làm giảm mức độ trách nhiệm
hành chính của chủ thể đó, do vậy việc áp
dụng các tình tiết này phải được xem xét
cùng với việc ra quyết định xử phạt VPHC.
Do đó, nếu chủ thể VPHC được xem xét áp
dụng các TTGN thì các tình tiết này phải
được thể hiện ngay trong nội dung của quyết
định xử phạt VPHC7. Trên cơ sở đó, chủ thể
có thẩm quyền xử phạt mới được áp dụng
mức chế tài thấp hơn so với các trường hợp
thông thường. Khi áp dụng các tình tiết này,
chủ thể có thẩm quyền phải dựa trên sự thật
khách quan để xem xét, đánh giá một cách
toàn diện các tình tiết gắn liền với chủ thể
vi phạm. Vì vậy, để bảo đảm tính công khai,
nghiêm minh của pháp luật và sự thống nhất
trong quá trình xử phạt, pháp luật quy định
việc áp dụng các TTGN phải được thể hiện
ngay trong quyết định xử phạt do người có
thẩm quyền ban hành.
7 Xem Biểu mẫu Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số MQĐ02 tại Phụ lục Một số biểu mẫu trong xử lý vi phạm
hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Xử lý VPHC.
8 Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
Bốn là, việc áp dụng các TTGN trong
xử phạt VPHC mang tính cụ thể.
“Tính cụ thể” trong việc áp dụng các
TTGN khi xử phạt VPHC trước tiên thể hiện
ở việc các TTGN phải được xem xét trong
từng vụ vi phạm. Nếu một chủ thể VPHC
nhiều lần vào những thời điểm khác nhau
thì việc xem xét áp dụng TTGN (nếu có)
chỉ được áp dụng theo từng vụ việc cụ thể.
Bên cạnh đó, “tính cụ thể” khi áp dụng các
TTGN trong xử phạt VPHC còn thể hiện
qua việc chỉ những đối tượng thỏa mãn các
dấu hiệu theo quy định thì mới được áp dụng
các TTGN, điều này thể hiện rõ nét trong
trường hợp nhiều người cùng thực hiện một
VPHC. Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy
định “nhiều người cùng thực hiện một hành
vi VPHC thì mỗi người vi phạm đều bị xử
phạt về hành vi VPHC đó”8. Tuy nhiên, mức
độ trách nhiệm hành chính của mỗi người
có thể khác nhau tùy thuộc vào các tình tiết
cụ thể gắn liền với từng người vi phạm. Khi
tiến hành xử phạt, chủ thể có thẩm quyền sẽ
phải căn cứ vào các tình tiết này để quyết
định hình thức xử phạt, mức xử phạt cho
từng người.
Thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt
VPHC đã chứng minh rằng việc áp dụng các
TTGN đối với cá nhân, tổ chức VPHC là
hiệu quả và thiết thực, có tác dụng trong việc
cá thể hóa, phân hóa mức độ trách nhiệm
hành chính. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các quy
định pháp luật về các TTGN trong hoạt động
xử phạt VPHC vẫn tồn tại nhiều bất cập, dẫn
đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó
khăn và thiếu thống nhất, làm giảm đi hiệu
quả của việc xử phạt VPHC, do đó cần phải
có giải pháp khắc phục để hoàn thiện.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 15(391) T8/2019
2. Một số bất cập trong quy định
của pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ
trong xử phạt vi phạm hành chính
Thứ nhất, một số TTGN trong xử phạt
VPHC còn mơ hồ, chưa được quy định cụ
thể nên chưa có cách hiểu thống nhất
Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) năm 2015 quy định:
“ngôn ngữ sử dụng trong VBQPPL phải
chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ
ràng, dễ hiểu. VBQPPL phải quy định cụ thể
nội dung cần điều chỉnh, không quy định
chung chung...”9. Đây là một trong những
yêu cầu quan trọng của hoạt động xây dựng
và ban hành VBQPPL nhằm bảo đảm cho
mọi người có thể đọc hiểu các quy định pháp
luật một cách dễ dàng và đúng với tinh thần
của cơ quan soạn thảo, từ đó tạo điều kiện
cho việc chấp hành và áp dụng quy phạm
pháp luật được dễ dàng và thống nhất trong
thực tế.
Về cơ bản, đa phần các căn cứ áp dụng
TTGN khá rõ ràng, dễ áp dụng trên thực tế.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số căn cứ có thể
gây khó khăn cho chủ thể có thẩm quyền
trong quá trình áp dụng. Chẳng hạn, khoản 5
Điều 9 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy định
TTGN “người VPHC là phụ nữ mang thai,
người già yếu, người có bệnh hoặc khuyết
tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình”. Nhìn
chung, đây là những chủ thể có những hạn
chế nhất định về mặt nhận thức, tâm lý, sức
khỏe tại thời điểm thực hiện VPHC nên cần
thiết xem xét để áp dụng TTGN, tuy nhiên
để áp dụng được quy định này là điều không
hề dễ dàng.
Theo quy định của Luật Người cao
tuổi năm 2009, “người cao tuổi được quy
định trong Luật này là công dân Việt Nam
từ đủ 60 tuổi trở lên”. Trong khi đó, theo
hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2006/NQ-
9 Điều 8 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
10 Mục 2.4 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP.
11 Mục 4.1.a Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP.
HĐTP ngày 15/5/2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình
sự quy định “người già” là người từ 70 tuổi
trở lên10. Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP
ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời
hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình
phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt
lại hướng dẫn về đối tượng “người quá già
yếu” là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người
từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau
ốm11. Như vậy, có thể thấy rằng tuy một
số văn bản có đề cập nhưng các đối tượng
được quy định trong các văn bản hướng dẫn
nêu trên lại không đồng nhất với đối tượng
“người già yếu” được quy định tại khoản 5
Điều 9 Luật Xử lý VPHC năm 2012 bởi các
văn bản này không được áp dụng trong lĩnh
vực xử phạt VPHC mà áp dụng trong lĩnh
vực hình sự. Do đó, việc xác định tình tiết
“người VPHC là người già yếu” khi xử phạt
trong thực tế hiện nay hoàn toàn phụ thuộc
vào nhận định chủ quan của người có thẩm
quyền xử phạt. Để xác định được chính xác
đối tượng đặc biệt này đòi hỏi người có thẩm
quyền xử phạt phải căn cứ vào từng trường
hợp cụ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe
và độ tuổi của người vi phạm tại thời điểm
họ thực hiện VPHC.
Bên cạnh đó, Luật Xử lý VPHC năm
2012 không quy định hướng dẫn về tình tiết
“người VPHC là người có bệnh hoặc khuyết
tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình”.
Đây là những chủ thể đặc biệt mà khi thực
hiện VPHC họ không thể nhận thức được
đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi do mình thực hiện và không kiểm soát
được hành vi đó nên Luật Xử lý VPHC năm
2012 quy định đây là TTGN. Tuy nhiên, câu
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 15(391) T8/2019
hỏi đặt ra là làm thế nào để xác định một
người tại thời điểm thực hiện VPHC rơi vào
tình trạng kể trên. Ví dụ: người điều khiển
phương tiện bị bệnh cảm cúm có hiện tượng
chóng mặt, mất tập trung dẫn đến vi phạm
pháp luật về giao thông thì có được xem là
mắc bệnh làm hạn chế khả năng nhận thức
hoặc điều khiển hành vi để được quyền áp
dụng TTGN này hay không? Điều này đòi
hỏi phải có sự giám định kỹ lưỡng về mặt y
học mới có thể xác định được, trong khi đa
số người có thẩm quyền xử phạt đều không
có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, nội hàm của các TTGN
“VPHC vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà
không do mình gây ra” (khoản 6 Điều 9) hay
“VPHC do trình độ lạc hậu” (khoản 7 Điều
9) cũng chưa rõ ràng. Hoàn cảnh như thế
nào được coi là đặc biệt khó khăn, chỉ cần
căn cứ vào trình bày của người vi phạm hay
phải có xác nhận của cơ quan nhà nước nào
hay không? Tiêu chí nào để xác định người
VPHC có “trình độ lạc hậu”? Tất cả các câu
hỏi này hiện nay đang bị bỏ ngỏ. Điều này
tiềm ẩn nguy cơ xảy ra việc áp dụng pháp
luật không thống nhất, thậm chí có thể là
mảnh đất màu mỡ để người có thẩm quyền
áp dụng các tình tiết này một cách tùy tiện.
Do vậy, điều cấp thiết là cần phải có quy
định cụ thể giải thích các căn cứ này để các
TTGN được áp dụng chính xác khi xử phạt
trong thực tế.
Thứ hai, tồn tại VBQPPL quy định
thêm các TTGN một cách tùy tiện, không
đúng với quy định của Luật Xử lý VPHC
năm 2012.
Như đã trình bày, một trong những đặc
điểm của các TTGN trong xử phạt VPHC đó
là tính “mở”, thể hiện qua việc Luật Xử lý
VPHC năm 2012 cho phép Chính phủ thông
qua các nghị định quy định thêm các TTGN
mới phù hợp với từng lĩnh vực quản lý nhà
nước đặc thù để tạo điều kiện cho công dân
12 Điểm a khoản 2 Điều 5 Thông tư số 20/2015/TT-BKHCN.
được hưởng các tình tiết có lợi nhằm giảm
nhẹ mức độ trách nhiệm hành chính của họ.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại trường hợp chủ
thể không có thẩm quyền “tùy tiện” quy định
thêm các TTGN mới không phù hợp với quy
định của Luật Xử lý VPHC năm 2012.
Ví dụ, vấn đề xử phạt VPHC trong lĩnh
vực khoa học - công nghệ, chuyển giao công
nghệ hiện nay được điều chỉnh bởi Nghị
định số 64/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của
Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
đinh số 93/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014).
Nghị định này không quy định về TTGN,
tình tiết tăng nặng khi xử phạt VPHC trong
lĩnh vực khoa học - công nghệ, chuyển giao
công nghệ. Tuy nhiên, Thông tư số 20/2015/
TT-BKHCN ngày 05/11/2015 của Bộ Khoa
học và Công nghệ hướng dẫn thi hành Nghị
định số 93/2014/NĐ-CP lại “tự ý” bổ sung
thêm TTGN đối với hành vi vi phạm về đăng
ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước như
sau: “Áp dụng TTGN khi xử phạt đối với
trường hợp tổ chức chủ trì đã đăng ký kết
quả trong khoảng thời gian 01 năm, tính từ
sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhiệm vụ
khoa học và công nghệ được nghiệm thu
chính thức đến khi hành vi vi phạm bị phát
hiện”12. Ở đây, vấn đề cần lưu ý là Nghị định
số 64/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định số 93/2014/NĐ-CP) do Chính
phủ ban hành không hề đề cập đến TTGN
này. Như vậy, có thể kết luận rằng, trong
trường hợp này Bộ Khoa học và Công nghệ
đã “tự ý” quy định thêm TTGN một cách tùy
tiện, mặc dù cơ quan này không được Luật
Xử lý VPHC năm 2012 cho phép thực hiện
việc này.
Thứ ba, Luật Xử lý VPHC năm 2012
chưa xây dựng được nguyên tắc chung để
xác định mức phạt cụ thể đối với các hình
thức xử phạt trong trường hợp VPHC có
TTGN.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 15(391) T8/2019
Xem xét một cách cụ thể, ở góc độ của
luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý
nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật
hành chính có nội dung là những tư tưởng
chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt
động quản lý nhà nước13. Việc áp dụng các
TTGN trong hoạt động xử phạt VPHC cũng
cần phải tuân thủ những nguyên tắc nhất
định để việc áp dụng các tình tiết này đạt
được hiệu quả như mong đợi. Đáng tiếc
rằng, Luật Xử lý VPHC năm 2012 và các
văn bản hướng dẫn thi hành vẫn chưa xây
dựng được các nguyên tắc chung để áp dụng
các TTGN khi tiến hành xử phạt, từ đó tạo ra
nhiều khoảng trống pháp lý khi áp dụng các
tình tiết này trong thực tiễn xử phạt.
Các TTGN có đặc điểm là làm giảm
mức độ trách nhiệm hành chính của chủ thể
VPHC. Tuy nhiên, các tình tiết này chỉ có ý
nghĩa đối với những VPHC bị áp dụng các
hình thức xử phạt có giới hạn về khung phạt
(có quy định về mức tối thiểu đến mức tối
đa) như phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn. Đối với các
hình thức xử phạt như tịch thu tang vật,
phương tiện VPHC hay trục xuất thì việc áp
dụng các TTGN không mang nhiều ý nghĩa
bởi tính cố định của các hình thức xử phạt
này. Đối với hình thức xử phạt cảnh cáo, các
TTGN có ý nghĩa là một điều kiện để chủ
thể VPHC đối với cá nhân đủ 16 tuổi trở lên
và tổ chức VPHC được áp dụng hình thức
xử phạt này (VPHC không nghiêm trọng, có
TTGN và theo quy định thì bị áp dụng hình
thức xử phạt cảnh cáo).
Hiện nay, Luật Xử lý VPHC năm 2012
chỉ quy định về nguyên tắc xác định mức phạt
cụ thể trong trường hợp có TTGN đối với
hình thức xử phạt tiền. Trong khi đó, đối với
các hình thức xử phạt khác như tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
13 Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.75, 76.
thì Luật chưa quy định nguyên tắc xác định
mức phạt cụ thể. Đối với hình thức xử phạt
tiền, khoản 4 Điều 23 Luật Xử lý VPHC
năm 2012 quy định: “Mức tiền phạt cụ thể
đối với một hành vi VPHC là mức trung
bình của khung tiền phạt được quy định đối
với hành vi đó; nếu có TTGN thì mức tiền
phạt có thể giảm xuống nhưng không được
giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt;
nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt
có thể tăng lên nhưng không được vượt quá
mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt”.
Tuy nhiên, quy định này còn chung chung
nên việc áp dụng không thống nhất trong
thực tế.
Ví dụ: khoản 3 Điều 10 Nghị định
số 102/2014/NĐ-CP quy định phạt tiền từ
5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối
với hành vi lấn, chiếm đất ở. Theo hướng
dẫn của Luật Xử lý VPHC năm 2012, khi cá
nhân thực hiện vi phạm trên và có TTGN thì
người có thẩm quyền xử phạt có thể giảm
mức phạt tiền dưới mức trung bình (dưới
7.500.000 đồng) và mức giảm thấp nhất là
5.000.000 đồng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra
là người có thẩm quyền sẽ căn cứ vào tiêu
chí nào để xác định mức giảm cụ thể? Vấn
đề này chưa được Luật Xử lý VPHC năm
2012 giải quyết một cách triệt để, dẫn đến
việc quyết định mức tiền phạt giảm bớt phụ
thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ quan của
người có thẩm quyền xử phạt mà không dựa
trên bất cứ tiêu chí định lượng nào.
Để tháo gỡ vướng mắc trên, một số
nghị định và thông tư hướng dẫn xử phạt
VPHC trong các lĩnh vực đã xây dựng
nguyên tắc xác định mức phạt cụ thể khi chủ
thể vi phạm có TTGN, qua khảo sát, chúng
tôi tổng hợp được 2 cách phổ biến sau đây:
Cách thứ nhất, xác định mức phạt
giảm bớt theo tỷ lệ phần trăm. Chẳng hạn,
đối với VPHC trong lĩnh vực thuế, Nghị
định số 129/2013/NĐ-CP quy định khi phạt
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 15(391) T8/2019
tiền mức tiền phạt cụ thể đối với một hành
vi vi phạm thủ tục thuế là mức trung bình
của khung phạt tiền được quy định đối với
hành vi đó. Đối với hành vi vi phạm thủ tục
thuế thì mỗi TTGN được giảm 20% mức
phạt trung bình của khung phạt tiền14. Trong
lĩnh vực cạnh tranh, Nghị định số 71/2014/
NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
141/2018/NĐ-CP) quy định đối với VPHC
về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, vi
phạm quy định về cạnh tranh không lành
mạnh thì mỗi TTGN được điều chỉnh giảm
tương ứng 15% mức tiền phạt so với vi phạm
thông thường15. Trong khi đó, Thông tư số
07/2014/TT-BTC hướng dẫn việc xử phạt
VPHC trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản
Nhà nước quy định cứ một TTGN thì mức
tiền phạt được giảm 20% so với mức trung
bình của khung tiền phạt được quy định đối
với hành vi đó16. Mặc dù việc xác định mức
phạt giảm bớt theo tỷ lệ % giúp chủ thể có
thẩm quyền dễ dàng xác định được mức tiền
phạt cụ thể khi có TTGN, tuy nhiên nếu áp
dụng cách thức này cho việc xử phạt VPHC
trong tất cả các lĩnh vực thì vẫn tồn tại những
hạn chế nhất định. Cụ thể, nếu pháp luật quy
định tỷ lệ phần trăm (%) này quá thấp (dưới
10%) thì việc xử phạt sẽ không phát huy giá
trị của các TTGN bởi mức tiền phạt thực tế
được giảm bớt sẽ không khác nhau nhiều so
với vi phạm thông thường. Ngược lại, nếu
14 Điều 3 Nghị định số 129/2013/NĐ-CP.
15 Khoản 5 Điều 4, khoản 4 Điều 5 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 141/2018/NĐ-CP).
16 Điểm b khoản 2 Điều 3 Thông tư số 07/2014/TT-BTC.
17 Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và
đường sắt quy định phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi “điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ
3 (ba) xe trở lên”. Nếu người vi phạm có một tình tiết giảm nhẹ và áp dụng mức tiền phạt “giảm 10% mức phạt trung
bình của khung phạt tiền” thì tiền phạt sẽ là 81.000 đồng (90.000 đồng - 10 % x (90.000 đồng) = 81.000 đồng). Mức
tiền phạt này đã xấp xỉ mức tiền phạt tối thiểu.
18 Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và
đường sắt quy định phạt tiền từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng đối với hành vi “không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của
biển báo hiệu, vạch kẻ đường”. Nếu người vi phạm có một tình tiết giảm nhẹ và áp dụng mức tiền phạt “giảm 20% mức
phạt trung bình của khung phạt tiền” thì tiền phạt sẽ là 56.000 đồng (70.000 đồng - 20 % x (70.000 đồng) = 56.000
đồng). Mức tiền phạt này còn thấp hơn mức tiền phạt tối thiểu.
19 Điểm c khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC năm 2012.
20 Cao Vũ Minh (2019), Những nội dung cần sửa đổi trong Luật Xử lý VPHC năm 2012, Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 01, tr. 9-10.
pháp luật quy định tỷ lệ phần trăm (%) là
10% hay 20% trở lên thì cũng tiềm ẩn nguy
cơ bị vô hiệu hóa trong nhiều trường hợp.
Trên thực tế, nếu pháp luật quy định tỷ lệ
phần trăm (%) là 10%, hay 20% trở lên thì
chỉ cần có một TTGN thì mức tiền phạt đã
bằng17, thậm chí còn thấp hơn mức tiền phạt
thấp nhất của khung tiền phạt18. Do đó, nếu
có hai hoặc ba TTGN trở lên thì cũng chỉ
có thể áp dụng mức tiền phạt tối thiểu của
khung tiền phạt mà không có gì khác so với
trường hợp có một TTGN. Điều này hoàn
toàn không phù hợp với mục đích xử phạt
là nhằm giáo dục, răn đe người vi phạm và
cũng không phù hợp với nguyên tắc xử phạt
là phải “căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và TTGN,
tình tiết tăng nặng”19. Sẽ là điều vô lý nếu
chủ thể vi phạm có nhiều TTGN mà mức
tiền phạt được áp dụng hoàn toàn giống với
chủ thể vi phạm chỉ có một TTGN20.
Cách thứ hai, xác định mức phạt giảm
bớt theo nguyên tắc giảm theo mức trung
bình cộng. Trong lĩnh vực quản lý giá, phí,
lệ phí, hóa đơn, Nghị định số 109/2013/
NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
số 49/2016/NĐ-CP) quy định khi phạt tiền
đối với các hành vi vi phạm quy định về
giá, phí, lệ phí, hóa đơn, mức phạt cụ thể
đối với một hành vi không có tình tiết tăng
nặng hoặc giảm nhẹ là mức trung bình của
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 15(391) T8/2019
khung tiền phạt quy định đối với hành vi đó.
Mức trung bình của khung tiền phạt được
xác định bằng cách chia đôi tổng số của mức
tối thiểu cộng mức tối đa. Trường hợp có
một TTGN thì áp dụng mức trung bình giảm
bớt. Mức trung bình giảm bớt được xác định
bằng cách chia đôi tổng số của mức tối thiểu
và mức trung bình. Trường hợp có từ hai
TTGN thì áp dụng mức tối thiểu của khung
tiền phạt. Trường hợp vừa có tình tiết tăng
nặng và TTGN thì bù trừ theo nguyên tắc
một tình tiết tăng nặng trừ cho một TTGN21.
Theo chúng tôi, cách thức này có
nhiều ưu điểm hơn so với cách xác định mức
giảm theo tỷ lệ %, đồng thời có thể áp dụng
cho tất cả các lĩnh vực, bởi lẽ việc xác định
mức giảm theo cách thức này vừa giúp chủ
thể có thẩm quyền dễ dàng xác định được
mức phạt giảm bớt khi có TTGN, vừa tạo ra
được sự phân hóa trách nhiệm hành chính
giữa vi phạm có một TTGN với vi phạm có
nhiều TTGN.
Đối với hình thức xử phạt tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời
hạn, mặc dù Luật Xử lý VPHC năm 2012
chưa quy định nguyên tắc xác định mức
phạt giảm bớt khi có TTGN nhưng qua khảo
sát các nghị định quy định xử phạt VPHC
trong các lĩnh vực, chúng tôi thấy có một số
nghị định hướng dẫn việc xác định mức phạt
giảm bớt đối với các hình thức xử phạt này
khi có TTGN như sau:
Khoản 2 Điều 77 Nghị định số
46/2016/NĐ-CP xử phạt VPHC trong lĩnh
vực giao thông đường bộ và đường sắt quy
định: “Thời hạn tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề hoặc thời hạn
đình chỉ hoạt động cụ thể đối với một hành
vi vi phạm quy định tại Nghị định này là
mức trung bình của khung thời gian tước
hoặc đình chỉ hoạt động được quy định đối
với hành vi đó; nếu có TTGN thì thời hạn
21 Khoản 6 Điều 3 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2016/NĐ-CP).
tước, đình chỉ hoạt động là mức tối thiểu
của khung thời gian tước hoặc đình chỉ
hoạt động...”. Trong khi đó, khoản 2 Điều
66 Nghị định số 33/2017/NĐ-CP xử phạt
VPHC trong lĩnh vực tài nguyên nước và
khoáng sản lại quy định nguyên tắc xác định
mức phạt giảm bớt khi có TTGN đối với các
hình thức xử phạt “tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề” hay “đình chỉ
hoạt động” như sau: “Thời hạn tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
hoặc thời hạn đình chỉ hoạt động cụ thể đối
với một hành vi vi phạm quy định tại Nghị
định này là mức trung bình của khung thời
gian tước hoặc đình chỉ hoạt động được quy
định đối với hành vi đó; nếu có TTGN thì
thời hạn tước, đình chỉ hoạt động có thể
dưới mức trung bình nhưng không quá mức
tối thiểu của khung thời gian tước hoặc đình
chỉ hoạt động”. Tuy nhiên, cả hai cách
này cũng tồn tại những hạn chế nhất định
nên không thể làm chuẩn mực chung để áp
dụng cho tất cả lĩnh vực. Nếu áp dụng theo
Nghị định số 46/2016/NĐ-CP thì không
tạo ra được sự khác biệt về mức độ giảm
trách nhiệm hành chính trong trường hợp
chủ thể VPHC có nhiều TTGN, bởi chỉ cần
có một TTGN là chủ thể vi phạm được áp
dụng “mức tối thiểu” của khung thời gian
tước hoặc đình chỉ hoạt động. Trong khi đó,
nếu áp dụng theo Nghị định số 33/2017/NĐ-
CP thì không thể xác định được mức giảm
cụ thể mà lại phụ thuộc vào sự tùy nghi của
người có thẩm quyền xử phạt. Vì vậy, ở đây
cần xây dựng một nguyên tắc chung phù hợp
để áp dụng cho tất cả các lĩnh vực xử phạt
VPHC đối với các hình thức xử phạt “tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề” hay “đình chỉ hoạt động” khi chủ thể
vi phạm có các TTGN.
3. Một số kiến nghị
Thứ nhất, cần sửa đổi Luật Xử lý
VPHC năm 2012 và các văn bản hướng dẫn
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 15(391) T8/2019
thi hành theo hướng bổ sung quy định giải
thích thuật ngữ và hướng dẫn tiêu chí xác
định cụ thể đối với các TTGN chưa được
quy định rõ ràng để tạo khung pháp lý vững
chắc cho việc áp dụng các tình tiết này, tránh
tình trạng áp dụng pháp luật tùy tiện trong
thực tiễn.
Đối với tình tiết “Người VPHC là
người già yếu”, để áp dụng tình tiết này đòi
hỏi người có thẩm quyền xử phạt phải chứng
minh được người vi phạm vừa “già” lại vừa
“yếu”. Việc chứng minh người vi phạm là
“người già” có thể căn cứ vào độ tuổi của họ,
tuy nhiên pháp luật hiện hành lại chưa quy
định cụ thể bao nhiêu tuổi được xem là “người
già”. Trong khi đó, để chứng minh một người
là “yếu” thì lại càng khó khăn vì cần phải có
sự kiểm tra, giám định kỹ lưỡng về mặt y tế
nên rất khó đưa ra một tiêu chí chung để áp
dụng cho những trường hợp khác nhau. Theo
chúng tôi, để bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật, Luật Xử lý VPHC năm 2012
cần quy định về việc áp dụng TTGN đối với
“người VPHC là người đủ 70 tuổi trở lên”
như quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017.)
Đối với các tình tiết khác như “Người
VPHC là người có bệnh hoặc khuyết tật
làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình”, “VPHC
vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không
do mình gây ra” hay “VPHC do trình độ lạc
hậu”, cần sửa đổi Luật Xử lý VPHC năm
2012 theo hướng bổ sung quy định cho phép
Chính phủ ban hành nghị định riêng biệt để
hướng dẫn áp dụng các tình tiết này.
Thứ hai, tiến hành rà soát các VBQPPL
có quy định về việc xử phạt VPHC, đặc biệt
là các thông tư hướng dẫn các nghị định
xử phạt trong các lĩnh vực để kịp thời phát
hiện, bãi bỏ các quy định “tự ý” bổ sung
thêm các TTGN. Trước hết, cần bãi bỏ quy
định của điểm a khoản 2 Điều 5 Thông tư số
20/2015/TT-BKHCN: “Áp dụng TTGN khi
22 Cao Vũ Minh (2019), Những nội dung cần sửa đổi trong Luật XLVPHC năm 2012, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
01, tr.10, 12.
xử phạt đối với trường hợp tổ chức chủ trì
đã đăng ký kết quả trong khoảng thời gian
01 năm, tính từ sau thời hạn 30 ngày kể từ
ngày nhiệm vụ khoa học và công nghệ được
nghiệm thu chính thức đến khi hành vi vi
phạm bị phát hiện”.
Thứ ba, cần sửa đổi Luật Xử lý VPHC
năm 2012 theo hướng áp dụng nguyên tắc
giảm bớt trung bình cộng trong trường hợp
có TTGN như sau:
Đối với hình thức xử phạt tiền: “Mức
phạt tiền cụ thể đối với một hành vi vi phạm
là mức trung bình của khung tiền phạt được
quy định đối với hành vi đó.
Trường hợp có một TTGN thì áp dụng
mức trung bình giảm bớt. Mức trung bình
giảm bớt được xác định bằng cách chia đôi
tổng số của mức tối thiểu và mức trung bình.
Trường hợp có từ hai TTGN thì áp
dụng mức tối thiểu của khung tiền phạt.
Trường hợp vừa có tình tiết tăng nặng và
TTGN thì bù trừ theo nguyên tắc một tình
tiết tăng nặng trừ cho một TTGN”.
Đối với hình thức xử phạt “tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
thì quy định như sau: “Thời hạn tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
hoặc thời hạn đình chỉ hoạt động cụ thể đối
với một hành vi vi phạm là mức trung bình
của khung thời gian tước hoặc đình chỉ hoạt
động được quy định đối với hành vi đó.
Trường hợp có một TTGN thì áp dụng
mức trung bình giảm bớt. Mức trung bình
giảm bớt được xác định bằng cách chia đôi
tổng số của mức tối thiểu và mức trung bình.
Trường hợp có từ hai TTGN thì áp
dụng mức tối thiểu của thời hạn. Trường hợp
vừa có tình tiết tăng nặng và TTGN thì bù
trừ theo nguyên tắc một tình tiết tăng nặng
trừ cho một TTGN”22.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 15(391) T8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_tinh_tiet_giam_nhe_trong_phap_luat_ve_xu_phat_vi_pham_ha.pdf