Hỗ trợ cơ sở vật chất và tài chính
cho các tổ chức tham gia thực hiện hoạt
động TGPL
- Xây dựng cơ chế hỗ trợ cơ sở vật chất
và kinh phí thực hiện vụ việc TGPL
Trước mắt, cần xây dựng văn bản
hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách
XHH hoạt động TGPL, theo đó xác định rõ
cơ chế Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất và
kinh phí thực hiện vụ việc TGPL, tạo điều
kiện cho các tổ chức hành nghề luật sư,
Trung tâm tư vấn pháp luật tham gia thực
hiện TGPL. Có chính sách ưu đãi như miễn,
giảm thuế cho các tổ chức thực hiện TGPL
và hỗ trợ cơ sở vật chất và kinh phí thực
hiện vụ việc TGPL thông qua dự án đặt
hàng với Nhà nước cung cấp dịch vụ pháp
lý cho người được TGPL.
Để có nguồn kinh phí hỗ trợ cho các tổ
chức xã hội mang tính bền vững, cần thực
hiện cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt
động từ nguồn NSNN theo Quyết định số
71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về hỗ trợ kinh phí từ
NSNN đối với các hội có tính chất đặc thù,
trong đó có khoản chi thực hiện nhiệm vụ
thường xuyên và hỗ trợ kinh phí tham gia
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã
hội do cơ quan nhà nước yêu cầu, tham gia
thực hiện các chương trình, đề tài, dự án
(thực hiện TGPL). Thực hiện Quyết định
này, các tổ chức xã hội cần xây dựng đề án
thực hiện TGPL và lập dự toán trình cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kinh phí
hỗ trợ cho hoạt động TGPL mang tính đặc
thù của các tổ chức hành nghề luật sư, Trung
tâm tư vấn pháp luật.
- Thu hút Dự án tài trợ cho các hoạt
động TGPL
Đây là nguồn tài chính hỗ trợ có tính
khả thi nhất của các tổ chức xã hội, bởi các
tổ chức xã hội là đối tác được các chính phủ
và tổ chức quốc tế quan tâm nên có nhiều cơ
hội tiếp cận với nguồn tài trợ của các tổ chức
quốc tế. Vì vậy, các tổ chức xã hội cần chủ
động, tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút
các nguồn tài trợ hỗ trợ cho các hoạt động
của các cấp hội, đặc biệt là các hoạt động
tăng cường năng lực, bảo vệ quyền con
người và TGPL.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý và các đề xuất sửa đổi luật trợ giúp pháp lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÑNH SAÁCH XAÄ HÖÅI HOÁA HOAÅT ÀÖÅNG TRÚÅ GIUÁP PHAÁP LYÁ
VAÂ CAÁC ÀÏÌ XUÊËT SÛÃA ÀÖÍI LUÊÅT TRÚÅ GIUÁP PHAÁP LYÁ
Trần Huy Liệu*
nguyễn ViệT KHoa**
Theo Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL)được Quốc hội thông qua năm 2006,TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp
lý miễn phí (tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng, đại diện ngoài tố tụng và các hình thức
khác) cho người được TGPL theo quy định
của pháp luật, giúp người được TGPL bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công
lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa,
hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Hoạt động TGPL cho người nghèo,
người “yếu thế” được coi là chức năng xã hội
của Nhà nước, là một trong những tiêu chí
bảo vệ quyền con người của Nhà nước pháp
quyền. Việc nước ta thành lập tổ chức TGPL
từ năm 1997 để cung cấp dịch vụ pháp lý
miễn phí cho người nghèo, người có công
với cách mạng và các đối tượng có hoàn
cảnh đặc biệt khác xuất phát từ những
nguyên tắc hiến định, như quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, và chủ trương xoá
đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo
công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước.
TGPL là trách nhiệm của Nhà nước,
nhưng Nhà nước không chỉ thực hiện một
mình mà còn khuyến khích sự tham gia của
cả cộng đồng, sự đóng góp nguồn lực tự
nguyện về mọi mặt (trực tiếp cung cấp dịch
vụ pháp lý, đóng góp tài chính và các nguồn
lực hỗ trợ từ cá nhân, cơ quan, tổ chức trong
và ngoài nước).
Xã hội hóa (XHH) TGPL được hiểu là
Nhà nước tạo cơ chế huy động mọi lực
lượng xã hội (cơ quan, tổ chức, cá nhân)
tham gia vào việc thực hiện các hoạt động
TGPL cùng với Nhà nước. Đối với các tổ
chức xã hội, Nhà nước khuyến khích tham
gia TGPL để tổ chức xã hội vừa thực hiện
trách nhiệm đối với thành viên, hội viên của
tổ chức mình, vừa cùng với Nhà nước thực
hiện TGPL cho cộng đồng xã hội; đối với tổ
chức hành nghề luật sư và các luật sư, TGPL
đối với người nghèo, nhóm yếu thế vừa là
nghĩa vụ cao cả, vừa là đạo đức nghề nghiệp
của luật sư.
29
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
* TS, LS. Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
** ThS, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước - Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh.
1. Cơ sở pháp lý thực hiện xã hội hoá hoạt
động trợ giúp pháp lý
Luật TGPL năm 2006 đã xác định chính
sách XHH TGPL và luật hóa các quy định
XHH trong các lĩnh vực: tổ chức thực hiện
TGPL; người thực hiện TGPL; phối hợp
tham gia thực hiện TGPL; thành lập Quỹ
TGPL để huy động nguồn lực tài chính và
cơ sở vật chất hỗ trợ hoạt động TGPL phát
triển. Cùng với việc xác định chính sách
TGPL: “Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong
việc thực hiện”, Điều 6 Luật TGPL đã quy
định: “khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư,
cơ quan, tổ chức cá nhân khác tham gia thực
hiện, đóng góp hỗ trợ hoạt động TGPL”.
Nhìn chung, pháp luật về TGPL đã quy định
XHH hoạt động TGPL trong một số lĩnh vực
sau đây:
1.1 Quy định XHH về tổ chức thực hiện
TGPL
Điều 13 Luật TGPL quy định tổ chức
thực hiện TGPL không chỉ có Trung tâm
TGPL của Nhà nước mà còn có cả các tổ
chức hành nghề luật sư (Văn phòng luật sư,
Công ty luật) và tổ chức tư vấn pháp luật
(Trung tâm tư vấn pháp luật) thuộc các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức xã hội).
Để được tham gia thực hiện TGPL, các Văn
phòng luật sư, Công ty luật được thành lập
theo pháp luật về luật sư, Trung tâm tư vấn
pháp luật thuộc các tổ chức xã hội được
thành lập theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP
ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn
pháp luật chỉ cần đăng ký tham gia TGPL tại
Sở Tư pháp nơi tổ chức hành nghề luật sư,
Trung tâm tư vấn pháp luật có trụ sở.
Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày
12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
TGPL (Nghị định số 07/NĐ-CP) đã cụ thể
hóa hơn các quy định của Luật TGPL về vấn
đề XHH hoạt động TGPL như: quy định về
Quỹ TGPL; quy định tổ chức thực hiện
TGPL (Điều 13); quy định về trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước và cơ quan thông
tin đại chúng trong hoạt động TGPL (Điều
4); khuyến khích Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên tham gia
công tác TGPL (Điều 5); quy định về việc
thành lập và quản lý Quỹ TGPL (Điều 6)
nhằm huy động sự đóng góp tự nguyện, tài
trợ của tổ chức, cá nhân; quy định về việc
tham gia TGPL của Văn phòng luật sư,
Công ty luật và Trung tâm tư vấn pháp luật
(từ Điều 15 đến Điều 18).
1.2 Quy định XHH về người thực hiện
TGPL
Pháp luật về TGPL quy định các Trung
tâm TGPL của Nhà nước được sử dụng đội
ngũ cộng tác viên TGPL là những luật sư, tư
vấn viên pháp luật, luật gia, chuyên gia pháp
lý có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp
luật được tham gia thực hiện TGPL. Để có
cơ sở pháp lý vững chắc, có hiệu lực cao
khuyến khích, tạo điều kiện cho các cá nhân
tham gia TGPL, Luật TGPL dành cả
Chương V quy định về người thực hiện
TGPL, trong đó có Trợ giúp viên pháp lý,
cộng tác viên của Trung tâm TGPL của Nhà
nước, luật sư của các tổ chức hành nghề luật
sư và tư vấn viên pháp luật của các tổ chức
tư vấn pháp luật (Điều 20).
1.3 Pháp luật về luật sư và về tư vấn
pháp luật đều quy định khuyến khích các tổ
chức hành nghề luật sư, luật sư và tổ chức
tư vấn pháp luật tham gia thực hiện TGPL
Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư
được sửa đổi, bổ sung năm 2012, Nghị định
số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật đều
có những quy định về việc khuyến khích tổ
chức hành nghề luật sư, luật sư và Trung tâm
30
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
tư vấn pháp luật, tư vấn viên pháp luật tham
gia TGPL.
Việc thực hiện TGPL miễn phí cho
người được TGPL không chỉ là nghĩa vụ mà
còn là đạo đức nghề nghiệp của luật sư.
Luật sư là người thực hiện TGPL với tư cách
thực hiện nghĩa vụ và đạo đức nghề nghiệp,
với tư cách cộng tác viên TGPL hoặc thực
hiện TGPL tại tổ chức hành nghề luật sư đã
đăng ký tham gia thực hiện TGPL. Chiến
lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020
(Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày
05/07/2011 của Thủ tướng Chính phủ) yêu
cầu “đề cao trách nhiệm và nghĩa vụ của luật
sư trong công tác TGPL miễn phí cho người
nghèo, đối tượng chính sách và các nhiệm
vụ chính trị xã hội khác”.
Nghị định số 77/NĐ-CP của Chính phủ
quy định Trung tâm tư vấn pháp luật thực
hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho thành
viên, hội viên của tổ chức chủ quản và thực
hiện TGPL miễn phí cho người được TGPL
theo quy định của pháp luật về TGPL. Nhà
nước khuyến khích Trung tâm tư vấn pháp
luật thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho
người nghèo và các đối tượng chính sách
theo quy định của pháp luật; cử luật sư làm
việc theo hợp đồng cho Trung tâm tư vấn
pháp luật tham gia tố tụng để bào chữa, đại
diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức có yêu cầu (Điều 7).
2. Thực trạng thực hiện xã hội hoá hoạt
động trợ giúp pháp lý trong thời gian qua
2.1 Thực trạng XHH về tổ chức thực
hiện TGPL
Hiện nay, trong toàn quốc có hơn 3.400
tổ chức hành nghề luật sư dưới hình thức
Văn phòng luật sư, Công ty luật với gần
9.900 luật sư chính thức, gần 3.500 luật sư
tập sự1 và 139 Trung tâm tư vấn pháp luật
với hơn 420 Tư vấn viên pháp luật của các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị -
xã hội, nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, nhưng chỉ có 297 tổ chức hành nghề
luật sư và 61 Trung tâm tư vấn pháp luật của
Hội Luật gia các cấp và tổ chức xã hội đăng
ký tham gia TGPL2 và thực hiện TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách.
Thực hiện pháp luật về TGPL đến năm
2015, đã có hơn 5.343 Câu lạc bộ TGPL3
được thành lập và hoạt động tại các xã
nghèo và các xã thuộc các huyện nghèo theo
Nghị quyết số 30a/NQ-CP và Nghị quyết số
80/NQ-CP của Chính phủ. Đây là tổ chức xã
hội rộng rãi thu hút được mọi tầng lớp dân
cư ở cơ sở tham gia vào hoạt động TGPL,
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao nhận
thức pháp luật cho người nghèo, đồng bào
dân tộc thiểu số để họ thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình phù hợp với pháp luật,
thực hiện pháp luật và tự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình khi cần thiết, góp
phần bảo đảm ổn định chính trị và giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở.
2.2 Thực trạng XHH về người thực hiện
TGPL
Thực hiện XHH về người thực hiện
TGPL, các Trung tâm TGPL của Nhà nước
đã xây dựng được đội ngũ cộng tác viên
đông đảo là những luật sư, tư vấn viên pháp
luật, luật gia, chuyên gia pháp lý có đủ tiêu
chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật
TGPL tham gia thực hiện TGPL. Đến nay,
các Trung tâm TGPL của Nhà nước trong
1 Tài liệu Tổng kết 8 năm thi hành Luật TGPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 6/2015.
2 Như trên.
3 Xem chú thích 4.
4 Như trên.
5 Xem chú thích 4.
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
toàn quốc chỉ có 572 Trợ giúp viên pháp lý,
nhưng đã thu hút được hơn 10.700 cộng tác
viên (gấp gần 20 lần Trợ giúp viên pháp lý),
trong đó có 1.136 cộng tác viên là luật sư,
174 Tư vấn viên pháp luật4, còn lại là các
chuyên viên pháp lý có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ pháp lý giỏi, có phẩm chất
đạo đức, có tinh thần trách nhiệm tham gia
thực hiện TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách. Đây là lực lượng xã hội
đông đảo, có tâm, có đức, tự nguyện góp
công, góp sức, trí tuệ cùng với Nhà nước
thực hiện TGPL.
2.3 Thực trạng XHH về nguồn lực tài
chính và cơ sở vật chất hỗ trợ hoạt động
TGPL
Trong những năm qua, nguồn tài chính
bảo đảm cho hoạt động TGPL bao gồm:
ngân sách nhà nước (NSNN), dự án hợp tác
quốc tế, Quỹ TGPL, ngân sách của các tổ
chức xã hội nhưng chiếm ưu thế vẫn là tài
chính từ NSNN. Đối với luật sư, tư vấn viên
pháp luật là cộng tác viên của tổ chức TGPL
nhà nước, việc tham gia TGPL của họ vẫn
nhận được sự hỗ trợ về mặt tài chính từ tổ
chức TGPL mà họ ký hợp đồng cộng tác
dưới dạng tiền bồi dưỡng thực hiện vụ việc
TGPL. Mặc dù mức bồi dưỡng còn thấp so
với mức thù lao mà các luật sư nhận được từ
khách hàng nhưng họ vẫn tích cực tham gia
thực hiện TGPL, thể hiện lòng hảo tâm, coi
như tự mình đóng góp một phần về tài chính
cho Nhà nước trong việc thực hiện TGPL.
2.4 Thực trạng về hoạt động TGPL của
các tổ chức hành nghề luật sư, Trung tâm tư
vấn pháp luật tham gia thực hiện TGPL
Qua thực tiễn hoạt động TGPL của các
cộng tác viên cho thấy hàng năm, đội ngũ
cộng tác viên thực hiện hơn 51,5% tổng số
vụ việc TGPL. Cộng tác viên là luật sư tham
gia thực hiện TGPL hơn 70% tổng số vụ
việc tham gia tố tụng5.
Riêng đối với các Trung tâm tư vấn
pháp luật thuộc Hội Luật gia các cấp, qua
khảo sát thực tiễn từ năm 2009 đến tháng
6/2011 cho thấy các Trung tâm này đều
tham gia hoạt động TGPL với hình thức
TGPL, chủ yếu là tư vấn pháp luật. Việc tư
vấn pháp luật được thực hiện trực tiếp tại
văn phòng, qua tổng đài 1080, qua đường
bưu điện hoặc thực hiện TGPL lưu động.
Tổng số vụ việc tư vấn pháp luật và TGPL
do 21 Trung tâm tư vấn pháp luật thực hiện
là 25.566 vụ việc (trung bình mỗi Trung tâm
thực hiện 487 vụ việc/năm).
3. Đánh giá chung về chính sách xã hội
hoá hoạt động trợ giúp pháp lý
Thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp
pháp lý trong gần 17 năm qua đã chứng
minh chính sách xã hội hóa hoạt động trợ
giúp pháp lý của Đảng và Nhà nước ta trong
điều kiện hiện nay, theo cơ chế nhà nước và
nhân dân cùng làm, trong đó Nhà nước chịu
trách nhiệm và giữ vai trò nòng cốt là hoàn
toàn đúng đắn, phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng
nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân
dân, tạo cơ chế giúp đỡ pháp lý miễn phí cho
người nghèo và đối tượng chính sách, nhằm
nâng cao nhận thức, hiểu biết và ý thức chấp
hành pháp luật để họ ứng xử phù hợp với
pháp luật, thực hiện pháp luật, tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị
xâm phạm. Hoạt động trợ giúp pháp lý do
Nhà nước và xã hội thực hiện đã góp phần
đưa chủ trương xoá đói, giảm nghèo, đền ơn,
đáp nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của
Đảng và Nhà nước vào cuộc sống; giúp các
cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
nước khác giải quyết các vụ việc một cách
chính xác, khách quan, công bằng và đúng
pháp luật; góp phần giải toả những vướng
mắc pháp luật của nhân dân, giữ gìn ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước;
góp phần vào sự nghiệp cải cách hành chính,
cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
chính sách TGPL nói chung và chính sách
XHH hoạt động TGPL nói riêng, trong thời
gian qua còn có những hạn chế và khó khăn
sau đây:
3.1. Cơ chế, chính sách bảo đảm sự
tham gia thực hiện TGPL của các tổ chức
xã hội chưa phù hợp và chưa cụ thể nên
chưa tạo cơ chế hỗ trợ các tổ chức xã hội
tham gia thực hiện TGPL có hiệu quả
Luật TGPL quy định chung về chính
sách TGPL, khuyến khích và tạo điều kiện
cho các tổ chức xã hội tham gia thực hiện
TGPL, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ năng TGPL, nhưng đến
nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể
cơ chế bảo đảm, hỗ trợ tạo điều kiện cụ thể
trên thực tế, nên chưa thu hút được sự tham
gia TGPL của tất cả các tổ chức hành nghề
luật sư, các Trung tâm tư vấn pháp luật.
Cũng vì vậy, hoạt động tư vấn pháp luật và
TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư,
các Trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ
chức Hội mang tính tự phát, chưa mang tính
chuyên nghiệp, chưa phát huy hết tiềm năng
để tham gia TGPL.
3.2 Số lượng tổ chức hành nghề luật sư,
tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức xã
hội tham gia TGPL chưa nhiều
Các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức
tư vấn pháp luật tham gia TGPL còn ít và
mang tính tự phát, thiếu cơ chế quản lý,
hướng dẫn, kiểm tra hoạt động TGPL. Đến
nay, chỉ có hơn 10% tổ chức hành nghề luật
sư và 40% các Trung tâm tư vấn pháp luật
đăng ký tham gia TGPL. Nguồn lực thực
hiện TGPL của các tổ chức xã hội còn hạn
chế. Trung bình mỗi Trung tâm tư vấn pháp
luật có khoảng 2 - 5 tư vấn viên pháp luật
thường trực tại Trung tâm, trong khi số
thành viên của họ rất đông, nên hoạt động
tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo,
đối tượng chính sách chưa thực sự đáp ứng
được nhu cầu của các thành viên, hội viên.
Mặc dù hiện nay đã xây dựng được đội
ngũ cộng tác viên TGPL đông đảo, có đủ
kiến thức pháp luật, có chuyên môn nghiệp
vụ và kỹ năng thực hiện TGPL nhưng phần
lớn đang làm việc trong bộ máy nhà nước,
tổ chức xã hội nên chưa tích cực tham gia
hoạt động TGPL.
3.3 Số lượng vụ việc TGPL của các tổ
chức hành nghề luật sư và Trung tâm tư vấn
pháp luật còn ít so với nhu cầu
Số lượng vụ việc TGPL của các tổ chức
hành nghề luật sư và Trung tâm tư vấn pháp
luật còn quá khiêm tốn do khó khăn về
nguồn kinh phí hoạt động và nguồn nhân lực
thực hiện. Số lượng vụ việc TGPL ít, minh
chứng năng lực thực hiện TGPL của các tổ
chức hành nghề luật sư, Trung tâm tư vấn
pháp luật còn yếu, chưa xây dựng được
thương hiệu để thu hút nhiều khách hàng có
nhu cầu tư vấn pháp luật đến yêu cầu, từ đó
không có nguồn thu để hỗ trợ cho hoạt động
TGPL miễn phí.
3.4 Cơ sở vật chất của các Trung tâm
tư vấn pháp luật còn nhiều thiếu thốn, kinh
phí hoạt động rất hạn hẹp, nhiều Trung tâm
không có nguồn thu
Khó khăn phổ biến nhất là nhiều tổ chức
hành nghề luật sư, các Trung tâm tư vấn
pháp luật còn nghèo, thiếu cơ sở vật chất (trụ
sở chật hẹp, trang thiết bị làm việc thiếu)
và kinh phí hoạt động hạn chế. Có Trung
tâm hầu như không có nguồn kinh phí nào
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
đáng kể, chưa được Nhà nước hỗ trợ hoặc
được hỗ trợ nhưng rất hạn chế6. Một số dự
án hợp tác quốc tế tài trợ trong thời gian qua
chỉ hỗ trợ được một vài Trung tâm và trong
thời gian ngắn. Nguồn thu từ hoạt động cung
cấp dịch vụ pháp lý của Trung tâm về cơ bản
chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu
kinh phí, không đủ lấy thu bù chi và hỗ trợ
cho hoạt động TGPL.
3.5 Chưa được sự quan tâm đúng mức
của các cơ quan quản lý và chính quyền
Cơ quan quản lý nhà nước về TGPL
nhận thức chưa đầy đủ về chính sách XHH
tổ chức và hoạt động TGPL. Các cơ quan
quản lý nhà nước và chính quyền các cấp ở
một số địa phương chưa quan tâm hỗ trợ cơ
sở vật chất, trang thiết bị làm việc và kinh
phí hoạt động cho các tổ chức thực hiện
TGPL, đặc biệt chưa hỗ trợ cho các tổ chức
tham gia TGPL, nên ảnh hưởng đến chất
lượng và hiệu quả hoạt động TGPL của các
Trung tâm này.
Việc hướng dẫn, theo dõi và kiểm tra hoạt
động TGPL của các tổ chức hành nghề luật
sư, Trung tâm tư vấn pháp luật hầu như không
được thực hiện. Các tổ chức tham gia TGPL
chưa thực hiện nghiêm kỷ luật báo cáo, thống
kê về hoạt động TGPL cho cơ quan quản lý
và tổ chức chủ quản nên không nắm được kết
quả hoạt động và chất lượng cung cấp dịch vụ
pháp lý của các tổ chức tham gia TGPL. Vì
vậy, chưa có cơ chế hỗ trợ bảo đảm hoạt động
của các tổ chức tham gia TGPL.
4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách xã hội hoá hoạt
động trợ giúp pháp lý trong thời gian tới
và đề xuất sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý
Để thực hiện có hiệu quả chính sách
TGPL nói chung, chính sách XHH hoạt động
TGPL nói riêng và khắc phục những khó
khăn, vướng mắc trong thời gian qua, cần
tiến hành đồng bộ một số giải pháp sau đây:
4.1 Hoàn thiện thể chế tạo môi trường
pháp lý đẩy mạnh XHH hoạt động TGPL
- Kế thừa có sửa đổi, bổ sung một số chế
định về XHH hoạt động TGPL quy định
trong Luật TGPL
Trong điều kiện thực hiện cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, Nhà nước cần tiếp tục kế thừa các
quy định về chính sách XHH hoạt động
TGPL và mô hình XHH tổ chức thực hiện
TGPL, người thực hiện TGPL hiện nay theo
hướng Nhà nước và nhân dân cùng thực
hiện TGPL. Theo đó, tiếp tục củng cố, kiện
toàn các Trung tâm TGPL của Nhà nước,
bảo đảm đủ năng lực để chủ động cung cấp
dịch vụ pháp lý cho người được TGPL, thể
hiện bản chất và trách nhiệm của Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đồng
thời hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp
lý thông thoáng, hỗ trợ hoạt động TGPL của
xã hội phát triển nhằm thu hút, huy động
mọi nguồn lực, đặc biệt là các tổ chức hành
nghề luật sư, Trung tâm tư vấn pháp luật,
luật sư, tư vấn viên pháp luật cùng với Nhà
nước thực hiện TGPL có chất lượng cao, đáp
ứng nhu cầu TGPL ngày một tăng của nhân
dân, bởi các lý do sau đây:
i) Chính sách XHH hoạt động TGPL và
mô hình XHH tổ chức thực hiện TGPL,
người thực hiện TGPL hoàn toàn phù hợp
với chính sách TGPL của Đảng và Nhà nước.
Về mặt lý luận và thực tiễn, chính sách này
phù hợp với quan điểm TGPL là chức năng
xã hội của Nhà nước, là trách nhiệm của Nhà
6 Qua khảo sát và phỏng vấn sâu, các Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Thừa Thiên -
Huế... đều cho rằng, khó khăn lớn nhất hiện nay là thiếu kinh phí hoạt động, chưa được chính quyền địa phương hoặc
trung ương hỗ trợ nên hạn chế kết quả hoạt động. Một số dịch vụ có thu nhưng không đáng kể, không đủ chi phụ cấp
cho nhân viên của Trung tâm làm việc chuyên trách v.v..
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
nước, thể hiện bản chất của Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân;
ii) Chính sách XHH hoạt động TGPL
theo mô hình hiện nay đã được kiểm nghiệm
trong thực tiễn 17 năm qua và khẳng định là
đúng đắn, bảo đảm cho hoạt động TGPL phát
triển. Sau khi rút các dự án tài trợ, chuyên gia
nước ngoài đánh giá TGPL ở Việt Nam theo
Luật TGPL đã phát triển, là bài học kinh
nghiệm tốt cho các nước nghèo noi theo;
iii) Chính sách XHH hoạt động TGPL
đã được quy định tương đối đồng bộ trong
hệ thống pháp luật về TGPL và pháp luật về
luật sư, tư vấn pháp luật, tạo khuôn khổ
pháp lý cho tổ chức xã hội tham gia vào hoạt
động TGPL, được khẳng định là phù hợp
trong điều kiện hiện nay;
iv) Các quy định của Luật TGPL về
chính sách XHH hoạt động TGPL và mô
hình XHH tổ chức thực hiện TGPL, người
thực hiện TGPL đã tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm tổ chức và hoạt động TGPL của các
nước có hoạt động TGPL phát triển như Úc,
Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc..., nhưng
có cải tiến cho phù hợp với điều kiện kinh
tế, xã hội của Việt Nam.
Để khắc phục những tồn tại, bất cập
trong việc thực hiện chính sách XHH TGPL
trong thời gian qua, cần sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật TGPL như sau:
i) Bổ sung thêm cụm từ “hỗ trợ” vào
đoạn cuối Điều 6 Luật TGPL như sau:
“...khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện để Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực
hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL”;
ii) Sửa đổi, bổ sung một khoản vào Điều
18 về quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành
nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật khi
tham gia TGPL: “Được Nhà nước hỗ trợ
kinh phí khi thực hiện vụ việc TGPL theo
quy định của pháp luật”, làm cơ sở pháp lý
cho việc hỗ trợ NSNN cho các tổ chức xã hội
tham gia TGPL. Còn hỗ trợ bao nhiêu, như
thế nào thì do Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ hoặc Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành;
iii) Sửa đổi, bổ sung vào Điều 23, luật
sư tham gia TGPL như sau: luật sư tham gia
TGPL với tư cách thực hiện nghĩa vụ và đạo
đức nghề nghiệp theo quy định của pháp luật
về luật sư; luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân ký hợp đồng lao động với các Trung
tâm TGPL của Nhà nước; tham gia TGPL
với tư cách cộng tác viên của Trung tâm
TGPL của Nhà nước hoặc tại tổ chức hành
nghề luật sư, nơi luật sư làm việc đã đăng ký
tham gia TGPL theo quy định của Luật này.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, chính
sách XHH TGPL hiện nay không còn phù
hợp, phủ nhận vai trò nòng cốt của Nhà
nước trong hoạt động TGPL, không coi
TGPL là chức năng xã hội của Nhà nước
pháp quyền và quan niệm XHH TGPL đồng
nghĩa với việc Nhà nước chỉ quản lý nhà
nước, thôi không trực tiếp cung cấp dịch vụ
TGPL cho người được TGPL nữa, mà giao
cho tổ chức hành nghề luật sư (và chỉ có tổ
chức hành nghề luật sư; bỏ Trung tâm tư vấn
pháp luật và chế định cộng tác viên) thực
hiện bằng hợp đồng dịch vụ giữa cơ quan
quản lý nhà nước và tổ chức hành nghề luật
sư. Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí cho
tổ chức hành nghề luật sư tham gia TGPL.
Quan niệm này thể hiện nhận thức chưa đầy
đủ về chính sách TGPL ở Việt Nam đã được
thể chế hóa trong Luật TGPL và được kiểm
nghiệm trong thực tiễn 17 năm qua, không
phù hợp với lý luận và thực tiễn Việt Nam,
bởi lẽ sau đây:
Thứ nhất, XHH theo hướng TGPL chỉ
do tổ chức hành nghề luật sư thực hiện bằng
nguồn NSNN, xét về bản chất là nhà nước
hóa tổ chức xã hội, chứ không phải XHH
theo đúng nghĩa: là tổ chức xã hội cùng với
Nhà nước thực hiện TGPL bằng chính
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
nguồn lực của mình (qua dịch vụ có thu
hoặc thu hút nguồn lực từ các chủ thể khác
hoặc Nhà nước hỗ trợ); và TGPL sẽ không
còn là đạo đức nghề nghiệp của luật sư nữa;
Thứ hai, về mặt lý luận và thực tiễn,
định hướng giao TGPL cho các tổ chức hành
nghề luật sư thực hiện không có gì mới và
đã đề xuất trong quá trình xây dựng dự án
Luật TGPL năm 2006 nhưng không được
chấp nhận, bởi không phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, làm mờ nhạt đi vai trò, trách
nhiệm của Nhà nước trong hoạt động TGPL;
làm mất đi vai trò của TGPL theo quan niệm
chung là chức năng xã hội của Nhà nước,
không thể hiện bản chất của Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân;
Thứ ba, quan niệm cho rằng Nhà nước
không trực tiếp cung cấp dịch vụ pháp lý và
giao cho tổ chức hành nghề luật sư thực hiện
là chưa phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện
nay và không khả thi, bởi lẽ Nhà nước chưa
có đủ ngân sách để chi cho luật sư thực hiện
TGPL theo giá thị trường hoặc bằng 80%
giá thị trường như các nước giàu có trên thế
giới. Phần lớn giới luật sư ở Việt Nam còn
phải tập trung vào việc cung cấp dịch vụ
pháp lý có thu phí để tồn tại. Hơn nữa, Luật
TGPL không thể quy định buộc tổ chức
hành nghề luật sư phải thực hiện TGPL
được, bởi tổ chức hành nghề luật sư hành
nghề tự do theo quy định của pháp luật, chỉ
tham gia thực hiện TGPL trên cơ sở tự
nguyện. Một số địa phương, tổ chức hành
nghề luật sư (có ít luật sư) không có đủ
nguồn lực để thực hiện TGPL hoặc họ
không tham gia TGPL thì sẽ không có tổ
chức nào cung cấp dịch vụ pháp lý cho
người được TGPL khi không có tổ chức
TGPL của Nhà nước;
Thứ tư, quan niệm trên chỉ tập trung
dịch vụ TGPL cho tổ chức hành nghề luật
sư, loại bỏ nguồn lực lớn là các Trung tâm
tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội và
bỏ chế định cộng tác viên là các chủ thể thực
hiện TGPL trung bình hằng năm cung cấp
hơn 51% vụ việc TGPL, làm lãng phí nguồn
lực xã hội đã và đang cùng với Nhà nước
thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước.
Thứ năm, định hướng giao cho tổ chức
hành nghề luật sư thực hiện TGPL được
hình thành ngay từ khi mô hình TGPL mới
ra đời trong nhà nước tư sản, và đã từng áp
dụng ở Việt Nam giai đoạn đầu mới thành
lập các Trung tâm TGPL (1998 - 2005)
trong khuôn khổ các Dự án hợp tác quốc tế
hỗ trợ hoạt động TGPL (hỗ trợ kinh phí thuê
luật sư tham gia tố tụng) theo chỉ định của
các nhà tài trợ. Trong giai đoạn này, các
Trung tâm TGPL chỉ có chuyên viên pháp
lý nên chỉ thực hiện TGPL bằng hình thức
tư vấn pháp luật, còn gần như 100% các vụ
việc tham gia tố tụng đều chuyển cho tổ
chức hành nghề luật sư để phân công luật sư
là cộng tác viên thực hiện. Khi thực hiện
xong vụ việc, Trung tâm thanh toán tiền thù
lao cho luật sư (chứ không chi cho tổ chức
hành nghề luật sư). Sau khi có Luật TGPL,
chuyển sang cơ chế mới, các Trung tâm
TGPL ký hợp đồng trực tiếp với luật sư là
cộng tác viên - người trực tiếp thực hiện
TGPL mà không phải thông qua tổ chức
hành nghề luật sư - là tổ chức trung gian
nữa. Theo cơ chế này minh bạch hơn là
thông qua tổ chức hành nghề luật sư. Còn tổ
chức hành nghề luật sư muốn tham gia
TGPL thì đăng ký tham gia TGPL bằng
nguồn lực của mình và thực hiện nghĩa vụ,
đạo đức nghề nghiệp thực hiện TGPL như
hiện nay.
- Xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể
thực hiện chính sách XHH hoạt động TGPL
Để khuyến khích, động viên luật sư, tư
vấn viên pháp luật tích cực thực hiện TGPL
có chất lượng, cần sửa đổi một số văn bản
hướng dẫn thi hành Luật TGPL và hướng
dẫn về chế độ chi bồi dưỡng vụ việc cho
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
cộng tác viên theo mức cao hơn hiện nay.
Để thể hiện đúng bản chất TGPL là
nghĩa vụ và đạo đức nghề nghiệp của luật
sư, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn và lòng
hảo tâm của luật sư, đề nghị Liên đoàn Luật
sư Việt Nam sửa đổi Quyết định số 93/QĐ-
BTV ngày 9/10/2014 của Ban Thường vụ
Liên đoàn Luật sư Việt Nam hướng dẫn về
nghĩa vụ thực hiện TGPL của luật sư theo
hướng mỗi năm luật sư thực hiện tư vấn
pháp luật 20-30 giờ/một năm (hiện nay quy
định nghĩa vụ thực hiện TGPL của Luật sư
là 8 giờ/năm) và tham gia tố tụng ít nhất 01
vụ/năm. Trường hợp do quá bận, không
thực hiện TGPL bằng vụ việc cụ thể thì luật
sư đóng góp bằng tiền: 1.000.000đ/năm.
Nhiều nước trên thế giới có quy định như
vậy, chỉ có khác nhau ở mức độ và thời gian
thực hiện.
4.2 Củng cố, kiện toàn tổ chức và tăng
cường năng lực cho các tổ chức thực hiện
TGPL
Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, tăng
cường năng lực thực hiện TGPL của các tổ
chức thực hiện TGPL theo Luật TGPL trên
cơ sở phù hợp với chương trình cải cách
hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Trong điều kiện
hiện nay, khi phần lớn các tổ chức hành
nghề luật sư còn chưa đủ nguồn lực và chưa
sẵn sàng tích cực thực hiện TGPL thì việc
tiếp tục duy trì và củng cố, kiện toàn các
Trung tâm TGPL Nhà nước hiện có là yêu
cầu khách quan và cần thiết để bảo đảm thực
hiện chức năng xã hội của Nhà nước là cung
cấp đầy đủ dịch vụ pháp lý cho người được
TGPL. Đặc biệt, đối với các tỉnh nghèo,
miền núi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn, nơi có rất ít luật sư hành
nghề, thiếu nguồn lực thực hiện TGPL, thì
cần phải tập trung củng cố, kiện toàn Trung
tâm TGPL, đầu tư cơ sở vật chất, bảo đảm
cho Trung tâm có đủ đội ngũ người thực
hiện TGPL (trung bình mỗi Trung tâm có từ
12 đến 15 Trợ giúp viên pháp lý), đủ năng
lực cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng
cho người được TGPL.
4.3 Đẩy mạnh thực hiện XHH, mở rộng
mạng lưới tổ chức tham gia thực hiện TGPL
Để có cơ sở khuyến khích các tổ chức
hành nghề luật sư đăng ký tham gia TGPL
và luật sư tham gia thực hiện TGPL, Liên
đoàn Luật sư Việt Nam cần có hướng dẫn
các tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư
tham gia TGPL tự nguyện, thực hiện nghĩa
vụ và đạo đức nghề nghiệp của luật sư theo
quy định của Luật Luật sư và tham gia làm
cộng tác viên TGPL.
Trên cơ sở Nghị định số 77/2008/NĐ-
CP về tư vấn pháp luật, các tổ chức xã hội,
các cơ sở nghiên cứu, đào tạo chuyên ngành
luật cần củng cố các Trung tâm tư vấn pháp
luật hiện có và thành lập mới các Trung tâm
tư vấn pháp luật để hình thành mạng lưới tư
vấn pháp luật rộng khắp cho các thành viên,
hội viên của mình và đăng ký tham gia
TGPL. Mỗi Trung tâm có ít nhất 5 tư vấn
viên pháp luật chuyên trách, trong đó có ít
nhất một luật sư để cung cấp đầy đủ dịch vụ
pháp lý bằng các hình thức khác nhau. Có
cơ chế thu hút, động viên hội viên là luật sư,
chuyên gia pháp lý làm cộng tác viên tư vấn
pháp luật với tinh thần trách nhiệm, tích cực
tham gia tư vấn pháp luật và TGPL.
4.4 Xây dựng đội ngũ người thực hiện
TGPL đáp ứng nhu cầu TGPL của nhân dân
Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 20 Luật
TGPL về người thực hiện TGPL theo hướng
xây dựng đội ngũ luật sư công (luật sư thực
hiện TGPL và hưởng lương từ NSNN) như
nhiều nước trên thế giới, thay thế cho chức
danh Trợ giúp viên pháp lý hiện nay. Theo
hướng này, tại Trung tâm TGPL có Trợ giúp
viên pháp lý và Luật sư là người thực hiện
TGPL. Nguồn của đội ngũ luật sư công là
Trợ giúp viên pháp lý đã thực hiện TGPL,
có nhiều kinh nghiệm chuyển sang, hoặc
luật sư đang hành nghề tự do với tư cách cá
nhân có nguyện vọng làm việc tại Trung
tâm, được Trung tâm tạo điều kiện ký hợp
đồng lao động và được trả lương từ NSNN.
Để bảo đảm thực hiện định hướng này và
bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp
luật, cần sửa đổi Luật Luật sư cho phép luật
sư hành nghề với tư cách cá nhân được hành
nghề trong các Trung tâm TGPL của Nhà
nước thông qua hợp đồng lao động.
Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ luật sư
công, cần chú trọng việc xây dựng và phát
triển cộng tác viên, đặc biệt các cộng tác
viên là luật sư, tư vấn viên pháp luật để hỗ
trợ Trung tâm TGPL thực hiện các vụ việc
tham gia tố tụng vì luật sư là những người
có nhiều kinh nghiệm, có chuyên môn sâu
và có tính chuyên nghiệp trong việc thực
hiện các vụ việc đại diện, bào chữa.
4.5 Hỗ trợ cơ sở vật chất và tài chính
cho các tổ chức tham gia thực hiện hoạt
động TGPL
- Xây dựng cơ chế hỗ trợ cơ sở vật chất
và kinh phí thực hiện vụ việc TGPL
Trước mắt, cần xây dựng văn bản
hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách
XHH hoạt động TGPL, theo đó xác định rõ
cơ chế Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất và
kinh phí thực hiện vụ việc TGPL, tạo điều
kiện cho các tổ chức hành nghề luật sư,
Trung tâm tư vấn pháp luật tham gia thực
hiện TGPL. Có chính sách ưu đãi như miễn,
giảm thuế cho các tổ chức thực hiện TGPL
và hỗ trợ cơ sở vật chất và kinh phí thực
hiện vụ việc TGPL thông qua dự án đặt
hàng với Nhà nước cung cấp dịch vụ pháp
lý cho người được TGPL.
Để có nguồn kinh phí hỗ trợ cho các tổ
chức xã hội mang tính bền vững, cần thực
hiện cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt
động từ nguồn NSNN theo Quyết định số
71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về hỗ trợ kinh phí từ
NSNN đối với các hội có tính chất đặc thù,
trong đó có khoản chi thực hiện nhiệm vụ
thường xuyên và hỗ trợ kinh phí tham gia
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã
hội do cơ quan nhà nước yêu cầu, tham gia
thực hiện các chương trình, đề tài, dự án
(thực hiện TGPL). Thực hiện Quyết định
này, các tổ chức xã hội cần xây dựng đề án
thực hiện TGPL và lập dự toán trình cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kinh phí
hỗ trợ cho hoạt động TGPL mang tính đặc
thù của các tổ chức hành nghề luật sư, Trung
tâm tư vấn pháp luật.
- Thu hút Dự án tài trợ cho các hoạt
động TGPL
Đây là nguồn tài chính hỗ trợ có tính
khả thi nhất của các tổ chức xã hội, bởi các
tổ chức xã hội là đối tác được các chính phủ
và tổ chức quốc tế quan tâm nên có nhiều cơ
hội tiếp cận với nguồn tài trợ của các tổ chức
quốc tế. Vì vậy, các tổ chức xã hội cần chủ
động, tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút
các nguồn tài trợ hỗ trợ cho các hoạt động
của các cấp hội, đặc biệt là các hoạt động
tăng cường năng lực, bảo vệ quyền con
người và TGPL.
4.6 Tăng cường hợp tác quốc tế về
TGPL
Trong xu thế hội nhập quốc tế, TGPL có
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, thực hiện công bằng
xã hội, trở thành một chính sách quan trọng
trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và
xóa đói giảm nghèo và chương trình giảm
nghèo bền vững, nên đang được các Chính
phủ và tổ chức quốc tế trên thế giới quan tâm
hỗ trợ. Thông qua hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực TGPL, chúng ta có nhiều cơ hội thực
hiện giao lưu, chia sẻ, học tập kinh nghiệm
về tổ chức và hoạt động TGPL của các nước
trong khu vực và trên thế giới; nhận được sự
quan tâm, hỗ trợ kỹ thuật và ủng hộ cả về vật
chất, kinh phí hoạt động TGPL n
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_xa_hoi_hoa_hoat_dong_tro_giup_phap_ly_va_cac_de_x.pdf