Hỗ trợ phát triển tử cung và các đặc điểm sinh
dục phụ ở bệnh nhân POF trẻ em
Ở phụ nữ trẻ đã mắc POF trước khi dậy thì, khởi
phát dậy thì nhân tạo là bước cần thiết để thúc đẩy
sự phát triển cơ thể trong giai đoạn dậy thì cũng
như giúp phát triển các đặc tính sinh dục phụ30.
Liệu trình với nội tiết tố phát triển (GH) giúp phát
triển cơ thể ở bệnh nhân mắc hội chứng Turner.
Trước đây do lo ngại liệu pháp oestrogen chỉ định
quá sớm làm ngừng phát triển chiểu cao, liệu trình
eesstrogen chỉ được chỉ định vào độ tuổi vị thành
niên trung bình, tuy nhiên quan điểm này đã thay
đổi và hiện nay estrogen được chỉ định sớm ngay
từ đầu31. Sau thời điển dậy thì thuốc viên tránh thai
loại phối hợp sẽ tiếp tục được chỉ định. Ở trẻ em nữ
có chỉ định khởi phát dậy thì liệu pháp trên đủ để
phát triển các đặc tính sinh dục phụ, nhưng hình
thái tử cung thường không đạt yêu cầu, độ dày
niêm mạc và dòng chảy mạch máu tử cung cũng
không đạt mức cần thiết cho hoạt động sinh sản32.
Bảo tồn khả năng sinh sản là một vấn đề quan
trọng ở bệnh nhân trẻ mắc POF, do vậy việc tối
ưu hóa hình thái tử cung và chức năng trục vùng
dưới đồi – tuyến yên – buồng trứng là vấn đề
sống còn. Liệu pháp nội tiết thay thế với miếng
dán oestradiol (Estraderm 50) tăng dần từ 1 đến 3
miếng, 2 lần/tuần và progesteron bắt đầu từ ngày
thứ 14 (đường uống hoặc đặt âm đạo) giúp đạt
được nồng độ nội tiết tố sinh dục tương đương
với nồng độ ở phụ nữ có chức năng sinh dục bình
thường và cải thiện các chỉ số chức năng tử cung.
Mẫu sinh thiết mô niêm mạc tử cung cũng cho
thấy có đáp ứng chức năng với liệu pháp trên33, 34.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 20 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cập nhật chẩn đoán và xử trí suy buồng trứng sớm – 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYỄN VŨ QUỐC HUYTỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
06
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Vũ Quốc Huy, email: nvqhuy@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài (received): 18/07/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 01/08/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/08/2015
Nguyễn Vũ Quốc Huy
Trường Đại học Y Dược Huế
CẬP NHẬT CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ
SUY BUỒNG TRỨNG SỚM – 2015
Tóm tắt
Suy buồng trứng sớm, còn được gọi là suy buồng
trứng nguyên phát (premature ovarian failure - POF,
primary ovarian insuffisance - POI) là tình trạng
biến đổi chức năng buồng trứng khác với tình trạng
mãn kinh sinh lý, làm rối loạn sự phát triển các nang
noãn, được đặc trưng bởi tình trạng vô kinh, nồng độ
estrogen thấp và nồng độ FSH tăng cao (>40 U/l) trước
độ tuổi 40 ở khoảng 1% các phụ nữ.
Các trường hợp suy buồng trứng sớm tự phát có thể
chia thành 3 nhóm tùy theo bệnh nguyên: vô căn, di
truyền và tự miễn. Suy buồng trứng sớm vô căn chiếm
đa số các trường hợp, mặc dù cho đến nay người ta đã
tìm thấy một số khiếm khuyết di truyền là nguyên nhân
của tình trạng suy buồng trứng sớm tự phát. Bên cạnh
đó, số phụ nữ bị suy buồng trứng sớm mắc phải hoặc
do điều trị hóa chất, xạ trị và nhất là sau các can thiệp
phẫu thuật vùng bụng chậu gây ra ngày càng tăng. Các
liều pháp điều trị ung thư ở trẻ em với tỷ lệ thành công
ngày càng cao sẽ gia tăng tỷ lệ bệnh nhân ung thư trẻ
em và người trẻ được điều trị khỏi, với những di chứng
trực tiếp trên buồng trứng và chức năng sinh sản, đặc
biệt là tình trạng suy buồng trứng.
Các tiêu chuẩn để chẩn đoán suy buồng trứng
sớm bao gồm độ tuổi xảy ra dưới 40 tuổi, bệnh nhân
có thiểu kinh/vô kinh ít nhất 4 tháng và có hai lần xét
nghiệm FSH cách nhau tối thiểu 1 tháng đều nằm
trong mức hậu mãn kinh. Đa số phụ nữ mắc chứng
suy buồng trứng sớm thường vẫn có hoạt động buồng
trứng ngắt quãng hơn là ngừng hoàn toàn chức năng
của buồng trứng. Do vậy đa số bệnh nhân sẽ hành
kinh bất thường, không dự báo được hơn là vô kinh
hoàn toàn. Suy buồng trứng sớm có thể có các hình
thái lâm sàng với các mức độ thay đổi khác nhau, bao
gồm thể ẩn, thể sinh hóa và thể rõ rệt.
Hỗ trợ tâm lý là biện pháp can thiệp quan trọng
ngay từ đầu, bao gồm tư vấn về tiến triển & khả năng
hồi phục, các lựa chọn điều trị ngắn hạn và dài hạn, khả
năng mang thai trong trường hợp có nhu cầu, các rối
loạn niệu dục, rối loạn tình dục và các ảnh hưởng dài
hạn trên nguy cơ loãng xương / tim mạch. Điều trị suy
buồng trứng sớm bao gồm liệu pháp nội tiết thay thế,
các biện pháp tránh thai, bảo tồn chức năng buồng
trứng trong trường hợp điều trị ung thư và các kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản khi có nhu cầu sinh sản. Theo khuyến
cáo của Hiệp hội Mãn kinh quốc tế (2013), liệu pháp nội
tiết thay thế được chỉ định cho phụ nữ suy buồng trứng
sớm ít nhất cho đến tuổi 50-52 (tuổi mãn kinh tự nhiên).
Từ khóa: suy buồng trứng sớm, liệu pháp nội tiết
thay thế.
Abstract
Premature ovarian failure, (POF, also called
primary ovarian insuffisance - POI) is a condition
of changed ovarian function which is different to
physiological menopause due to impaired follicles
development and is characterized by amenorrhea,
low estrogen levels and higher levels of FSH (> 40 U/l)
before the age of 40 years in about 1% of women.
Cases of spontaneous premature ovarian failure
can be divided into 3 groups according to etiology:
idiopathic, hereditary and autoimmune. Idiopathic
premature ovarian failure accounts for the majority
of cases, although some genetic defects have been
found to be the cause of spontaneous premature
ovarian failure. In addition, the number of women
suffering from premature ovarian failure caused by
chemotherapy, radiation therapy, and especially after
the pelvic surgical intervention is increasing. Cancer
therapy regimens in children with rising success rates
will increase the prevalence of well treated children
and young cancer patients, with direct sequelae on
the ovaries and reproductive function, particularly the
premature ovarian failure.
The criteria for diagnosis of premature ovarian
failure include age under 40 years, oligomenorrhea/
amenorrhea for at least 4 months and have two FSH
tests at least 1 month apart above the menopause
value. The majority of women with premature ovarian
failure often still have intermittent ovarian activity
rather than complete stop of ovarian function.
Therefore the majority of patients will have menstrual
irregularities rather than complete amenorrhea.
Clinical manifestations of premature ovarian failure
vary with the different levels, including hidden,
biochemical and clinical signs and symptoms.
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
07
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 06-13, 2015
1. Mở đầu
Suy buồng trứng sớm, còn được gọi là suy buồng
trứng nguyên phát (premature ovarian failure - POF,
primary ovarian insuffisance - POI) là tình trạng biến đổi
chức năng buồng trứng, rối loạn sự hình thành và phát
triển các nang noãn, được đặc trưng bởi tình trạng vô
kinh, nồng độ estrogen thấp và nồng độ FSH tăng cao
(> 40 U/l) trước độ tuổi 40 ở khoảng 1-3% các phụ nữ1. Tỷ
lệ này thay đổi theo tuổi, chiếm khoảng 1/10.000 phụ nữ
độ tuổi 20, 1/1.000 ở độ tuổi 30 và có thể lên đến 1/100 ở
độ tuổi 402. Suy buồng trứng sớm được chẩn đoán trong
khoảng 10% đến 28% các phụ nữ vô kinh nguyên phát
và khoảng 4% đến 18% các phụ nữ có vô kinh thứ phát3.
Một khảo sát được công bố năm 2015 trên 34.041
phụ nữ Estonia trong khoảng thời gian từ 2003 đến
2013 cho thấy tỷ lệ lưu hành của POF tự phát trong
quần thể phụ nữ bình thường là 0,91% (0,81–1,02%)4.
Ở khoảng 10% bệnh nhân suy buồng trứng sớm
sẽ có tình trạng vô kinh nguyên phát, tuy nhiên đa số
bệnh nhân thường xuất hiện tình trạng bất thường
chu kỳ kinh như kinh thưa/vô kinh, đa kinh hoặc ra
máu bất thường từ tử cung sau khi đã đạt dậy thì bình
thường và đã hành kinh đều đặn.
2. Bệnh nguyên
2.1. Suy buồng trứng sớm tự phát6
Nhìn chung, các trường hợp suy buồng trứng
sớm tự phát có thể chia thành 3 nhóm tùy theo bệnh
nguyên: vô căn, di truyền và tự miễn. Suy buồng
trứng sớm vô căn chiếm đa số các trường hợp, mặc
dù cho đến nay người ta đã tìm thấy một số khiếm
khuyết di truyền là nguyên nhân của tình trạng suy
buồng trứng sớm tự phát7.
Ở bệnh nhân suy buồng trứng sớm tự phát người
ta đã tìm thấy đột biến một số gen mã hóa nhóm
các yếu tố phát triển thuộc họ Transforming Growth
Factor β (TGF-β) như các gen BMP15, GDF9 và INHA8.
Các yếu tố phát triển này được chế tiết bởi chính noãn
hoặc các tế bào hạt và có vai trò quan trọng trong
điều hòa chức năng buồng trứng. AMH cũng chính là
một thành viên của họ này, do tế bào hạt tiết ra.
Bệnh nhân có hội chứng Turner sẽ có mất hoàn toàn
(kiểu gen 45,X) hoặc một phần một nhiễm sắc thể X, cũng
như thể khảm (45,X/46,XX). Do đó biểu hiện lâm sàng của
hội chứng Turner cũng rất thay đổi, trong đó chiều cao
thấp và suy buồng trứng sớm là các dấu hiệu điển hình.
Một trường hợp bẩm sinh khác có liên quan đến
nhiễm sắc thể X là “tiền đột biến” gen FMR19. Đột biến
gen FMR1 sẽ dẫn đến tình trạng chậm phát triển tâm
thần ở nam giới, còn được gọi là hội chứng nhiễm sắc
thể X dễ gãy10. Ở phụ nữ có tiền đột biến gen này, tần
suất suy buồng trứng sớm là 12–28% 11.
Bệnh tự miễn ở buồng trứng chịu trách nhiệm cho
khoảng 30% các trường hợp suy buồng trứng sớm tự
phát, đặc biệt trong bối cảnh hội chứng bệnh lý tự miễn
đa tuyến12, bao gồm bệnh Addison xuất hiện sớm từ thời
niên thiếu, suy giáp hoặc suy thượng thận đi kèm nấm
da và niêm mạc. Khoảng 10–20% bệnh nhân Addison tự
miễn sẽ có suy buồng trứng sớm13. Đáp ứng miễn dịch
đối với các tế bào sản xuất steroid và các men đều được
tìm thấy ở cả buồng trứng lẫn tuyến thượng thận, là lý
do giải thích cho sự kết hợp giữa suy buồng trứng sớm
và suy thượng thận do tự miễn.
2.2. Suy buồng trứng sớm mắc phải
Số lượng phụ nữ bị suy buồng trứng sớm mắc phải
Psychological support is an important
intervention from the onset, including advice on
the progress & resilience, short- and long-term
treatment options, possibility of pregnancy in selected
cases, genitourinary disorders, sexual dysfunction
and long-term effects on the risk of osteoporosis/
cardiovascular diseases. Treatment of premature
ovarian failure include hormone replacement
therapy, the contraceptive methods including COCs,
preservation of ovarian function in the case of cancer
treatment and assisted reproduction techniques once
required. According to recommendations from the
International Menopause Society (2013), hormone
replacement therapy is indicated to women diagnosed
with premature ovarian failure at least until the age of
50-52 years (natural menopause).
Keywords: premature ovarian failure, hormone
replacement therapy.
Hình 1: Hình ảnh buồng trứng trong suy buồng trứng sớm: (A) Siêu âm, (B) Mô học5.
NGUYỄN VŨ QUỐC HUYTỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
08
hoặc do điều trị gây ra ngày càng tăng. Các liều pháp
điều trị ung thư ở trẻ em với tỷ lệ thành công ngày càng
cao sẽ gia tăng tỷ lệ bệnh nhân ung thư trẻ em và người
trẻ được điều trị khỏi, với những di chứng trực tiếp trên
buồng trứng và chức năng sinh sản, đặc biệt là tình trạng
suy buồng trứng.
Tác động trên buồng trứng phụ thuộc vào loại ung
thư, chế độ và liều lượng của liệu pháp. Xạ trị và hóa chất
với các thuốc nhóm alkyl hóa như cyclophosphamide,
mechlorethamine được biết rõ là có tác dụng độc đáng
kể lên buồng trứng. Tuy nhiên các thuốc không thuộc
nhóm alkyl hóa như doxorubicin và bleomycin nếu được
sử dụng trong các phác đồ đa hóa trị cũng có thể có tác
dụng độc tích lũy trên buồng trứng. Do tỷ lê sống sót sau
ung thư ở trẻ em tăng lên, nhiều đối tượng này về sau
có nguy cơ vô sinh do các liệu pháp chống ung thư, do
đó đòi hỏi phải được tư vấn chuyên biệt thích hợp. Việc
mang thai và có con đầu lòng muộn làm giảm hơn nữa
khả năng sinh sản ở bệnh nhân sống sót sau ung thư.
Bên cạnh gánh nặng về tâm lý của vô sinh, việc mất chức
năng buồng trứng quá sớm cũng có các ảnh hưởng đến
sức khỏe, do chúng có thễ dẫn đến sự xuất hiện sớm
của các rối loạn mãn kinh như bốc hỏa, vã mồ hôi ban
đêm, khô âm đạo, cũng như xuất hiện sớm các rối loạn
hậu mãn kinh như loãng xương, bệnh lý tim mạch , hội
chứng chuyển hóa và suy giảm trí nhớ.
Di truyền
Liên quan nhiễm sắc thể X
Bất thường số lượng nhiễm sắc thể
Mất đoạn gen
Tiền đột biến X dễ gãy
Đột biến đơn gen
Tăng galactose máu
Khiếm khuyết thụ thê gonadotropin
Khiếm khuyết inhibin
Khiếm khuyết men sinh steroid
Khác
Các hội chứng di truyền
Hội chứng tự miễn đa tuyến
Hội chứng BPEI (khe mi hẹp, sụp mi, góc mắt xa nhau và lật mi)
Chứng loạn dưỡng cơ
Hội chứng Perrault (điếc bẩm sinh)
Chứng thất điều-giãn mạch
Bệnh tự miễn
Rối loạn đơn độc tại buồng trứng
Hội chứng tự miễn đa tuyến 1 và 2
Nhiễm trùng
Do điều trị
Hóa liệu pháp
Xạ trị
Phẫu thuật buồng trứng nhiều lần
Độc chất từ môi trường
Vô căn
Bảng 1. Các nguyên nhân suy buồng trứng sớm14
3. Cơ chế bệnh sinh
Suy buồng trứng sớm là kết quả của hai tiến trình,
sự cạn kiệt nang noãn và sự phá hủy nang noãn.
3.1. Cạn kiệt nang noãn
Nguyên nhân của cạn kiệt nang noãn bao gồm:
- Khiếm khuyết nhiễm sắc thể: một số bệnh di truyền
như hội chứng Turner và nhiễm sắc thể X dễ gãy.
- Hóa liệu pháp và xạ trị là hai nhóm nguyên nhân
thường gặp gây suy buồng trứng do tác dụng độc
của điều trị. Các phương thức điều trị này sẽ gây tổn
thương chất liệu di truyền trong tế bào.
Các chất độc khác như hút thuốc lá, hóa chất,
thuốc diệt côn trùng và virus có thể đẩy nhanh tình
trạng suy buồng trứng.
3.2. Rối loạn chức năng nang noãn
Rối loạn chức năng nang noãn có thể do các bệnh
lý sau gây ra:
- Đáp ứng miễn dịch kháng mô buồng trứng
(bệnh tự miễn), làm tổn thương nang noãn và noãn.
Yếu tố khởi phát chưa rõ, tuy nhiên nhiễm một số
virus có thể là yếu tố khởi phát chính.
- Nguyên nhân chưa rõ.
4. Triệu chứng và chẩn đoán
4.1. Triệu chứng
Mất kinh hoặc kinh thưa thường là những dấu
hiệu đầu tiên của POF.
Các dấu hiệu muộn hơn thường giống như mãn
kinh tự nhiên:
- Cơn bốc hỏa
- Cơn vã mồ hôi ban đêm
- Dễ bị kích thích
- Khả năng tập trung kém
- Giảm ham muốn tình dục
- Khô âm đạo
- Đau khi giao hợp
4.2. Chẩn đoán xác định
Các tiêu chuẩn để chẩn đoán suy buồng trứng
sớm bao gồm15
- Tuổi < 40
- Thiểu kinh/vô kinh ít nhất 4 tháng.
- Hai lần xét nghiệm FSH cách nhau tối thiểu 1
tháng đều nằm trong mức hậu mãn kinh (>30 U/L).
Năm 2010, khuyến cáo đồng thuận của Hiệp hội
mãn kinh và mãn dục nam Âu châu đưa ra mức FSH
>40IU/L và oestradiol < 50 pmol/l16.
Bằng chứng cho thấy đa số phụ nữ mắc chứng suy
buồng trứng sớm thường vẫn có hoạt động buồng
trứng ngắt quãng hơn là ngừng hoàn toàn chức năng
của buồng trứng. Do vậy đa số bệnh nhân sẽ hành
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
09
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 06-13, 2015
kinh bất thường, không dự báo được hơn là vô kinh
hoàn toàn. Vì vậy không đòi hỏi một thời gian vô kinh
hoàn toàn để đưa ra chẩn đoán.
Liên quan đến dự trữ nang noãn và sự cạn kiệt nang
noãn – một trong hai cơ chế chính dẫn đến POF, gần
đây người ta đã tập trung khảo sát vai trò của AMH.
Anti-Müllerian Hormone (AMH) là một polypeptid,
thành viên của đại gia đình các Transforming Growth
Factor β (TGF-β), là chất chỉ điểm tốt cho tập hợp các
nang noãn nhỏ, đang phát triển. Gen mã hóa AMH nằm
trên nhiễm sắc thể số 13 và thụ thể của nó trên nhiễm
sắc thể số 12 có tên là AMHR2. Nồng độ AMH thấp có
liên quan với tình trạng mãn kinh sớm và giảm dự trữ
buồng trứng. Các thay đổi của AMH xảy ra trước khi
nồng độ FSH thay đổi ở bệnh nhân suy buồng trứng.
Lie Fong và cộng sự (2009) đã khảo sát trên 185 phụ
nữ đã được điều trị ung thư khi chưa dậy thì, so sánh với
42 trường hợp chứng với thời gian theo dõi trung bình
18,1 năm (4,1–43,2 năm). Trung vị nồng độ AMH ở hai
nhóm không khác nhau đáng kể (1,7 so với 2,1 mg/l; p =
0,57). Tuy vậy nồng độ AMH thấp dưới 10 phân vị ở 27%
(49/182) trường hợp, đồng thời 43% (79/182) phụ nữ có
nồng độ AMH thấp hơn 1,4 mg/l. Đây là ngưỡng đã được
thiết lập để dự báo tình trạng thai nghén tiến triển sau
điều trị bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Bệnh nhân có tiền
sử điều trị với ít nhất 3 chu kỳ liệu trình chống ung thư
chứa procarbazine có nồng độ AMH thấp hơn đáng kể
so với nhóm chứng (trung vị 0,5 mg/l; p = 0,004). Bệnh
nhân có tiền sử xạ trị toàn thân hoặc vùng bụng cũng
có nồng độ AMH thấp hơn đáng kể (trung vị <0,1 mg/l;
p<0,001). Các tác giả kết luận rằng có thể dùng AMH để
xác định phân nhóm bệnh nhân có tiền sử được điều trị
ung thư khi còn là trẻ em và có nguy cơ giảm khả năng
sinh sản hoặc suy buồng trứng sớm khi trưởng thành17.
Tháng 4/2015, Alipour và cộng sự đã công bố một
nghiên cứu so sánh giá trị chẩn đoán của AMH so với FSH
trong chẩn đoán suy buồng trứng sớm trên mẫu gồm 96
Sơ đồ 1. Các bước chẩn đoán xác định suy buồng trứng sớm.
Tuổi < 40,
thiểu kinh/ vô kinh ≥ 4 tháng
Test thử thai
FSH tăng
Estradiol tăng
Suy buồng trứng sớm
TSH, FSH,
prolactin, estradiol
FSH tăng
Estradiol giảm
FSH tăng
Estradiol giảm
Lặp lại
sau 1 tháng
bệnh nhân. Định lượng nồng độ AMH và FSH vào ngày
thứ ba của chu kỳ. Kết quả cho thấy AMH có độ nhạy cao
hơn (80% so với 28,57%) và độ đặc hiệu tương đương với
FSH (78,89% so với 78.65%). Giá trị dự báo âm tính của
AMH (98,61%) cũng cao hơn đáng kể so với FSH (87,5%),
với giá trị dự báo dương tính bằng nhau (17,39%). Độ
chính xác chẩn đoán của AMH cao hơn đáng kể so với
FSH. Một lợi điểm nữa của sử dụng AMH để chẩn đoán
POF là có thể chỉ định xét nghiệm vào bất kỳ thời điểm
nào của chu kỳ, không như FSh phải được xét nghiệm
vào một thời điểm nhất định trong chu kỳ18.
4.3. Chẩn đoán nguyên nhân
Các thăm dò, xét nghiệm để đánh giá bệnh nhân
đã được xác định suy buồng trứng sớm bao gồm:
- Siêu âm vùng chậu
- Đo mật độ khoáng xương
- Nhiễm sắc đồ (ít nhất 30 tế bào)
- Kháng thể thượng thận: 21-hydroxylase (CYP21)
và phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp
- Tìm kiếm tiền đột biến gen FMR1
4.4. Các hình thái
Suy buồng trứng sớm có thể có các hình thái lâm
sàng với các mức độ thay đổi khác nhau, bao gồm thể
ẩn, thể sinh hóa và thể rõ rệt.
4.5. Chẩn đoán phân biệt
- Có thai: hCG tăng.
- Bệnh lý vùng dưới đồi/tuyến yên (u tuyến yên,
cường prolactin máu, HC Kallmann ....): tăng prolactin,
gonadotropin thấp/bình thường, chụp hố yên phát
hiện bất thường.
- Vô kinh do vùng dưới đồi (stress, hoạt động
nặng, sụt cân, ăn kiêng, bệnh lý nặng): gonadotropin
thấp/bình thường
- Buồng trứng đa nang: siêu âm, gonadotropin
bình thường, androgen tăng.
- Bất thường enzyme sản xuất steroid (thiếu
21-hydroxylase): siêu âm thượng thận, gonadotropin
bình thường, androgen & ACTH tăng.
- Bệnh nội tiết: cường giáp, suy giáp, HC Cushing:
gonadotropin bình thường.
- Ở bệnh nhân vô kinh:
+ Hội chứng Rokitanski, hội chứng Asherman.
+ Rối loạn biệt hóa giới tính.
Hình thái FSH huyết thanh Khả năng sinh sản Kinh nguyệt
Bình thường Bình thường Bình thường Đều
Ẩn Bình thường Giảm Đều
Sinh hóa Tăng Giảm Đều
Rõ rệt Tăng Giảm Không đều/vô kinh
Bảng 2. Các hình thái của suy buồng trứng sớm.
NGUYỄN VŨ QUỐC HUYTỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
10
5. Xử trí
Chẩn đoán suy buồng trứng sớm ở bệnh nhân trẻ
là một sự kiện có tác động nặng nề. Một khía cạnh
có tầm quan trọng to lớn nhưng hay bị bỏ qua là tác
động xấu dài hạn về mặt tâm lý, đặc biệt đối với phụ
nữ trẻ19.
5.1. Hỗ trợ tâm lý
Hỗ trợ tâm lý là biện pháp can thiệp quan trọng
ngay từ đầu, bao gồm tư vấn về tiến triển & khả năng
hồi phục, các lựa chọn điều trị ngắn hạn và dài hạn,
khả năng mang thai trong trường hợp có nhu cầu, các
rối loạn niệu dục, rối loạn tình dục và các ảnh hưởng
dài hạn trên nguy cơ loãng xương / tim mạch.
5.2. Liệu pháp nội tiết thay thế
Liệu pháp nội tiết thay thế (hormone replacement
therapy - HRT) được khuyến cáo không chỉ nhằm mục
đích cải thiện các triệu chứng mãn kinh (triệu chứng
vận mạch và thiểu dưỡng âm đạo) mà còn để duy trì
mật độ xương và làm giảm nguy cơ bệnh lý tim mạch.
Phụ nữ POF sử dụng HRT có thể cần liều estrogen
cao hơn để kiểm soát các triệu chứng vận mạch so với
phụ nữ bình thường đã mãn kinh trong độ tuổi 50.
Cho đến nay chưa có bằng chứng nào về việc
dùng estrogen thay thế làm gia tăng nguy cơ ung thư
vú ở phụ nữ POF so với nhóm phụ nữ hành kinh bình
thường, bên cạnh đó phụ nữ POF không cần bắt đầu
sàng lọc bằng nhũ ảnh sớm hơn20.
Theo khuyến cáo của Hiệp hội Mãn kinh quốc
tế tháng 5/2013, HRT được chỉ định cho phụ nữ
suy buồng trứng sớm ít nhất cho đến tuổi 50-52
(tuổi mãn kinh tự nhiên). Thành phần progestogen,
dydrogesterone và progesterone vi hạt có độ an toàn
cao hơn các progestogen tổng hợp về nguy cơ ung
thư vú21. Một nghiên cứu từ Phần Lan dựa trên ghi
nhận ung thư cũng cho thấy sử dụng dydrogesterone
sau tối thiểu 5 năm không làm tăng nguy cơ ung thư
vú, khác với các loại progestogen tổng hợp khác có
tăng nhẹ nguy cơ22.
Bệnh nhân điều trị liệu pháp nội tiết thay thế cần
được tái khám sau mỗi 6–12 tháng, đánh giá lâm
sàng, siêu âm phụ khoa, vú và xét nghiệm nồng độ
TSH, canxi và cortisol.
5.3. Thuốc tránh thai
Sau khi chẩn đoán xác định POF, cần nhanh chóng
đặt vấn đề tránh thai với bệnh nhân, do vẫn có khả năng
xảy ra rụng trứng tự phát mà không dự đoán được.
Thuốc uống tránh thai phối hợp estrogen và
progestin có nhiều ưu điểm như thuận tiện, chi phí
thấp, có tác dụng bổ sung nội tiết tố sinh dục nữ, đồng
thời có tác dụng tránh thai – hữu ích do khả năng
sinh sản có thể chưa mất hoàn toàn, bên cạnh đó có
thể duy trì hiện tượng “hành kinh” (ra máu do ngừng
thuốc) định kỳ và giúp cải thiện các rối loạn tâm lý
Có thể xem xét dụng cụ tử cung hoặc các phương
pháp ngăn chận tinh trùng khác, khi đó cần khuyến
cáo liệu pháp nội tiết thay thế để bổ sung nội tiết tố.
5.4. Xử trí về sinh sản
Trước khi bắt đầu liệu trình với hóa trị hoặc xạ trị,
bệnh nhi ung thư cần được tư vấn về khả năng sinh
sản về sau bởi chuyên gia về vô sinh.
Phụ nữ được điều trị bằng các liệu pháp chống
thư sẽ có thể lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản
bằng cách kích thích buồng trứng để chọc hút trứng,
trữ đông trứng hoặc phôi, trữ đông mô buồng trứng
hoặc ức chế buồng trứng bằng chủ vận GnRH trước
khi bắt đầu hóa liệu pháp. Kích thích phóng noãn trên
đối tượng này rất khó thành công, ngược lại làm IVF
với trứng của người cho có tỷ lệ thành công cao, lên
đến 60-70%23.
Tiên lượng về sinh sản của bệnh nhân POF phụ
thuộc vào bệnh nguyên. Phụ nữ mắc POF tự phát có
một cơ may tuy nhỏ nhưng hiện hữu về khả năng có
thai tự phát. Khoảng 5-10% bệnh nhân có thể có thai
lại sau một chẩn đoán POF24.
Theo báo cáo của Bidet và công sự (2011), trong
một nhóm gồm 358 bệnh nhân POF vô căn, có 86
(24%) trường hợp có dấu hiệu hồi phục chức năng
buồng trứng, và trong 77 trường hợp (88%) sự phục
hồi này xảy ra trong vòng 1 năm kể từ ngày chẩn
đoán. Có 21 thai nghén tự phát đã được ghi nhận ở
15 bệnh nhân, trong đó có 16 trường hợp sinh sống
và 5 sẩy thai, chiếm 4,4% tổng số bệnh nhân quan
sát. Phân tích đa biến (Cox model) cho thấy các biến
tiền sử gia đình có POF, vô kinh thứ phát, có nang
noãn trên siêu âm, hàm lượng inhibin B và estradiol
có khả năng dự báo ở mức có ý nghĩa thống kê sự
hồi phục chức năng buồng trứng (p<0,01), còn các
biến kết hợp với bệnh tự miễn, nồng độ AMH, sự
hiện diện nang noãn trên sinh thiết buồng trứng và
bất thường di truyền không có khả năng dự báo25.
Ngược lại, trong một nghiên cứu tiến cứu trên
42 bệnh nhân được điều trị hóa liệu pháp bổ trợ,
Anderson và cộng sử đã khảo sát một loạt các yếu
tố chỉ điểm về dự trữ buồng trứng, bao gồm tuổi,
nồng độ estradiol, inhibin B, FSH và AMH. Phân tích
đơn biến cho thấy nồng độ AMH, FSH trước điều trị,
số lượng nang noãn thứ cấp và tuổi là các yếu toos
dự báo chức năng buồng trứng sau điều trị. Tuy vậy
khi phân tích hồi quy đa biến thì chỉ còn nồng độ
AMH có giá trị dự báo (OR 13,0; 95%CI 2,5–66,7);
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
11
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 06-13, 2015
tỷ lệ khả năng đỉnh 7,0 đạt được ở nồng độ 0,71
ng/ml với độ nhạy 54% và độ đặc hiệu 92%. Mật
độ khoáng xương giảm sau chẩn đoán 4–5 năm,
hoạt động buồng trứng càng thấp thì mức độ mất
xương càng lớn. Các tác giả kết luận rằng đo nồng
độ AMH tại thời điểm chẩn đoán ung thư có thể dự
báo dài hạn chức năng buồng trứng và khả năng
sinh sản sau hóa liệu pháp.
Nhìn chung việc hồi phục chức năng buồng trứng
là tạm thời, nhưng trong một số hiếm các trường hợp
có thể kéo dài đến nhiều năm26. Do đó bệnh nhân
POF cần được tư vấn kỹ về tình hình sinh sản của họ
để có quyết định hợp lý, dựa trên các thông tin được
cung cấp một cách đầy đủ.
5.5. Tư vấn di truyền
Ngày nay tư vấn di truyền được đặt ra nếu nghi
ngờ hay xác định được POF là do nguyên nhân di
truyền. Tư vấn có ý nghĩa đặc biệt đối với trường
hợp POF xuất hiện trong gia đình có chậm phát
triển trí tuệ liên quan đến nhiễm sắc thể X (hội
chứng nhiễm sắc thể X dễ gãy), trong đó ở nam giới
gây tình trạng chậm phát triển trí tuệ và POF với vô
kinh thứ phát ở nữ giới27.
Trẻ gái sinh ra từ gia đình có người mắc POF cần
được chẩn đoán sớm các khiếm khuyết về gen. Các
nghiên cứu về phả hệ trên các gia đình mắc bệnh
cho thấy kiểu di truyền gợi ý cho việc truyền bệnh
thông qua nhiễm sắc thể thường đồng giới kiểu trội,
hoặc di truyền theo nhiễm sắc thể X không hoàn
toàn. Kiểu di truyền qua nhiễm sắc thể thường có
nguy cơ POF là 50% hoặc từ bố hoặc từ mẹ; trong
khi di truyền qua nhiễm sắc thể X truyền từ bố nguy
cơ mắc POF có thể lên đến 100%. Tất cả phụ nữ được
chẩn đoán POF trước tuổi 30 cần được lấy máu làm
nhiễm sắc đồ. Người mang các khiếm khuyết di
truyền cần được tư vấn về việc mang thai sớm hoặc
trữ trứng28.
• Kết quả của các thử nghiệm trong nghiên cứu Women’s Health Initiative không áp dụng
cho các phụ nữ suy buồng trứng sớm hoặc mãn kinh sớm
• Phụ nữ mãn kinh trước tuổi 45 (do suy buồng trứng sớm hoặc cắt cả 2 buồng trứng)
hưởng lợi từ liệu pháp nội tiết không chỉ trong việc cải thiện các triệu chứng vận mạch mà
còn giúp dự phòng các tác dụng bất lợi trên tim mạch, xương và thần kinh – nhận thức do
sự thiếu hụt estrogen quá sớm
• Phụ nữ suy buồng trứng sớm có cơ may khoảng 5-10% có thai tự nhiên, do đó cần được
tư vấn kỹ về biện pháp tránh thai nếu không có nhu cầu mang thai
• Tư vấn về xương khớp bao gồm các bài tập tạ, tăng cường sức mạnh cơ, đánh giá nguy
cơ ngã, ngừng hút thuốc (nếu có) và tránh việc lạm dụng rượu bia, cùng với chế độ ăn
hàng ngày chứa 1200 mg Ca2+ và 600–1000 UI Vitamin D
• Phụ nữ POF hoặc cắt cả hai phần phụ cần được hỗ trợ tâm lý nhằm giúp giải quyết các
vấn đề mãn kinh sớm liên quan đến cắt 2 phần phụ, bao gồm cả việc mất khả năng sinh
sản và rối loạn chức năng tình dục.
Bảng 3. Các khuyến cáo dành cho phụ nữ suy buồng trứng sớm hoặc mãn kinh sớm (2015)29
6. Dự phòng
Hỗ trợ phát triển tử cung và các đặc điểm sinh
dục phụ ở bệnh nhân POF trẻ em
Ở phụ nữ trẻ đã mắc POF trước khi dậy thì, khởi
phát dậy thì nhân tạo là bước cần thiết để thúc đẩy
sự phát triển cơ thể trong giai đoạn dậy thì cũng
như giúp phát triển các đặc tính sinh dục phụ30.
Liệu trình với nội tiết tố phát triển (GH) giúp phát
triển cơ thể ở bệnh nhân mắc hội chứng Turner.
Trước đây do lo ngại liệu pháp oestrogen chỉ định
quá sớm làm ngừng phát triển chiểu cao, liệu trình
eesstrogen chỉ được chỉ định vào độ tuổi vị thành
niên trung bình, tuy nhiên quan điểm này đã thay
đổi và hiện nay estrogen được chỉ định sớm ngay
từ đầu31. Sau thời điển dậy thì thuốc viên tránh thai
loại phối hợp sẽ tiếp tục được chỉ định. Ở trẻ em nữ
có chỉ định khởi phát dậy thì liệu pháp trên đủ để
phát triển các đặc tính sinh dục phụ, nhưng hình
thái tử cung thường không đạt yêu cầu, độ dày
niêm mạc và dòng chảy mạch máu tử cung cũng
không đạt mức cần thiết cho hoạt động sinh sản32.
Bảo tồn khả năng sinh sản là một vấn đề quan
trọng ở bệnh nhân trẻ mắc POF, do vậy việc tối
ưu hóa hình thái tử cung và chức năng trục vùng
dưới đồi – tuyến yên – buồng trứng là vấn đề
sống còn. Liệu pháp nội tiết thay thế với miếng
dán oestradiol (Estraderm 50) tăng dần từ 1 đến 3
miếng, 2 lần/tuần và progesteron bắt đầu từ ngày
thứ 14 (đường uống hoặc đặt âm đạo) giúp đạt
được nồng độ nội tiết tố sinh dục tương đương
với nồng độ ở phụ nữ có chức năng sinh dục bình
thường và cải thiện các chỉ số chức năng tử cung.
Mẫu sinh thiết mô niêm mạc tử cung cũng cho
thấy có đáp ứng chức năng với liệu pháp trên33, 34.
Dự phòng suy buồng trứng ở bệnh nhân ung
thư điều trị bằng hóa chất
Hóa liệu pháp đã cải thiện đáng kể tiên lượng
cho bệnh nhân ung thư và cả một số bệnh lý không
ung thư. Tuy nhiên phương pháp điều trị này lại có
tác dụng độc trên buồng trứng, và các chất chủ
vận GnRH có thể có tác dụng bảo vệ trên buồng
trứng. Cơ chế tác dụng của GnRH là dựa trên sự ức
chế nồng độ gonadotropin để giả lập tình trạng
nội tiết trước khi dậy thì và làm giảm tưới máu tử
cung – buồng trứng.
Chen và cộng sự trong tổng quan Cochrane
(2014) tập hợp các nghiên cứu đã cho thấy sử
dụng chất chủ vận GnRH đường tiêm bắp/dưới da
có thể bảo vệ khả năng hành kinh và phóng noãn
sau hóa liệu pháp: có kinh lại: RR 1,90 (95% CI 1,30
NGUYỄN VŨ QUỐC HUYTỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
12
– 2,79); vô kinh: RR 0,08 (95% CI 0,01 – 0,58); phóng
noãn: RR 2,70 (95% CI 1,52 – 4,79), ngược lại chủ
vận GnRH đường xịt niêm mạc mũi lại không có tác
dụng bảo vệ gì trên buồng trứng (tái hành kinh: RR
0,75, 95% CI 0,33 – 1,72; phóng noãn: RR 1,13, 95%
CI 0,20 – 6,24). Tỷ lệ có thai và số lượng noãn thứ
cấp không khác biệt nhau giữa các nhóm35. Các
tác giả kết luận rằng chủ vận GnRH đường tiêm
bắp hoặc tiêm dưới da tỏ ra có tác dụng bảo vệ
buồng trứng trong liệu trình hóa chất và cần được
chỉ định trước hoặc khi bắt đầu hóa liệu pháp, mặc
dù chưa có khác biệt đáng kể nào được ghi nhận
trong tỷ lệ mang thai.
Trong thử nghiệm lâm sàng pha III đa trung tâm
được công bố tháng 5/2014 tại Hội nghị thường
niên Hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ, các bệnh nhân
ung thư vú giai đoạn I-IIIA, thụ thể estrogen và
progesteron âm tính, được chỉ định hóa liệu pháp
có cyclophosphamid đã được sử dụng chất chủ
vận GnRH Goserelin 3,6mg tháng x 4 tháng, bắt
đầu 1 tuần trước trước hóa liệu pháp. Kết quả theo
dõi cho thấy tỷ lệ POF là 22% ở nhóm chứng và 8%
ở nhóm dùng Goserelin (OR=0.30, 95% CI: 0.10-
0.87). Số trường hơp có thai là 13 ở nhóm chứng,
22 ở nhóm dùng Goserelin (OR=2.22, 95% CI: 1.00-
4.92). Các tác giả kết luận việc sử dụng chủ vận
GnRH trên đối ượng này làm giảm tỷ lệ POF và
tăng số trường hợp có thai về sau36.
7. Kết luận
Suy buồng trứng sớm là một rối loạn chức năng
buồng trứng, tuy ít gặp nhưng có xu hướng tăng
dần, có thể có nhiều ảnh hưởng đáng kể về cả thân
thể lẫn tâm thể, tác động xấu đến khả năng sinh
sản, đặc biệt trong bối cảnh tuổi mang thai lần đầu
và tỷ lệ bệnh lý ung thư ở bệnh nhân trẻ và bệnh
nhi ngày càng tăng trong thời gian gần đây. Bệnh
nhân suy buồng trứng sớm cần được phát hiện và
chẩn đoán kịp thời để có các biện pháp điều trị và
tư vấn phù hợp.
Tài liệu tham khảo
1. Coulam CB, Adamson SC & Annegers JF. Incidence
of premature ovarian failure. Obstetrics and Gynecology
1986;67:604–606.
2. Nelson LM, Covington SN, Rebar RW. An update:
spontaneous premature ovarian failure is not an early meno-
pause. Fertil Steril. 2005; 83(5): 1327-1332.
3. Anasti JN: Premature ovarian failure: An update. Fertil
Steril 1998;70:1–15.
4. Haller-Kikkatalo K, Uibo R, Kurg A, Salumets A. The
prevalence and phenotypic characteristics of spontaneous
premature ovarian failure: a general population registry-
based study. Hum Reprod. 2015 May;30(5):1229-38.
5. Amarosa EJ, Nascimento A, Hornstein MD, Crum
CP. Benign Conditions of the Ovary. In Crum: Diagnostic
Gynecologic and Obstetric Pathology, 2nd ed., 2011 Elsevier.
6. Visser JA, Schipper I, Laven JSE, Themmen APN. Anti-
Müllerian hormone: an ovarian reserve marker in primary
ovarian insufficiency. Nat. Rev. Endocrinol. 2012; 8, 331–341.
7. Persani, L., Rossetti, R. & Cacciatore, C. Genes involved
in human premature ovarian failure. J. Mol. Indocrinol. 2010;
45, 257–279.
8. van Dooren, M. F., Bertoli-Avellab, A. M. & Oldenburg, R.
A. Premature ovarian failure and gene polymorphisms. Curr.
Opin. Obstet. Gynecol. 2009; 21, 313–317.
9. Sherman, S. L. Premature ovarian failure in the fragile X
syndrome. Am. J. Med. Genet. 2000; 97, 189–194.
10. Verkerk, A. J. et al.Identification of a gene (FMR-1)
containing a CGG repeat coincident with a breakpoint cluster
region exhibiting length variation in fragile X syndrome. Cell
1991, 65, 905–914.
11. Allingham-Hawkins, D. J. et al. Fragile X premutation
is a significant risk factor for premature ovarian failure:
the International Collaborative POF in Fragile X study —
preliminary data. Am. J. Med. Genet. 1999; 83:322–325.
12. La Marca, A. et al.Primary ovarian insufficiency:
autoimmune causes. Curr. Opin. Obstet. Gynecol.
2010;22:277–282.
13. La Marca, A. et al.Primary ovarian insufficiency:
autoimmune causes. Curr. Opin. Obstet. Gynecol. 2010;
22:277–282.
14. Ataya K, Premature Ovarian Failure. In: Falcone T,
Hurd WW (editors) Clinical Reproductive Medicine and
Surgery, Elsevier Health Sciences, 2007.
15. Nelson LM. Clinical practice. Primary ovarian
insufficiency. N Engl J Med 2009;360(6):606–14.
16. Vujovic S, Brincat M, Erel T, et al. EMAS position
statement: managing women with premature ovarian failure.
Maturitas 2010;67:91e3.
17. Lie Fong S, Laven JS, Hakvoort-Cammel FG, Schipper
I, Visser JA, Themmen AP, et al. Assessment of ovarian
reserve in adult childhood cancer survivors using anti-
Müllerian hormone. Hum Reprod. 2009 Apr;24(4):982-90.
18. Alipour F, Rasekhjahromi A, Maalhagh M, Sobhanian
S, Hosseinpoor M. Comparison of Specificity and Sensitivity
of AMH and FSH in Diagnosis of Premature Ovarian Failure.
Dis Markers. 2015; 585-604.
19. Rafique S, Sterling E, Lawrence N. A new approach to
primary ovarian insufficiency. Obstet Gynecol Clin N Am.
2012;39:567–586.
20. Ewertz M, Mellemkjaer L, Poulsen AH, et al. Hormone
use for menopausal symptoms and risk of breast cancer. A
Danish cohort study. Br J Cancer 2005;92:1293–7.
21. de Villiers TJ, Pines A, Panay N, Gambacciani M,
Archer DF, Baber RJ. Updated 2013 International Menopause
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
13
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 06-13, 2015
Society recommendations on menopausal hormone therapy
and preventive strategies for midlife health Climacteric
2013;16:316–337
22. Lyytinen H1, Pukkala E, Ylikorkala O. Breast cancer
risk in postmenopausal women using estradiol-progestogen
therapy. Obstet Gynecol. 2009 Jan;113(1):65-73.
23. Ameratunga D, Weston G, Osianlis T, Catt J,
Vollenhoven B. In vitro fertilisation (IVF) with donor eggs
in post-menopausal women: are there differences in
pregnancy outcomes in women with premature ovarian
failure (POF) compared with women with physiological age-
related menopause? J Assist Reprod Genet. Oct 2009; 26(9-
10): 511–514.
24. van Kasteren YM, Schoemaker J. Premature ovarian
failure: a systematic review on therapeutic interventions
to restore ovarian function and achieve pregnancy. Hum
Reprod Update 1999;5:483–92.
25. Bidet M, Bachelot A, Bissauge E, Golmard JL, Gricourt
S, Dulon J et al. , Resumption of Ovarian Function and
Pregnancies in 358 Patients with Premature Ovarian Failure.
J Clin Endocrinol Metab, 2011, 96: 3864 –3872.
26. Nelson, LM.; Anasti, JN.; Flack, MR. Premature ovarian
failure. In: Adashi, EY.; Rock, JA.; Rosenwaks, Z., editors.
Reproductive endocrinology, surgery, and technology.
Philadelphia:Lippincott–Raven; 1996. p. 1393-410.
27. Sherman SL: Premature ovarian failure in the fragile X
syndrome. Am J Med Genet 2000, 97:189-194.
28. Beck-Peccoz P, Persani L. Premature ovarian failure.
Orphanet Journal of Rare Diseases 2006, 1:9.
29. Faubion SS, Kuhle CL, Shuster LT, Rocca WA. Long-
term health consequences of premature or early menopause
and considerations for management. Climacteric.
2015;18(4):483-91.
30. Sassarini J, Lumsden MA, Critchley HO. Sex hormone
replacement in ovarian failure - new treatment concepts.
Best Pract Res Clin Endocrinol Metab. 2015 Jan;29(1):105-14.
31. Perry RJ, Gault EJ, Paterson WF, et al. Effect of
oxandrolone and timing of oral ethinylestradiol initiation on
pubertal progression, height velocity and bone maturation in
the UK Turner study. Hormone Res Paediatr 2014;81:298e308.
32. Paterson WF, Hollman AS, Donaldson MD. Poor
uterine development in Turner syndrome with oral oestrogen
therapy. Clin Endocrinol 2002;56:359e65.
33. Critchley HO, Wallace WH. Impact of cancer treatment
on uterine function. J Natl Cancer Inst Monogr 2005:64e8.
34. Critchley HO, Buckley CH, Anderson DC. Experience
with a ‘physiological’ steroid replacement regimen for
the establishment of a receptive endometrium in women
with premature ovarian failure. Br J Obstetr Gynaecol
1990;97:804e10.
35. Chen H, Li J, Cui T, Hu L. Adjuvant gonadotropin-
releasing hormone analogues for the prevention of
chemotherapy induced premature ovarian failure in
premenopausal women. Cochrane Database of Systematic
Reviews 2011, Issue 11. Art. No.: CD008018.
36. Moore HCF et al. Phase III trial (Prevention of Early
Menopause Study [POEMS]-SWOG S0230) of LHRH analog
during chemotherapy (CT) to reduce ovarian failure in
early-stage, hormone receptor-negative breast cancer: An
international Intergroup trial of SWOG, IBCSG, ECOG, and
CALGB (Alliance). J Clin Oncol 32:5s, 2014 (suppl; abstr
LBA505).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cap_nhat_chan_doan_va_xu_tri_suy_buong_trung_som_2015.pdf