Các yếu tố liên quan hen phế quản tại cộng đồng tỉnh Tiền Giang

Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và hút thuốc Trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng biến số tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà hút trung bình mỗi ngày để đánh giá sự ảnh hưởng của hút thuốc lá thụ động lên khò khè và suyễn. Chúng tôi nghiên cứu việc hút thuốc lá ở những người sống chung trong nhà như cha, ông, chú, bác, anh, cũng như của bản thân người bị suyễn. Chúng tôi cũng nghĩ rằng hút thuốc lá với suyễn có quan hệ liều lượng – đáp ứng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ một điều rằng tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà hút trung bình mỗi ngày tăng lên một mức (cách nhau 5 điếu) thì nguy cơ bị suyễn tăng 60%. Mối liên quan giữa suyễn và tiền sử các bệnh dị ứng của gia đình Tiền sử bệnh lý dị ứng của gia đình có liên quan rất chặt chẽ với suyễn. Trong những tiêu chuẩn tiên đoán suyễn, bệnh lý chàm ở bản thân và suyễn ở cha mẹ được xếp vào 2 trong 3 tiêu chuẩn chính và bệnh lý viêm mũi dị ứng của bản thân được xếp vào 1 trong 4 tiêu chuẩn phụ. Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, những người có tiền căn bên nội ngoại, cha mẹ hay anh em bị các bệnh dị ứng có tỉ lệ suyễn cao hơn những người không có tiền căn gia đình có các bệnh dị ứng đó, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Chỉ trừ tiền căn bệnh lý suyễn, viêm mũi dị ứng và viêm xoang ở mẹ và viêm xoang ở anh em; những người có mẹ, anh em mắc những bệnh này có tỉ lệ suyễn cũng cao hơn nhóm có mẹ, anh em không mắc những bệnh này nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này có thể do cỡ mẫu chưa đủ lớn. Đáng lưu ý là tỉ lệ suyễn ở những người có cha hoặc anh em bị suyễn cao hơn rõ rệt so với những người có cha, anh em không bị suyễn và OR lần lượt là 7,3 và 4,4.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 121 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố liên quan hen phế quản tại cộng đồng tỉnh Tiền Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 58 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN HEN PHẾ QUẢN TẠI CỘNG ĐỒNG TỈNH TIỀN GIANG Tạ Văn Trầm* TÓM TẮT Mở đầu: ngăn chặn một số yếu tố nguy cơ đến hen có thể điều trị bệnh tốt hơn. Mục tiêu: Khảo sát các yếu tố liên quan đến hen phế quản tại cộng đồng tỉnh Tiền Giang. Phương pháp: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Không có mối liên quan giữa suyễn và địa dư. Về mối liên quan giữa khò khè, suyễn và những người sống chung nhà: những người có số người sống chung nhà lớn hơn 4 có tỉ lệ từng khò khè, suyễn đều cao hơn nhóm có số người sống chung nhà nhỏ hơn hoặc bằng 4; tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà hút trung bình mỗi ngày tăng lên một mức (cách nhau 5 điếu) thì nguy cơ bị suyễn tăng 60%. Hầu hết tiền sử bệnh suyễn và dị ứng của gia đình đều làm tăng tỉ lệ suyễn. Kết luận: Hút thuốc, tiền sử bệnh suyễn và dị ứng của gia đình làm tăng tỉ lệ suyễn. Từ khoá: suyễn, yếu tố ABSTRACT FACTORS RELATED TO ASTHMA IN THE COMMUNITY OF TIEN GIANG PROVINCE Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 58 - 63 Background: Prevent factors related to asthma help to treat asthma better Objective: To investigate the factors which relate to asthma in the community of Tien Giang province Method: Cross sectional description Results: There was not the relation between asthma and geography. The risk of wheezing or asthma of persons, whose house have more than 4 persons, was higher than the persons, who have 4 or under 4 persons in their families. The mean total number of cigarettes that all household smoked per day increased every 5 cigarettes, the risk of asthma increased 60%. Most of history of asthma and atopy increased the rathe of asthma. Conclusion: Smoking, history of asthma and atopy increased the rathe of asthma. Key words: asthma, factor ĐẶT VẤN ĐỀ Hen phế quản (suyễn) là một trong những bệnh hô hấp mạn tính gây tàn phế hô hấp, có thể gây tử vong. Với tần suất cao và ngày càng gia tăng tại nhiều nước, suyễn hiện là một vấn đề sức khỏe cộng đồng, là gánh nặng y tế và kinh tế của tất cả các quốc gia(8). Những hiểu biết gần đây về sinh lý bệnh học và một số yếu tố nguy cơ của bệnh hen phế quản vừa soi sáng bản chất, vừa cải thiện công tác chăm sóc điều trị bệnh, những tiến bộ đó giúp có thể thay đổi hẳn diễn tiến của bệnh, giảm tỉ lệ tử vong và giúp cho người bệnh nâng cao chất lượng cuộc sống, học tập, lao động tốt hơn. Nếu chúng ta biết sớm phát hiện bệnh hen phế quản, tìm và ngăn chặn một số yếu tố nguy cơ đến hen phế quản, từ đó có thể phòng ngừa và điều trị bệnh tốt hơn. * BV ĐK Kiên Giang Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS. Tạ Văn Trầm ĐT: 0913 771 779 Email: tavantram@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 59 Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá các yếu tố liên quan đến hen phế quản tại cộng đồng tỉnh Tiền Giang để đưa ra những nhận định nhằm trang bị tốt hơn cho người dân những kiến thức, giúp người bệnh và gia đình phối hợp với các cơ sở y tế có thể kiểm soát, điều trị và phòng ngừa bệnh tốt nhất.. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nơi nghiên cứu: địa bàn tỉnh Tiền Giang. Thời điểm nghiên cứu: Từ tháng 10 năm 2009 đến tháng 5 năm 2011. Dân số mục tiêu: Toàn bộ người dân ≥ 7 tuổi sống tại tỉnh Tiền Giang. Dân số chọn mẫu: Người dân ≥ 7 tuổi sống tại tỉnh Tiền Giang được chọn vào nghiên cứu. Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu:     2 1 / 2 2 Z P 1 P n d    Trong đó: - Chọn khoảng tin cậy 95%, - : xác suất sai lầm loại 1 ( = 0,05) - Z (1-/2) = 1,96 (tra từ bảng phân phối chuẩn), - d: Độ chính xác mong muốn - p= 0,05 ở người lớn và p= 0,1 ở trẻ em (số liệu Bộ Y tế). Vì vậy chúng tôi chọn cỡ mẫu là n = 600 Phương pháp chọn mẫu: lấy mẫu 2 bậc và lấy mẫu cụm, cụ thể: - Bước 1: Lập danh sách tất cả các xã trong tỉnh và đánh số thứ tự xã. Tỉnh Tiền Giang có 10 đơn vị hành chính cấp huyện với 169 xã, phường, thị trấn. Từ 169 xã, phường, thị trấn, dùng phương pháp chọn ngẫu nhiên hệ thống 30 xã, phường để nghiên cứu. Tổng số xã, phường, thị trấn Tính khoảng cách mẫu (KCM)=30 KCM = 169 30 = 6 Chọn một số ngẫu nhiên R ≤ KCM: 6. Cụm đầu tiên được chọn có thứ tự cộng dồn bằng hoặc vừa lớn hơn R. Cụm thứ n được chọn tiếp như sau: có số cộng dồn bằng hoặc vừa lớn hơn R + (n-1) KCM - Bước 2: Chọn đơn vị nguyên tố (ĐVNT): Số ĐVNT của mỗi cụm = N/30 = 600/30 = 20 người/cụm. Chọn mẫu tại cộng đồng: Chọn ngẫu nhiên 20 người mỗi xã, phường. Tiêu chí chọn mẫu: - Tiêu chí đưa vào: người dân ≥ 7 tuổi trong tỉnh Tiền Giang 2010 được chọn ngẫu nhiên vào nghiên cứu. - Tiêu chí loại trừ: Gia đình không đồng ý tham gia nghiên cứu, phiếu trả lời thiếu thông tin. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi. Xử lý và phân tích dữ liệu: nhập bằng phần mềm EpiData theo phương pháp nhập đôi. Phân tích bằng phần mềm STATA 10.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Có tất cả 600 người được đưa vào nghiên cứu Phân bố theo giới Bảng 1: Phân bố mẫu theo giới Giới Tần suất Tỉ lệ (%) Nam 253 42,17 Nữ 347 57,83 Phân bố theo địa dư Bảng 2: Phân bố mẫu theo địa dư Nơi cư trú Tần suất Tỉ lệ (%) Nông thôn 516 86 Thành thị 84 14 Tỉ lệ suyễn Bảng 3: Tỉ lệ suyễn Biến số Tần suất (600) Tỉ lệ (%) Từng khò khè 120 20 Suyễn 36 6 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 60 Biến số Tần suất (600) Tỉ lệ (%) Khò khè nặng giới hạn lời nói trong 12 tháng qua 10 1,6* Khò khè liên quan gắng sức trong 12 tháng qua 20 3,3 Ho khan về đêm trong 12 tháng qua 100 16,6 * nếu tính trên 36 người suyễn, tỉ lệ khò khè nặng giới hạn lời nói là 27,7% Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và giới Bảng 4: Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và giới Nam (n) Nữ (n) N=253 N=347 Từng khò khè 30% (76) 12,6% (44) Suyễn 9,5% (24) 3,5(12) * Phép kiểm χ2:Trong nhóm suyễn, tỉ lệ giới nam là 66,67% trong khi trong nhóm không bệnh, tỉ lệ giới nam là 40,6%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, p=0,002. Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và địa dư Bảng 5: Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và địa dư Nông thôn N=516 Thành thị N=84 Từng khò khè 17,4%(90) 35,7%(30) Suyễn 5,8% (30) 7,1% (6) * Phép kiểm χ2: Trong nhóm suyễn, tỉ lệ thành thị là 16,67% trong khi trong nhóm không bệnh, tỉ lệ thành thị là 13,83%. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, p=0,634. Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và số người sống chung nhà Bảng 6: Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và số người sống chung nhà Số người trong nhà > 4 Số người trong nhà ≤ 4 N= 250 N= 350 Từng khò khè 27,2 % (68) 14,8% (52) Suyễn 8 % (20) 4,5 % (16) * Phép kiểm χ2: Những người có số người sống chung nhà lớn hơn 4 có tỉ lệ từng khò khè, suyễn đều cao hơn nhóm có số người sống chung nhà nhỏ hơn hoặc bằng 4. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa. Mối liên quan giữa suyễn và hút thuốc lá Chúng tôi chia tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà trung bình mỗi ngày thành 4 mức: nhỏ hơn hoặc bằng 5 điếu, từ 6 đến 10 điếu, từ 11 đến 15 điếu và trên 15 điếu và thực hiện phương pháp hồi quy logistic bằng 2 mô hình: [1] Mô hình liều lượng đáp ứng đơn giản: sử dụng giả định liên hệ liều lượng đáp ứng “Với sự gia tăng tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà hút trung bình mỗi ngày từ một mức lên mức kế tiếp, sẽ cho sự thay đổi tương tự nhau về số chênh” [2] Mô hình biến số phân loại: không sử dụng giả định trên. Khi so sánh 2 mô hình liều lượng đáp ứng và mô hình biến số phân loại, chúng tôi nhận thấy 2 mô hình không khác nhau về phương diện thống kê, với p > 0,05. Vì [1] có cơ sở để chúng tôi hy vọng rằng hút thuốc lá càng nhiều thì nguy cơ bị khò khè càng cao và [2] có cơ sở thống kê cho giả định trên nên giả định quan hệ liều lượng đáp ứng là phù hợp và chúng tôi sử dụng mô hình liều lượng đáp ứng(9). Kết quả cho thấy cứ tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà trung bình mỗi ngày tăng lên một mức thì nguy cơ bị “khò khè trong 12 tháng qua” tăng 60%, OR = 1,6 (khoảng tin cậy 95% là 1,3 – 1,9), với p < 0,001. Mối liên quan giữa suyễn và tiền sử bệnh dị ứng của gia đình Bảng 7: Mối liên quan giữa suyễn và tiền sử bệnh dị ứng gia đình Tiền sử bệnh dị ứng OR Khoảng tin cậy 95% p Suyễn bên nội ngoại 2,9 * 1,6 – 5,1 0,0001 Viêm mũi dị ứng bên nội ngoại 2,2 * 1,3 – 3,7 0,001 Bệnh dị ứng ngoài da bên nội ngoại 2,7 * 1,6 – 4,6 < 0,0001 Viêm xoang bên nội ngoại 1,9 * 1,2 – 3,1 0,0066 Suyễn ở cha 7,3 * 2,5 – 20 < 0,0001 Viêm mũi dị ứng ở cha 2,5 * 1,3 – 4,4 0,0012 Bệnh dị ứng ngoài da ở cha 2,2 * 1,1 – 4,2 0,0107 Viêm xoang ở cha 2,2 * 1,1 – 4,1 0,0069 Suyễn ở mẹ 3,2 0,7 – 10,7 0,0356 Viêm mũi dị ứng ở mẹ 1,7 0,9 – 3,0 0,0557 Bệnh dị ứng ngoài da 2,3 * 1,2 – 4,3 0,0038 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 61 Tiền sử bệnh dị ứng OR Khoảng tin cậy 95% p ở mẹ Viêm xoang ở mẹ 1,8 0,99 – 3 0,0317 Suyễn ở anh em 4,4 * 1,2 – 13,8 0,0031 Viêm mũi dị ứng ở anh em 2,5 * 1,1 – 5,2 0,0124 Bệnh dị ứng ngoài da ở anh em 2,8 * 1,3 – 5,5 0,0014 Viêm xoang ở anh em 2,3 0,9 – 5,2 0,0363 * Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05 và khoảng tin cậy 95% của OR không chứa 1) BÀN LUẬN Các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Về tỉ số nam: nữ là 1:1,37. Về phân bố mẫu theo địa dư: có 86% sống ở nông thôn. Con số này cũng phù hợp với phân bố dân số ở Việt Nam nói chung, 80% sống ở nông thôn. Tỉ lệ suyễn: Tỷ lệ mắc suyễn trong cộng đồng dân cư tỉnh Tiền Giang là 6%. Tỷ lệ này tương đương với kết quả nghiên cứu của Phan Quang Đoàn tại Hà Nội là 8,74%(9). Với tỷ lệ suyễn trong cộng đồng dân cư là 6% thuộc hàng trung bình so với tỷ lệ suyễn ở các vùng trong và ngoài nước. Con số này cũng góp phần giảm bớt sự hoài nghi và góp một tiếng nói chung rằng: Tỉ lệ suyễn ở Việt Nam không hề thấp mà ở mức cao, ngang với những nước đã phát triển và thuộc hàng cao nhất khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Mối liên quan giữa suyễn và giới Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả nhất quán: Tỉ lệ suyễn ở giới nam (24%) cao hơn tỷ lệ suyễn ở nữ (12%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p =0,002. Tại Việt Nam, theo Tôn Kim Long độ lưu hành suyễn ở nam và nữ là ngang nhau(9), theo nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng tại Khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai năm 2005 cho thấy suyễn gặp nhiều ở trẻ trai hơn trẻ gái với tỷ lệ 56% ở trẻ trai so với 44% ở trẻ gái(8). Theo Vũ Khắc Đại, tỷ lệ suyễn ở nam cũng cao hơn nữ tại trường Tiểu học Thành Công B Hà Nội năm 2005 với tỷ lệ 1,5/1. Phạm Lê Tuấn khi nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ suyễn trẻ em lứa tuổi học đường ở một số trường Hà Nội thấy tỷ lệ nam/nữ là 1,45/1(7). Nghiên cứu của tác giả Phan Quang Đoàn, Tôn Kim Long về tỷ lệ mắc suyễn trong người dân chỉ ra tỷ lệ suyễn ở nam cao hơn nữ với tỷ lệ là 1,34/1(9). Kết quả từ giai đoạn I của ISAAC tại 56 quốc gia cho thấy, ở độ tuổi 6 – 7 tỉ lệ khò khè 12 tháng qua ở nam cao hơn nữ với tỉ số 1: 0,81 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001(4). Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và địa dư Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ từng khò khè, suyễn giữa nông thôn và thành thị với p=0,634. Kết quả này không giống như y văn, tỉ lệ suyễn ở thành thị cao hơn nông thôn(1). N. El-Sharif trong một nghiên cứu ở Palestin cho thấy tỉ lệ suyễn và tỉ lệ được chẩn đoán suyễn thành thị cao hơn nông thôn(2). Tại Trung Quốc, tỉ lệ các triệu chứng suyễn ở thanh thiếu niên ở vùng đô thị Bắc Kinh cao gấp 6 đến 10 lần so với tỉ lệ ở vùng nông thôn. Kết quả tương tự ở Châu Phi, tỉ lệ của suyễn do gắng sức ở cộng đồng thành thị cao hơn đến 50 lần so với cộng đồng nông thôn. Sự không phù hợp với y văn trong nghiên cứu của chúng tôi có thể đo tại Tiền Giang, vẫn chưa có một sự phân hóa thành thị và nông thôn rõ ràng, cái gọi là “đô thị” ở Tiền Giang vẫn chưa mang hẳn những đặc điểm của một đô thị với tình trạng ô nhiễm môi trường và lối sống hiện đại của nó. Và thêm một điều nữa, mặc dù không có ý nghĩa thống kê nhưng trong nghiên cứu chúng tôi, tỉ lệ suyễn ở thành thị lại thấp hơn nông thôn. Có phải chăng những người sống ở thành thị nhận được chăm sóc y tế tốt hơn, suyễn được kiểm soát tốt hơn nông thôn nên tỉ lệ suyễn có vẻ thấp hơn nông thôn?. Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và số người sống chung nhà Mối liên quan giữa số thành viên trong gia đình và tỉ lệ suyễn cũng là một đề tài rất được quan tâm trong nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên, có Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 62 một sự nhập nhằng liên quan đến từ ngữ nói về “ảnh hưởng của anh em ruột”. Trong một số nghiên cứu, nó được định nghĩa là “thứ tự sinh” (con thứ mấy), hoặc là “qui mô gia đình” (lớn hoặc nhỏ), “số anh chị ruột”, trong một số nghiên cứu khác, thậm chí là “số anh trai” hoặc “số em ruột” cũng được quan tâm. Chúng tôi chọn số người sống chung nhà với nhau là biến số cần quan tâm vì ở Việt Nam, nhờ chương trình sinh đẻ có kế hoạch được nhà nước tuyên truyền, đa số các gia đình chỉ có 1 đến 2 con. Vì vậy, có lẽ khó tìm sự ảnh hưởng của số anh em ruột lên tỉ lệ suyễn. Vả lại, nếu giả thuyết vệ sinh là đúng thì những người khác sống chung nhà cũng có ảnh hưởng, tạo gánh nặng phơi nhiễm với nhiễm khuẩn ở trẻ tương tự như của những anh em. Kết quả của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ từng khò khè, suyễn với số người sống chung nhà. Tại Việt Nam, S. K. Chai, Nguyễn Ngọc Nga và cộng sự cũng đã nghiên cứu về ảnh hưởng này và sử dụng biến số số người trong nhà. Nghiên cứu được thực hiện tại trung tâm Hà Nội và huyện ngoại thành Đông Anh. Kết quả cho thấy đối với những người sống tại trung tâm Hà Nội, không có mối liên quan giữa nhà đông đúc (trên 4 người) và tỉ lệ suyễn, riêng tại huyện Đông Anh những người sống trong nhà có số người từ 4 trở xuống có tỉ lệ được bác sĩ chẩn đoán suyễn thấp hơn những người sống trong nhà đông người (trên 4), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, OR = 0,76(1). W. Karmaus và C. Botezan trong bài tổng quan của mình về vấn đề này đã tổng kết lại và thấy rằng tính từ năm 1965 đến 2000, có 31 công trình nghiên cứu về mối liên quan giữa số anh chị em ruột với suyễn và khò khè, có 22 nghiên cứu đã tìm ra mối liên quan nghịch, với OR thay đổi từ 0,2 đến 0,84. Có 18 nghiên cứu trong số này cho thấy mối liên quan rõ rệt về mặt thống kê. Chỉ có một nghiên cứu tìm thấy mối liên quan thuận giữa việc có từ 3 anh em trở lên với suyễn hoặc khò khè. Mối liên quan giữa khò khè, suyễn và hút thuốc Trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng biến số tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà hút trung bình mỗi ngày để đánh giá sự ảnh hưởng của hút thuốc lá thụ động lên khò khè và suyễn. Chúng tôi nghiên cứu việc hút thuốc lá ở những người sống chung trong nhà như cha, ông, chú, bác, anh, cũng như của bản thân người bị suyễn. Chúng tôi cũng nghĩ rằng hút thuốc lá với suyễn có quan hệ liều lượng – đáp ứng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ một điều rằng tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà hút trung bình mỗi ngày tăng lên một mức (cách nhau 5 điếu) thì nguy cơ bị suyễn tăng 60%. Mối liên quan giữa suyễn và tiền sử các bệnh dị ứng của gia đình Tiền sử bệnh lý dị ứng của gia đình có liên quan rất chặt chẽ với suyễn. Trong những tiêu chuẩn tiên đoán suyễn, bệnh lý chàm ở bản thân và suyễn ở cha mẹ được xếp vào 2 trong 3 tiêu chuẩn chính và bệnh lý viêm mũi dị ứng của bản thân được xếp vào 1 trong 4 tiêu chuẩn phụ. Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, những người có tiền căn bên nội ngoại, cha mẹ hay anh em bị các bệnh dị ứng có tỉ lệ suyễn cao hơn những người không có tiền căn gia đình có các bệnh dị ứng đó, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Chỉ trừ tiền căn bệnh lý suyễn, viêm mũi dị ứng và viêm xoang ở mẹ và viêm xoang ở anh em; những người có mẹ, anh em mắc những bệnh này có tỉ lệ suyễn cũng cao hơn nhóm có mẹ, anh em không mắc những bệnh này nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này có thể do cỡ mẫu chưa đủ lớn. Đáng lưu ý là tỉ lệ suyễn ở những người có cha hoặc anh em bị suyễn cao hơn rõ rệt so với những người có cha, anh em không bị suyễn và OR lần lượt là 7,3 và 4,4. KẾT LUẬN - Về mối liên quan giữa suyễn và địa dư: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 63 không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p=0,634. - Về mối liên quan giữa khò khè, suyễn và những người sống chung nhà: những người có số người sống chung nhà lớn hơn 4 có tỉ lệ từng khò khè, suyễn đều cao hơn nhóm có số người sống chung nhà nhỏ hơn hoặc bằng 4. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. - Tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà hút trung bình mỗi ngày tăng lên một mức (cách nhau 5 điếu) thì nguy cơ bị suyễn tăng 60% - Hầu hết tiền sử bệnh suyễn và dị ứng của gia đình đều làm tăng tỉ lệ suyễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lai C, “The Asthma Epidemic in Asia Pacific”, 9th Congress of the Asia Pacific Society of Respirology 10-13 December 2004 Hong Kong. 2. Falade AG, Olawuyi JF, Osinusi K, Onadeko BO (2004), "Prevalence and Severity of Symptoms of Asthma, Allergic Rhinoconjunctivitis, and Atopic Eczema in 6- to 7-Year-Old Nigerian Primary School Children: The International Study of Asthma and Allergies in Childhood", Med Princ Pract, 13, pp. 20–25. 3. Goldberg S, Israeli E, Schwartz S, Shochat T, Izbicki G, Toker- Maimon O, Klement E, Picard E (2007), "Asthma Prevalence, Family Size, and Birth Order", Chest, 131(6), pp. 1747-1752. 4. Irwin RS, Boulet LP, Cloutier MM et al (1998), “Managing cough as a Defense Mechanism and as a Symtom”, A Consensus Panel Report of the American College of Chest Physicians. Chest, 114 (suppl2), 133S-181S. 5. Khổng Thị Ngọc Mai, Nguyễn Văn Sơn (2009), “Thực trạng hen phế quản ở học sinh Tiểu học, trung học cơ sở Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, (số 8), tr 15. 6. Lawrence M., Tierney Jr., Saint S, Whooley MA (2002), "Asthma", Essentials of Diagnosis and Treatment, McGraw- Hill, 2, pp.42. 7. Lương Thị Thuận, Lê Thị Tuyết Lan (2005), “Xử trí hen phế quản theo hướng dẫn GINA 2002 tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y học thực hành số 513- 2005, tr.58-62. 8. Nguyễn Tiến Dũng (2007), “Chẩn đoán, xử trí hen phế quản ở trẻ em”, Hen phế quản và dự phòng hen phế quản, Nhà xuất bản Y học. 9. Phan Quang Đoàn, Tôn Kim Long (2006), “Lưu hành hen phế quản trong học sinh một số trường học ở Hà Nội và tình hình sử dụng Seretide dự phòng hen trong các đối tượng này”, Tạp chí Y học thực hành (số 6), tr 15-17. 10. Beasley R, Ellwood P et al (2003), "International patterns of the prevalence of pediatric asthma The ISAAC program", Pediatr Clin N Am 50 pp. 539– 553.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_yeu_to_lien_quan_hen_phe_quan_tai_cong_dong_tinh_tien_gi.pdf
Tài liệu liên quan