Kết luận
Trải qua các cuộc CMCN, loài người đã
có thể nhận thức tốt hơn về tác động của
công nghệ đối với xã hội, nhà nước và pháp
luật cũng như nhận thức đầy đủ hơn về tầm
quan trọng của những chính sách, pháp luật
phù hợp để ứng xử đối với những tác động
này. Mục tiêu của các chính sách là công
nghệ phải phục vụ cho phát triển, cho tiến
bộ xã hội. Công thức chung đối với ứng xử
chính sách và pháp luật trước tác động của
CMCN là phát huy thành tựu, tận dụng cơ
hội để phát triển đồng thời ngăn ngừa những
hệ quả tiêu cực mà sự phát triển của công
nghệ mang lại. Một trong những cách thức
để triển khai công thức này là nhận biết ai có
thể là winner và ai có thể là loser của mỗi
cuộc CMCN.
Các cuộc CMCN đã tạo ra nền tảng cho
sự phát triển của pháp luật hiện đại với các
trụ cột về quyền tự do, bình đẳng của các cá
nhân, của các quốc gia, về nguyên tắc pháp
quyền, về các mô hình doanh nghiệp, về
quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh. Và
ở một góc độ nhất định, đó chính là kết quả
của sự phản ứng về chính sách và pháp luật
đối với các winner và loser trong các cuộc
CMCN. Ứng xử chính sách và pháp luật một
cách phù hợp với các winner và loser là bí
quyết của sự thành công
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách mạng công nghiệp và pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Cách mạng công nghiệp (CMCN)luôn tạo ra những biến đổi lớn vềmặt xã hội và đi kèm với nó là sự
phát triển tương ứng của hệ thống pháp luật.
Trong bối cảnh thế giới bước vào cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0),
việc nhìn nhận lại sự phát triển của pháp luật
qua các cuộc CMCN mang lại những bài học
quan trọng về ứng xử chính sách và pháp
luật đối với sự phát triển của công nghệ và
tác động của nó tới kinh tế xã hội, giúp Việt
Nam ứng phó hiệu quả với những thách thức
của CMCN lần thứ tư và tận dụng được cơ
hội để đưa Việt Nam thành một quốc gia
phát triển. Phản ứng về mặt pháp luật của
Nhà nước đối với các tác động của CMCN
có thể được nhìn nhận ở nhiều góc độ. Ở góc
độ phân hoá xã hội, các cuộc CMCN luôn
tạo ra hai nhóm chủ yếu, đó là nhóm giành
được ưu thế trong CMCN (winner) và nhóm
gặp bất lợi và bị thua thiệt từ CMCN (loser).
Từ CMCN, có những quốc gia trở nên thịnh
vượng và có quốc gia đi xuống; có những
doanh nghiệp mới phát triển lớn mạnh và có
những doanh nghiệp phá sản; có những công
nhân vươn lên và có những người mất việc,
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT
Trần Thị Quang Hồng*
* TS. Trưởng ban NCPL Dân sự-kinh tế; Viện Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: cách mạng công nghiệp, ứng
xử chính sách pháp luật, nhóm lợi thế,
nhóm bất lợi.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 02/4/2020
Biên tập : 20/4/2020
Duyệt bài : 27/4/2020
Article Infomation:
Keywords: industrial revolution,
policy and legal response, winners,
losers.
Article History:
Received : 02 Apr. 2020
Edited : 20 Apr. 2020
Approved : 27 Apr. 2020
Tóm tắt:
Bài viết này đánh giá về sự phát triển của pháp luật hiện đại dưới
tác động của ba cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra trước
đây, từ đó rút ra những bài học và những hàm ý về ứng xử chính
sách, pháp luật trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Abstract:
This article provides analysis of the evolution of modern law
under the influence of three previous industrial revolutions. It is
also to draw important implications for the policy and legal
responses to the 4th industrial revolution.
Số 11 (411) - T6/202018
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
có người kiếm được cả gia tài, có người mất
cả gia tài1. Như vậy, bất kỳ chủ thể nào, dù
ở bình diện cá nhân, tổ chức hay quốc gia
đều có thể là winner hoặc loser trong các
cuộc CMCN. Ứng xử với winner và loser là
một khía cạnh quan trọng để nhìn nhận về
sự phát triển của pháp luật qua các cuộc
CMCN.
1. Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:
Cơ sở cho sự hình thành của pháp luật
hiện đại
Cuộc CMCN đầu tiên trong lịch sử loài
người diễn ra vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ
19, đặc trưng của nó là cơ giới hóa và máy
móc bắt đầu thay thế con người.
Lịch sử giai đoạn này đã chứng kiến sự
trỗi dậy của giai cấp tư sản - nhóm giành
được ưu thế của cuộc CMCN lần thứ nhất.
Để thiết lập và khẳng định vị thế của mình,
giai cấp tư sản đã đấu tranh cho sự tách rời
của quyền lực nhà nước với quyền lực của
giáo hội và pháp luật của nhà nước tách ra
khỏi pháp luật của giáo hội. Nhân quyền và
độc lập dân tộc cũng là những giá trị được
giai cấp tư sản thúc đẩy, đưa đến đến sự ra
đời của các bản Tuyên ngôn độc lập của
nước Mỹ năm 17762, Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền ở nước Pháp năm 1789,
đề cao quyền con người, quyền tự do cá
nhân và quyền tự quyết dân tộc3. Tư tưởng
trong các bản tuyên ngôn này cũng là cơ sở
để ra đời Hiến pháp - văn bản pháp lý tối cao
chế ước mối quan hệ giữa công dân và nhà
nước, đầu tiên ở nước Mỹ và sau đó là nhiều
quốc gia châu Âu khác4. Hiến pháp là văn
bản về tổ chức nhà nước và là một công cụ
quan trọng củng cố vị thế của giai cấp tư sản
mới trỗi dậy trong cuộc CMCN lần thứ nhất.
Với việc đề cao tư tưởng nhân quyền và dân
quyền, ở nước Anh, năm 1807, việc buôn
bán nô lệ đã bị bãi bỏ. Năm 1832, Nghị viện
Anh thông qua Đạo luật Đại cải cách, cho
phép các thành phố công nghiệp như
Birmingham và Manchester có đại diện
trong Nghị viện, từ đó làm thay đổi mạnh mẽ
chế độ dân chủ đại nghị5.
Tuy nhiên, lịch sử cũng ghi nhận về
những loser đầu tiên của CMCN: các luddite
– từ tiếng Anh dành để chỉ những người
tham gia vào phong trào đập phá máy móc
diễn ra vào thời kỳ đầu của CMCN ở nước
Anh - trung tâm của CMCN lần thứ nhất.
Các luddite ban đầu là những người thợ dệt
lành nghề được đào tạo làm việc thủ công.
Bất bình trước viễn cảnh những cỗ máy vô
1 J. Byron McCormick, The Third Industrial Revolution, Like Moore’s Law, Is a Guide to the Future,
https://www.huffpost.com/entry/third-industrial-revolution-moores-law_b_8537990.
2 Declaration of Independence, https://www.history.com/topics/american-revolution/declaration-of-independence.
3 La Déclaration des Droits de l’Homme et du Citoyen (1789), xem tại https://gallica.bnf.fr/essentiels/
repere/declaration-droits-homme-1789.
4 Hiến pháp nước Mỹ ra đời năm 1787, sau đó là Hiến pháp Ba Lan năm 1791, Hiến pháp của Pháp năm
1791. Cách mạng châu Âu năm 1848 cũng đưa đến việc ban hành hàng chục bản hiến pháp ở châu lục này.
Trên thực tế, việc thay đổi chính quyền thường được đánh dấu bằng việc thay đổi Hiến pháp. Xem Hiến
pháp nước Mỹ, Thư viện học liệu mở, https://voer.edu.vn/m/hien-phap-hoa-ky/cf3994a0. Cũng xem
https://constitutioncenter.org/learn/educational-resources/historical-documents/perspectives-on-the-consti-
tution-constitutions-around-the-world.
5 The Industrial Revolution and the changing face of Britain, https://www.britishmuseum.org/research/pub-
lications/online_research_catalogues/paper_money/paper_money_of_england__wales/the_industrial_rev-
olution/the_industrial_revolution_3.aspx. Evan Andrew, Who were the Luddites? Xem tại
https://www.history.com/news/who-were-the-luddites; Christopher Klein, The Original Luddites Raged
Against the Machine of the https://www.history.com/news/industrial-revolution-luddites-workers.
19Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
tri, vô giác sẽ giúp cho những người không
có tay nghề gì cũng làm được việc và cướp
đi sinh kế của họ, đồng thời đề xuất hỗ trợ
không được Chính phủ đáp ứng, nhiều nhóm
thợ dệt tuyệt vọng đã đột nhập vào các công
xưởng và đập phá các cỗ máy. Năm 1811,
những vụ việc đầu tiên đã nổ ra ở
Nottingham, và nhanh chóng lan ra khắp các
vùng nông thôn của nước Anh. Những người
thợ hy vọng rằng bằng cách này họ có thể
khiến Chính phủ cấm các máy dệt. Tuy
nhiên, trái với mong muốn của họ, Chính
phủ đã thẳng tay đàn áp những người đập
phá máy móc. Đỉnh cao của nó là tháng
4/1812 khi một số luddite bị bắn chết trong
một cuộc tấn công vào một nhà máy gần
Huddersfield. Những ngày sau đó, quân đội
bao vây những người phản đối, treo cổ nhiều
người, một số bị đưa đi đày. Cho đến năm
1813, phong trào này bị dập tắt6.
Phong trào đập phá máy móc và cách
nhà nước xử lý nó có thể coi là một dấu ấn
lịch sử đáng tiếc ở những ngày đầu của
CMCN. Câu chuyện về các luddite cũng cho
thấy những nguy cơ bất ổn xã hội mà CMCN
gây ra khi nhà nước không chú ý một cách
thích đáng đến những tác động bất lợi của
nó. Thực tế, lịch sử cũng cho thấy các
luddite chỉ là những loser đầu tiên của
CMCN. CMCN làm hình thành nên giai cấp
công nhân, những người phải sống và làm
việc trong những điều kiện hết sức khắc
nghiệt. Trẻ em được tuyển dụng vào làm
việc trong các nhà máy, bị bóc lột và ngược
đãi. Sau những phong trào đấu tranh đòi cải
thiện phúc lợi xã hội, giáo dục và quyền lao
động, chính quyền bắt đầu có những động
thái tích cực hơn. Ở Anh, năm 1833, Đạo
luật về Công xưởng (Factory Act) được ban
hành, quy định trẻ em từ 9-13 tuổi không
làm việc quá 8 tiếng/ngày, từ 14-18 tuổi
không quá 12 tiếng/ngày; Đạo luật về Hầm
mỏ năm 1842 quy định chủ sử dụng lao động
không được tuyển lao động nữ làm việc
trong hầm mỏ và chỉ được tuyển nam giới từ
13 tuổi trở lên. Đạo luật 10 tiếng năm 1845
(Ten Hour Act) của Anh giới hạn thời gian
làm việc trong ngày với phụ nữ và người
dưới 18 tuổi không quá 10 tiếng/ngày và
năm 1847, quy định này được áp dụng đối
với tất cả người lao động. Năm 1824, Đạo
luật về Liên kết nghiêm cấm việc thành lập
tổ chức công đoàn cũng được bãi bỏ. Có thể
thấy, những chế định cơ bản của pháp luật
lao động hiện đại đã hình thành ngay từ giai
đoạn này.
Trong giai đoạn này, ở nhiều nước châu
Âu, phong trào pháp điển hoá luật dân sự
cũng diễn ra mạnh mẽ, không chỉ thể hiện sự
đáp ứng của pháp luật đối với các giao dịch
dân sự, thương mại đang ngày càng phát triển
trong đời sống xã hội mà còn thể hiện tư
tưởng về quyền của cá nhân công dân - hạt
nhân quan trọng của phong trào cách mạng
giai đoạn này7. Từ thế kỷ 18, các bang thuộc
Đức như Áo, Phổ, Bavaria đã bắt đầu việc
pháp điển hoá luật dân sự. Năm 1756, Bavaria
ban hành đạo luật dân sự đầu tiên sử dụng
tiếng Latinh. Ở Áo, nỗ lực pháp điển hoá từ
năm 1753 đến 1766 đã tạo ra bộ luật đầu tiên
(dù chưa hoàn chỉnh) là Bộ luật
Theresanianus, năm 1787 là Bộ luật
Josephine và năm 1797 là Bộ luật West
Galacia. Năm 1811, Bộ luật Dân sự hoàn
6 Murray Raff, The Importance of Reforming Civil Law in Formerly Socialist Legal Systems, International
Comparative Jurisprudence 1 (2015) 24–32.
7 Xem Why has the French Civil Code had a lasting influence on contemporary European law? Tại https://dai-
lyhistory.org/.
Số 11 (411) - T6/202020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
chỉnh của Áo được ban hành. Tuy nhiên, Bộ
luật Dân sự đầu tiên, hoàn chỉnh nhất, đánh
dấu bước phát triển quan trọng của việc pháp
điển hoá luật dân sự là Bộ luật Dân sự Pháp,
được ban hành năm 18048. Mãi tới năm 1896,
Đức mới ban hành Bộ luật Dân sự, nhưng Bộ
luật Dân sự này cũng thể hiện tầm ảnh hưởng
không kém và được nhiều quốc gia trên thế
giới học tập, trong đó có Nhật Bản9.
Bên cạnh luật dân sự, luật công ty với ý
nghĩa là khuôn khổ pháp lý cho các mô hình
tổ chức kinh tế của công nghiệp hoá cũng đã
phát triển mạnh mẽ cuối thời kỳ CMCN lần
thứ nhất, đánh dấu bằng việc ban hành Bộ
luật Thương mại Pháp năm 1807. Ở Hoa Kỳ,
New York là bang đầu tiên ban hành Luật
Doanh nghiệp năm 1811, chỉ áp dụng đối với
các công ty sản xuất, tiếp đó là New Jersey
năm 1816. Năm 1883, Luật doanh nghiệp
của Delaware được ban hành và sau đó trở
thành hình mẫu cho hầu hết các đạo luật
doanh nghiệp ở Hoa Kỳ. Nước Anh, năm
1844 bắt đầu ban hành Luật Doanh nghiệp
và năm 1862 Đạo luật Doanh nghiệp tổng
hợp được hình thành trên cơ sở sửa đổi các
đạo luật trước đó10. Ở Đức, bối cảnh chính
trị trong nửa đầu của thế kỷ 19 đã khiến việc
pháp điển hoá bị chậm. Năm 1843, Đức ban
hành Luật Doanh nghiệp và năm 1860, Đạo
luật Thương mại chung thống nhất toàn Đức
(bao gồm cả Áo) được ban hành. Bộ luật sửa
đổi của nó (năm 1884) chính là nguyên mẫu
cho Bộ luật Thương mại của Nhật Bản11. Sự
phát triển của pháp luật doanh nghiệp trong
đó doanh nghiệp với tư cách một tổ chức
kinh doanh được pháp luật đối xử như những
con người nhân tạo,12 có đời sống của riêng
nó cũng cho thấy sự đáp ứng của pháp luật
đối với nhu cầu phát triển kinh doanh trong
thời kỳ công nghiệp hoá. Như vậy, có thể
thấy cuộc CMCN lần thứ nhất đã tạo ra nền
tảng cho sự phát triển của pháp luật hiện đại.
2. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai:
Pháp luật của xã hội công nghiệp phát
triển
Cuộc CMCN lần thứ hai diễn ra vào
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 với trung tâm
là Hoa Kỳ. Cuộc cách mạng này tạo ra một
bước tiến lớn so với cuộc cách mạng trước
đó nhờ điện khí hóa và từ đó, hỗ trợ cho sự
phát triển của các mô hình sản xuất hàng loạt
(mass production). Tác động của cuộc
CMCN lần thứ hai đối với sự phát triển của
pháp luật được thể hiện rõ nhất trong sự phát
triển của pháp luật Hoa Kỳ.
Trong cuộc CMCN lần thứ hai, Hoa Kỳ
với tư cách là trung tâm của cuộc CMCN đã
chứng kiến sự lớn mạnh của các nhà tài phiệt
trong các lĩnh vực thép (Andrew Carnegie),
dầu lửa (John Rockerfeller), tài chính (J. P.
8 https://www.britannica.com/topic/civil-law-Romano-Germanic.
9 Đạo luật này là một phần của hệ thống các đạo luật được Anh quốc ban hành ở các thuộc địa của mình.
10 Katharina Pistor, Yoram Keinan, Jan Kleinheisterkamp & Mark D. West: Evolution of Corporate Law: A
Cross-Country Comparision, University of Pennsylvania Journal of International Economic Law (2002)
23 (4) 798-9.
Xem Cũng
xem Judit Kapas, Industrial revolutions and the evolution of the firm’s organization: an historical perspec-
tive, Journal of Innovation Economics & Management 2008/2 (2) 15-33, https://www.cairn.info/revue-
journal-of-innovation-economics-2008-2-page-15.htm#no2.
11 Trần Thị Quang Hồng, The Trajectory of Merger Regulation in Transforming Vietnam, PhD Thesis,
Monash University (2016).
12 Charles O’Kelly, The Evolution of the Modern Corporation: Corporate Governance Reform in Context,
University of Illilois Law Review (2013) 1001, 1021.
21Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Morgan)... Họ thống lĩnh thị trường bằng
quy mô, tạo ra sức sản xuất lớn và cung cấp
cho người tiêu dùng hàng hoá đa dạng với
giá rẻ. Bên cạnh đó, để đối mặt với nguy cơ
sản xuất dư thừa và tình trạng cạnh tranh có
tính huỷ diệt, chính các nhà tài phiệt này
cũng đi đầu trong việc thiết lập các liên minh
trong ngành nhằm hạn chế cạnh tranh. Để
ngăn chặn các hình thức thông đồng làm hạn
chế cạnh tranh này, Quốc hội Hoa Kỳ đã
thông qua đạo luật cạnh tranh hiện đại đầu
tiên có ảnh hưởng lớn đối với thế giới: Luật
Chống độc quyền Sherman Act 1890. Khi
các liên kết hạn chế cạnh tranh dạng lỏng
(hiệp hội, cartel) bị ngăn chặn bởi việc thực
thi Luật Sherman Act, các nhà tài phiệt
nhanh chóng chuyển sang cách liên kết chặt
là sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ hơn thành
một doanh nghiệp lớn. Điều này đã dẫn đến
bước hoàn thiện tiếp theo của pháp luật cạnh
tranh với sự ra đời của Luật Clayton 1914,
cấm các trường hợp sáp nhập doanh nghiệp
làm suy giảm đáng kể thị trường cạnh
tranh13. Luật Cạnh tranh của Hoa Kỳ hình
thành trong giai đoạn này đã trở thành hình
mẫu của luật cạnh tranh hiện đại và được
tiếp thu ở nhiều quốc gia trên thế giới sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sự ra đời của
pháp luật cạnh tranh hiện đại ở thời kỳ này
cũng cho thấy chính sách của nhà nước đối
với các doanh nghiệp bị mất lợi thế trong
cuộc CMCN lần thứ hai. Với việc cấm các
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền và thông
đồng giữa các doanh nghiệp để lũng đoạn thị
trường, luật cạnh tranh thể hiện khía cạnh
bảo vệ những loser thông qua vai trò duy trì
cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Sự phát triển của nền sản xuất hàng loạt
cũng củng cố vị thế của mô hình công ty
hiện đại với quy mô lớn và được quản lý
thông qua nhiều tầng nấc, đứng đầu là các
CEO (chủ tịch) với vai trò vừa là người lãnh
đạo và dẫn dắt công ty và việc quản trị được
thực hiện thông qua các nhà quản lý trung
gian để đảm bảo điều hành một doanh
nghiệp quy mô lớn. Mô hình này, sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, đã mau chóng mở
rộng sang các nền kinh tế ở châu Âu và Nhật
Bản, mặc dù có những điều chỉnh nhất định
để đảm bảo sự tương thích với đặc thù thể
chế mỗi quốc gia. Điều đáng chú ý với mô
hình công ty hiện đại ở trên là khả năng huy
động các nguồn vốn phân tán trong cộng
đồng để tạo ra tiềm lực tài chính khổng lồ
của công ty. Thay vì các doanh nghiệp tư
nhân (proprietorship) và các hợp danh với
một lượng nhỏ các nhà quản lý sử dụng
nguồn vốn đầu tư của chính mình, các công
ty hiện đại đã mở rộng quy mô nhờ vào sự
tách biệt giữa nhà đầu tư và người quản lý.
Mô hình quản lý của nó cho phép các nhà
đầu tư có thể tham gia góp vốn vào công ty
thông qua các hình thức mua cổ phần, mua
trái phiếu và không nhất thiết phải tham gia
vào hoạt động quản lý doanh nghiệp. Các
nhà quản lý, ngược lại, được sử dụng nguồn
vốn không phải của mình để đầu tư và bị
ràng buộc bởi trách nhiệm tận tâm, trung
thực. Như vậy, có thể thấy, nếu như các
doanh nghiệp tư nhân và liên kết một nhóm
nhỏ các nhà đầu tư là mô hình doanh nghiệp
của CMCN lần thứ nhất thì CMCN lần thứ
hai đã cho phép tạo ra các mô hình sản xuất
hàng loạt và cùng với nó, công ty hiện đại
với mô hình chủ sở hữu phân tán và có sự
tách biệt giữa nhà đầu tư (chủ sở hữu) với
nhà quản lý (giám đốc) đã ra đời14. Pháp luật
doanh nghiệp đã phát triển theo hướng vừa
13 The 4th Industrial Revolution, https://www.sentryo.net/the-4-industrial-revolutions/.
Số 11 (411) - T6/202022
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
tạo điều kiện cho các winner thông qua thể
chế hoá mô hình sở hữu doanh nghiệp theo
cấu trúc vốn phân tán và tách rời quyền sở
hữu với quyền quản lý, vừa chú trọng bảo vệ
những người có thể là loser thông qua các cơ
chế bảo vệ cổ đông nhỏ.
Như vậy, dấu ấn quan trọng nhất về sự
phát triển của pháp luật trong CMCN lần thứ
hai chính là pháp luật về chống độc quyền
và pháp luật về công ty hiện đại.
3. Các mạng công nghiệp lần thứ ba và
sự phát triển của pháp luật về không gian
mạng
Cuộc CMCN lần thứ ba được coi là bắt
đầu từ thập niên 70 đến cuối thế kỷ 20, với
các thành tựu công nghệ nổi bật là bán dẫn,
máy tính, tự động hóa, Internet15. Internet,
với vai trò là thành tựu có ảnh hưởng to lớn
nhất của CMCN lần thứ ba, đã chuyển đổi
cách thức con người giao tiếp, cách công ty
tiến hành các hoạt động kinh doanh và cách
các nhà nước thực thi vai trò quản trị của
mình. Những thay đổi này tác động mạnh
mẽ đến hệ thống pháp luật.16 Internet cho
phép thực hiện các giao dịch không phụ
thuộc vào khoảng cách địa lý, cho phép tạo
ra và sử dụng các tài nguyên dưới dạng điện
tử trên một không gian ảo không có biên giới
lãnh thổ và nhờ đó, tạo ra những cơ hội kinh
doanh, học tập, giải trí, giao tiếp cho tất
cả những ai có thể tiếp cận được nó. Tuy
nhiên, điều đó cũng làm nảy sinh các vấn đề
về các loại tài sản mới phát sinh trên không
gian mạng, nguy cơ bị xâm phạm quyền
riêng tư, nguy cơ bị xâm nhập, phá hoại hệ
thống, nguy cơ xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng. Internet cũng là môi trường
lý tưởng cho các hành vi lạm dụng, đặc biệt
đối với các đối tượng dễ bị tổn thương như
trẻ em Đối với nhà nước, Internet cung
cấp những công cụ quản lý nhưng đồng thời
cũng làm nảy sinh các vấn đề về an ninh hệ
thống, sự khó khăn trong quá trình kiểm soát
các giao dịch xuyên biên giới qua mạng và
nguy cơ thất thu thuế. Có thể thấy, công nghệ
của CMCN lần thứ ba một lần nữa lại cho
thấy khả năng của công nghệ trong việc tạo
ra lợi thế cho một nhóm người và bất lợi cho
một nhóm khác. Những ứng xử về mặt chính
sách và pháp luật của các quốc gia, từ đó,
cũng đã tạo ra những chế định pháp luật mới
như luật về giao dịch điện tử, về bảo vệ dữ
liệu trên mạng, về quyền riêng tư, về bản
quyền, về phát ngôn trên mạng xã hội, về
chống gian lận và lạm dụng trên máy tính,
về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em v.v..17
4. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - sự
tham gia sâu và rộng của công nghệ trong
tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và những
vấn đề đặt ra đối với pháp luật
Kể từ khi Klaus Schwab công bố rằng
thế giới đã chuyển sang cuộc CMCN lần thứ
tư,18 đã có rất nhiều những bàn luận về tác
động của cuộc CMCN này đối với hệ thống
14 Bradford L. Smith, The Third Industrial Revolution: Policy Making for the Internet, 3 Colum. Sci. & Tech.
L. Rev. 1 (2001).
15 Có thể lấy rất nhiều ví dụ về các đạo luật mới điều chỉnh các vấn đề liên quan đến Internet, chẳng hạn như
ở Anh có Luật bảo vệ dữ liệu 1998 (Data Protection Act), Luật thương mại điện tử 2002 (Electronic
Commerce Regulations). Hoa Kỳ có các đạo Luật về quyền riêng tư trong giao dịch điện tử 1986 (The
Electronic Communications Privacy Act), Luật về bản quyền đối với tài liệu số 1998 (Digital Millemnium
Copyright Act), Luật về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng 1998 (The Children’s Online Privacy
Protection Act), Luật về lạm dụng và gian lận trên máy tính 1984 (The Computer Fraud and Abuse Act).
Xem Internet Law: Everything You Need to Know, https://www.upcounsel.com/internet-law.
16 Klaus Schwab, The Fourth Industrial Revolution, World Economic Forum (2017).
23Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
pháp luật. Ở khía cạnh khả năng tạo ra các
winner và loser, CMCN lần thứ tư tạo ra vô
số tiện ích mới thông qua các công nghệ dữ
liệu lớn, Internet vạn vật, công nghệ chuỗi
khối (blockchain), in 3D, công nghệ AI, cảm
biến, nhân bản vô tính v.v.. Các công nghệ
này không chỉ xóa nhòa ranh giới giữa các
ngành mà còn làm gia tăng khả năng can
thiệp của con người vào quá trình tự nhiên.
Những công nghệ này, khi được sử dụng để
phục vụ cho các dịch vụ y tế, chăm sóc sức
khoẻ, thay thế những công việc cần nhiều
sức lực hoặc lặp đi lặp lại sẽ mang lại lợi
ích rất lớn cho các doanh nghiệp cũng như
người dân. Ngược lại, chúng cũng có thể đe
dọa quá trình phát triển tự nhiên nếu bị lạm
dụng, chẳng hạn như nguy cơ nhân bản vô
tính con người, sử dụng người máy để kiểm
soát, tấn công người khác, nguy cơ mất việc
làm của người lao động, doanh nghiệp bị phá
sản do không kịp thích ứng, quốc gia bị đe
dọa tấn công hệ thống v.v.. Có thể thấy, hầu
như tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội
sẽ đều có thể có sự can thiệp của công nghệ
và ảnh hưởng sâu rộng của công nghệ 4.0 sẽ
khiến một người, một doanh nghiệp hay một
quốc gia đều có thể trở thành winner hay
loser của cuộc cách mạng này.
Kinh nghiệm từ các cuộc CMCN trước
cho thấy, mọi ứng xử thành công về mặt
chính sách và pháp luật đối với công nghệ
đều phải dựa trên sự nhận diện đầy đủ về
những đối tượng có thể là winner hay loser
của nó. CMCN lần thứ tư sẽ làm thay đổi
nhiều mặt của đời sống xã hội và sẽ đòi hỏi
nhiều sự thay đổi, điều chỉnh trong hệ thống
pháp luật.
Chẳng hạn, đối với luật doanh nghiệp,
CMCN lần thứ tư đang tạo những mô hình
kinh doanh mới trước đó chưa có tiền lệ và
đòi hỏi pháp luật doanh nghiệp phải được
điều chỉnh để thích ứng. Trên thực tế, sự
bùng nổ của thương mại điện tử và đặc biệt
là sự phát triển của các ứng dụng phát triển
kinh tế nền tảng (Uber, Grab, Airbnb,
Netflix) cũng như sự chao đảo của ngành
taxi truyền thống trước sự phát triển của taxi
công nghệ cho thấy công nghệ sẽ là thế
mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra
những winner là những doanh nghiệp có khả
năng nắm bắt và ứng dụng nhanh công nghệ,
đồng thời đe dọa biến nhiều doanh nghiệp
kinh doanh theo mô hình truyền thống thành
các loser trên thị trường. Đối với các winner,
tức là những doanh nghiệp nắm bắt và tận
dụng được công nghệ, việc thiết lập một
khuôn khổ pháp lý thích hợp cho các hoạt
động kinh doanh theo mô hình mới ứng
dụng công nghệ là nhu cầu thiết yếu. Có thể
dự đoán rằng, pháp luật doanh nghiệp sẽ tiếp
tục phát triển theo hướng không chỉ đáp ứng
sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền
quản lý để đáp ứng nhu cầu huy động các
nguồn vốn phân tán trong xã hội mà còn đáp
ứng được yêu cầu quản lý các loại tài sản
phân tán nhằm cho phép huy động các tài
sản nhàn rỗi trong xã hội (thông qua các nền
tảng kinh tế chia sẻ).
Bên cạnh mô hình kinh tế nền tảng, sự
phát triển của công nghệ cũng đang tạo ra
những lĩnh vực kinh doanh mới trong đó có
sự giao thoa và liên kết chặt chẽ với các lĩnh
vực kinh doanh truyền thống, chẳng hạn như
Fintech, tạo ra những cơ hội phong phú cho
sự phát triển của các starts-up. Pháp luật cần
được phát triển tương ứng để thiết thập một
khuôn khổ pháp lý thích hợp cho sự phát
triển mới này.
Cùng với việc quan tâm tới những ứng
xử pháp lý đối với winner, pháp luật không
thể bỏ qua các doanh nghiệp có nguy cơ trở
thành loser. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện
pháp luật trên cơ sở nhận biết đầy đủ các
khía cạnh pháp lý của công nghệ để đảm bảo
các doanh nghiệp theo mô hình mới hay mô
hình truyền thống đều kinh doanh và cạnh
tranh bình đẳng. Việc phát huy vai trò của
công nghệ chỉ để tạo ra những lợi thế về chất
lượng và giá cả của hàng hoá và dịch vụ, tránh
tối đa nguy cơ pháp luật không thích ứng
được với công nghệ, dẫn đến một môi trường
pháp lý kinh doanh trở nên không bình đẳng
do một số doanh nghiệp có thể dựa vào công
nghệ để không phải tuân thủ những ràng buộc
pháp lý nhất định trong khi những doanh
nghiệp kinh doanh theo mô hình truyền thống
lại phải tuân thủ. Sự khác biệt về mặt quy chế
quản lý giữa kinh doanh taxi truyền thống và
kinh doanh taxi công nghệ trong những năm
vừa qua đã cho thấy vấn đề này. Pháp luật cần
nhanh nhạy hơn về mặt công nghệ để bảo
đảm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
thực sự là cạnh tranh bình đẳng. Bên cạnh
doanh nghiệp, những khía cạnh tác động đối
với các cá nhân thuộc các thành phần khác
nhau, các nhóm xã hội và những tác động ở
cấp độ quốc gia cũng cần được nhận biết một
cách thấu đáo để có thể có những ứng xử phù
hợp nhất không chỉ ở cấp độ pháp luật quốc
gia mà cả pháp luật quốc tế.
5. Kết luận
Trải qua các cuộc CMCN, loài người đã
có thể nhận thức tốt hơn về tác động của
công nghệ đối với xã hội, nhà nước và pháp
luật cũng như nhận thức đầy đủ hơn về tầm
quan trọng của những chính sách, pháp luật
phù hợp để ứng xử đối với những tác động
này. Mục tiêu của các chính sách là công
nghệ phải phục vụ cho phát triển, cho tiến
bộ xã hội. Công thức chung đối với ứng xử
chính sách và pháp luật trước tác động của
CMCN là phát huy thành tựu, tận dụng cơ
hội để phát triển đồng thời ngăn ngừa những
hệ quả tiêu cực mà sự phát triển của công
nghệ mang lại. Một trong những cách thức
để triển khai công thức này là nhận biết ai có
thể là winner và ai có thể là loser của mỗi
cuộc CMCN.
Các cuộc CMCN đã tạo ra nền tảng cho
sự phát triển của pháp luật hiện đại với các
trụ cột về quyền tự do, bình đẳng của các cá
nhân, của các quốc gia, về nguyên tắc pháp
quyền, về các mô hình doanh nghiệp, về
quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh... Và
ở một góc độ nhất định, đó chính là kết quả
của sự phản ứng về chính sách và pháp luật
đối với các winner và loser trong các cuộc
CMCN. Ứng xử chính sách và pháp luật một
cách phù hợp với các winner và loser là bí
quyết của sự thành công n
Số 11 (411) - T6/202024
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cach_mang_cong_nghiep_va_phap_luat.pdf