Chuyên đề Công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay

BHXH là chế độ bồi thường kinh tế được xây dựng trên cơ sở sự hỗ trợ lẫn nhau của những người cùng tham gia bảo hiểm về kinh tế- xã hội. Là những chế độ mà Nhà nước hoặc xã hội áp dụng để trợ giúp vật chất cho các thành viên trong xã hội khi họ già yếu, mất khả năng lao động và có những khó khăn đặc biệt khác. Chính vì vậy mà tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện quản lý về lĩnh vực này. Và đối với nước ta cũng vậy, trên con đường đi lên CNXH việc thực hiện quản lý chính sách BHXH, chi trả BHXH của Nhà nước là cần thiết. Trong thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước chính sách BHXH nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận. Đó là, chính sách BHXH đã góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này hiện tại cũng đang còn gặp phải một số vấn đề vướng mắc, khó khăn cần phải chấn chỉnh. Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước ta đang từng bước tiến hành đổi mới chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới hiện nay. Xây dựng, bổ sung, cải cách và hoàn thiện các chính sách, điều khoản về các chế độ BHXH hiện hành. Đưa BHXH thực sự trở thành chính sách an sinh xã hội lớn và quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của nước ta. Và đó là một chính sách không thể thiếu trong đời sống người lao động. Qua chuyên đề thực tập của mình, em đã nêu lên được một phần hoạt động của công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực chi trả BHXH ở Việt Nam trong thời gian qua, cũng như đóng góp một số giải pháp nhỏ nhằm từng bước hoàn thiện công tác này trong thời gian tới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu tài liệu, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn và cá cán bộ trong cơ quan thực tập, song do thời gian có hạn, kiến thức thực tế chưa sâu nên chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo thêm của cô giáo Tô Thị Thiên Hương và các thầy cô trong bộ môn để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.

doc97 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệc chuyển đổi chính sách BHXH. Có thể nói rằng chỉ trong gần 10 năm đổi mới định hướng BHXH, chính sách và mô hình tổ chức thực hiện BHXH nước ta hiện nay đã được nhiều nước trong khu vực và tổ chức lao động quốc tế đánh giá là có nhiều tiến bộ, đó là nhờ sự chỉ đạo tích cực của Chính phủ, sự cố gắng của các Bộ, ngành và của người dân. * Một số vấn đề hạn chế (1) Các quy định hưởng chế độ BHXH còn nhiều bất hợp lý , thiếu thực tế không đảm bảo công bằng xã hội, chưa đúng nguyên tắc thời gian đóng và mức đóng BHXH. Quyết định mức hưởng BHXH trong các chế độ còn trái ngược nhau. Cụ thể như sau: - Ngoài các đối tượng làm việc trong các khu vực Nhà nước, lực lượng an ninh quốc phòng, lao động làm việc theo hợp đồng từ 3 tháng trở lên trong các văn phòng đại diện, tổ chức liên doanh với nước ngoài, các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân lại quy định sử dụng từ 10 lao động trở l ên mới được tham gia BHXH. Gần đây, mở rộng thêm diện đối tượng cán bộ xã, phường hưởng sinh hoạt phí với mức đóng 15% tiền lương, nhưng quyền lợi BHXH chỉ giới hạn ở chế độ hưu trí, mai táng phí, trợ cấp thôi việc. - Ngoài số lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước thiếu việc làm, phải tự tìm việc làm cũng chưa có quy định đóng BHXH theo danh sách lao động đơn vị đã đăng ký đóng BHXH. Công tác quản lý Nhà nước về BHXH, chi trả BHXH ở nhiều địa phương còn thiếu chặt chẽ đã tạo điều kện cho một số đối tượng lợi dụng làm lại, khai man hồ sơ để hưởng chế độ BHXH. Đó là: - Có nhiều trường hợp làm giấy tờ giả khai tăng số năm công tác so với thực tế để hưởng chế độ hưu trí. - Một số đối tượng hưởng BHXH khi bị chết thì thân nhân của họ tiến hành khai báo chứng tử chậm để còn được hưởng thêm một số tháng lương hưu rồi mới làm chế độ tuất. Nguyên nhân này là do công tác quản lý nhà nước ở cơ sở còn có kẻ hở đặc biệt là ở cấp cơ sở(xã ,phường- nơi làm chứng tử). - Khi bị TNLĐ-BNN có một số đối tượng hợp pháp hoá hồ sơ khai tăng mức tỷ lệ thương tật để được hưởng mức trợ cấp cao hơn. Có sự việc như thế này là do công tác giám định, điều tra tai nạn lao động chưa chính xác và chưa kiểm soát được đúng thực chất theo đúng chế độ. - Một số đối tượng khi mắc bệnh mãn tính hoặc sắp đến ngày sinh đẻ( chủ yếu ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) mới đóng để hưởng chế độ BHXH sau khi có sự thoả thuận giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, gây thiệt hại cho quỹ. Tình trạng này xảy ra là do điều kiện hưởng chế độ ngắn hạn chưa chặt chẽ, công tác quản lý số đối tượng tham gia BHXH của các cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ. (3) Mặc dù quỹ BHXH trong thời gian qua có tăng lên nhưng quỹ dài hạn( quỹ hưu trí và tử tuất) tại tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối trong tương lai ảnh hưởng tới vấn đề chi trả BHXH sau này. Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH và chính sách điều chỉnh mức lương đã làm chi số thu của quỹ BHXH tăng khá nhanh đã phần nào đảm bảo được nguồn tài chính để chi trả các chế độ BHXH. Nếu năm 1996, tổng số thu từ quỹ là 2.570 tỷ đồng thì đến năm 2005 số thu đã tăng lên 16.340 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần so với năm 1996 và số tồn dư của quỹ hiện nay là trên 35.000 tỷ đồng. Theo quy định về BHXH, kinh phí Nhà nước chi trả cho các đối tượng nghỉ hưu, mất sức lao động và tiền tuất trước tháng 10 năm 1995; còn quỹ BHXH phải chi trả lương hưu và các hoại trợ cấp BHXH từ 1/10/1995 trở về sau. Như vậy, khi mới vừa tách ra hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước quỹ đã phải đảm bảo chi tra ngay cho các đối tượng hưởng hưu trí, tử tuất và con số chi này ngày càng cao. Năm 1995, quỹ phải chi trả cho chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH cho 622 người hưởng chế độ hưu trí, 7.970 người hưởng chế độ tuât; đến năm 2002, quỹ phải chi trả lương hưu và trợ cấp cho 244.467 đối tượng; năm 2003 số đối tượng hưởng trợ cấp do quỹ chi trả là 304.757 người, tăng 24,7% so với năm 2002. Và đến năm 2005 số đối tượng hưởng do quỹ đảm bảo là 387.872 người. Mức hưởng BHXH bình quân hàng năm đang tăng khá nhanh và tỷ trọng nguồn kinh phí do quỹ BHXH chi trả so với tổng số chi ngày càng tăng. Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính và dự báo cân đối quỹ hưu trí và tử tuất thì với tốc độ điều chỉnh tăng chi BHXH gắn liền với tiền lương như hiện nay, nếu không có những quy định mới về thay đổi thu chi BHXH hợp lý và đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì khoảng đến năm 2030 quỹ sẽ bị mất cân đối. Trước vấn đề đó, với chức năng quản lý nhà nước về BHXH, chi trả BHXH mà các nhà hoạch định chính sách không có biện pháp điều chỉnh thu- chi, đầu tư hợp lý để đảm bảo được nguồn tài chính để chi trả cho các chế độ BHXH trong tương lai. (4) Trong khi quỹ BHXH dài hạn có nguy cơ thâm hụt và mất cân đối trong tương lai thì quỹ ngắn hạn và quỹ BHYT lại kết dư khá cao. Qua đó ta có thể thấy việc tính toán mức đóng, mức hưởng BHXH là chưa phù hợp. Về quỹ BHXH ngắn hạn, theo quy định thì quỹ được hình thành từ nguồn thu bằng 5% tổng quỹ tiền lương. Trước năm 2001, quỹ ngắn hạn kết dư mỗi năm khoảng 70% tổng số thu. Từ năm 2001, mặc dù Thủ Tướng Chính Phủ đã có quyết định số 37/2001/QĐ-TTg bổ sung chế độ nghỉ dưỡng sức cho người lao động lấy từ quỹ ngắn hạn, song quỹ vẫn kết dư lớn. Qua giám sát, nghiên cứu và khảo sát cho thấy: Bình quân hàng năm, trong tổng số thu 5% quỹ ngắn hạn chỉ chi hết khoảng 2,1%, trong đó chi cho ốm đau khoảng 0,5%, cho thai sản khoảng 1%, cho TNLĐ-BNN khoảng 0,1%, cho nghỉ dưỡng sức 0,5%. Hiện nay, quỹ kết dư BHXH ngắn hạn đang được hoà chung với quỹ BHXH hưu trí, tiền tuất để cân đối tổng thể. Cách làm này làm lẫn lộn các nguồn quỹ, trái với phương pháp tính toán đóng- hưởng, cân đối thu chi các quỹ khi hoạch định chính sách ban đầu. Về quỹ BHYT, hàng năm quỹ này kết dư khá lớn. Cụ thể: năm 2002, quỹ kết dư 378,5 tỷ đồng bằng 31% tổng thu BHYT trong năm; năm 2003 kết dư 778,76 tỷ đồng bằng 41,8% tổng thu được của quỹ BHYT của năm. Việc kết dư quỹ BHYT là do việc tính toán mức chi trả khám chữa bệnh chưa hợp lý, nói chung là còn thấp. Bên cạnh đó là một số đối tượng người dân vùng sâu, vùng xa chưa có điều kiện tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh cuả BHYT; tổ chức khám chữa bệnh ở một số nơi còn quá kém so với khám chữa bệnh theo dịch vụ và lao động tại chức còn phải thanh toán 20% tiền viện phí khá phức tạp, mất thì giờ nên nhiều đối tượng khi ốm đau thì tự mình chạy chữa bằng kinh nghiệm hoặc đi khám dịch vụ, không khám chữa bệnh theo thẻ BHYT…. Vậy, để nâng cao hiệu quả của chính sách BHYT thì Nhà nước cần phải có sự điều chỉnh, quy định lại mức hưởng, mức thanh toán chi phí khám chữa bệnh để phù hợp với điều kiện hiện nay. Vậy có thể tóm lược lại công tác quản lý nhà nước về BHXH, chi trả BHXH ở nước ta được chia làm hai thời kỳ: Từ năm 1995 về trước và từ năm 1995 đến nay. Công tác quản lý nhà nước ngày càng được tăng cường và hoàn thiện hơn về cả nội dung lẫn phương thức quản lý. Cụ thể là: - Công tác quản lý nhà nước về BHXH nói chung cũng như về lĩnh vực chi trả nói riêng được tách khỏi công tác quản lý sự nghiệp BHXH. Việc tách bạch như thế này đã góp phần hình thành bộ máy của ngành và việc quản lý hoạt động BHXH, chi trả BHXH đạt hiệu quả cao hơn. Đó là do việc thực hiện thống nhất quản lý nhà nước và phân định rõ ràng chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước đã tạo nên những thay đổi lớn trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, chi trả BHXH. Bên cạnh đó, do việc phân cấp chức năng rõ ràng trong công tác quản lý Nhà nước nên các cơ quan quản lý như: Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, Bộ Tài Chính, Bộ Y Tế,… tập trung vào việc thực hiện xây dựng, sửa đổi và bổ sung kịp thời các chế độ, chính sách BHXH đã làm cho công tác chi trả BHXH ngày phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước cũng như nhu cầu của người lao động. - Các cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH, chi trả BHXH đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và ban hành chế độ, chính sách BHXH. Nhờ đó mà các chế độ trợ cấp BHXH đáp ứng được mong muốn cũng như yêu cầu của người lao động. Các điều kiện hưởng và mức hưởng các chế độ BHXH được nghiên cứu, tính toán và ban hành sát với thực tế hơn. - Nhờ thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về BHXH, chi trả BHXH mà chính sách BHXH đã góp phần ổn định đời sống cho trên 2,5 triệu đối tượng hưởng chế độ hưu trí; hàng chục vạn người lao động nghỉ các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Bên cạnh đó còn đảm bảo được an ninh xã hội và lành mạnh hoá thị trường lao động nước ta. Các văn bản pháp quy đã được ban hành đã góp phần nâng cao tính pháp chế XHCN, tạo tiền đề cho việc mở rộng đối tượng tham gia, đối tượng hưởng BHXH từ đó nhằm hoàn thiện chính sách chi trả BHXH cũng như việc ban hành luật trong tương lai. Bên cạnh những thành tựu trên thì công tác quản lý Nhà nước về chi trả ở nước ta trong thời kỳ qua vẫn còn một số vấn đề cần khắc phục. Đối với thời kỳ trước năm 1995, những vấn đề vướng mắc, bất cập đã được Nhà nước kịp thời ban hành các quy định bổ sung, sửa đổi. Còn từ năm 1995 đến nay, công tác quản lý Nhà nước về BHXH, chi trả BHXH đã nảy sinh một số bất cập mới. Đó là: - Nhiều nơi còn than phiền chính sách hiện tại chưa có tính thuyết phục. Theo quy định hiện nay, điều 28 điều lệ BHXH quy định khi nghỉ một lần thì căn cứ mỗi năm đóng BHXH được trả một tháng lương, nhưng phải đóng đủ 12 tháng trong một năm. Trong trường hợp người lao động làm việc và đóng BHXH chỉ được 11 tháng thì khi nghỉ hưởng trợ cấp một lần sẽ bị thiệt, còn nếu bảo lưu thì kết quả đóng BHXH được cộng dồn cho đến lúc đủ điều kiện nghỉ hưu( tối thiểu 15 năm) thì còn quá xa. - Các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan BHXH các cấp trong quá trình thừa hành nhiệm vụ còn mang nặng tính hành chính làm cho việc thực hiện chính sách BHXH, chi trả BHXH còn chậm, không đạt hiệu quả cao. - Quỹ có nguy cơ thâm hụt, mất cân đối trong tương lai ảnh hưởng tới nguồn tài chính để đảm bảo chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH trong tương lai. Và vấn đề còn vướng mắc nhất hiện nay đối với công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH đó là chúng ta chưa xây dựng xong và ban hành được bộ luật BHXH. Do vậy người lao động chưa thực sự có chỗ dựa pháp lý vững chắc khi tham gia vào hệ thống BHXH. Đồng thời khi chưa có luật thì mọi quy định về chế độ chính sách BHXh cũng chưa được chặt chẽ và chưa nâng cao được ý thức của mọi người dân về tính ưu việt của BHXH. Do vậy, vấn đề bức bách và cấp thiết hiện nay đối với công tác quản lý nhà nước về BHXH cũng như chi trả BHXH là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vấn đề này phải sớm xây dựng xong và ban hành luật BHXH trong thời gian tới có thể là vào năm 2006. Chương III. Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nươc về chi trả BHXH ở việt nam hiện nay. I. Định hướng về BHXH Việt Nam 1. Định hướng về xây dựng chính sách BHXH * Mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT Hiện nay BHXH nước ta quy định, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc không chỉ áp dụng cho công nhân viên chức và người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, mà đã mở rộng cho mọi người lao động có hợp đồng từ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên số lượng người lao động này còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng số lao động của cả nước. Vì vậy định hướng trong thời gian tới là phải nghiên cứu để mở rộng đối tượng BHXH cho mọi người thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân. Cụ thể là: thực hiện BHXH bắt buộc đối vơi xã viên hợp tác xã và người lao động làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của Bộ Luật Lao Động; còn một số thành viên khác không đủ điều kiện tham gia BHXH bắt buộc thì tạo điều kiện cho họ tham gia vào BHXH tự nguyện theo yêu cầu. Đồng thời nên tạo điều kiện cho những người lao động tự do có thu nhập thương xuyên và những người thuộc diện BHXH bắt buộc nhưng bị mất việc làm, thiếu một thờigian tham gia BHXH nhất định nên có nhu cầu đóng thêm để có đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí,.. Bên cạnh số đó, thực hiện chính tiến tới thực hiện chính sách BHYT toàn dân vào năm 2010. * Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách BHXH, BHYT Để khắc phục những vấn đề còn bất cập, chưa hợp lý trong của các chế độ chính sách BHXH, BHYT hiện hành, nhằm bảo vệ quyền lợi, tạo sự bình đẳng của các bên tham gia thì cần có sự sửa đổi theo một số định hướng sau: bổ sung chế độ BHXH bắt buộc cho cán bộ quản lý HTX nông, lâm ngư nghiệp; xác định thời gian tối thiểu phải đóng BHXH để hưởng chế độ ốm đau, thai sản; quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong chế độ TNLĐ-BNN; quy định chặt chẽ các trường hợp hưởng trợ cấp một lần; điều chỉnh mức tăng giảm trợ cấp một lần khi đủ điều kiện hưởng hưu trí và tuất để đảm bảo nguyên tắc đóng- hưởng và tính kế thừa. Đối với BHYT: mở rộng phạm vi thanh toán cho một số đối tượng hưởng là người nghèo, người hưởng chính sách, người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa. Xoá bỏ cơ chế cùng chi trả, thực hiện thanh toàn cho một số dịch vụ y tế kỹ thuật cao. Thực hiện công tác khám chữa bệnh cho người lao động. * Thực hiện BHXH tự nguyện Hiện nay chế độ BHXH tự nguyện đã được bước đầu thực hiện nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Do vậy, trong thời gian tới việc hoàn thiện các quy định BHXH tự nguyện là cần thiết, đáp ứng nhu cầu cuộc sống đặt ra. Vì vậy, BHXH tự nguyên cần phải được xác định là một bộ phận trong chính sách BHXH nước ta và nên xây dựng theo những nội dung sau: - Phạm vi và đối tượng áp dụng: BHXH tự nguyện áp dụng cho nông dân và người lao động là việc ngoài khu vực phi kết cấu làm việc không có quan hệ lao động( người bán hàng, người là việc thủ công, ..). Đối tượng áp dụng của chính sách này hoàn toàn theo nguyên tắc tự nguyện, tùy thuộc vào ý muốn của người lao động, pháp luật không quy định bắt buộc. Quyền lợi của người lao động khi tham gia vào chính sách này được nhà nước bảo vệ trước pháp luật. - Quỹ BHXH tự nguyện: được hình thành độc lập đối với ngân sách Nhà nước, tự cân đôi thu chi và hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Cũng như quỹ BHXH bắt buộc thì quỹ BHXH tự nguyện cần được sự bảo hộ của Nhà nước. - Chế độ của BHXH tự nguyện: Hiện nay mới chỉ được áp dụng chế độ hưu trí là còn quá ít. Vì vậy trong thời gian tới cần tính toán đưa thêm một số chế độ vào BHXH tự nguyện như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,.. - Mức hưởng BHXH: Theo quy định thì người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng theo mức đóng góp của họ. Do vậy, định hướng trong thời gian tới các cơ quan quản lý Nhà nước phải nghiên cứu để tính toán mức đóng và mức hưởng hợp lý, sát với thực tế và thu nhập cụ thể của người lao động. * Bổ sung chế độ bảo hiểm thất nghiệp vào trong hệ thống BHXH bắt buộc. Hiện nay, tình trạng thất nghiệp đang là vấn đề bức xúc của nước ta khi phát triển nền kinh tế thị trường. Vì vậy vấn đề cần đặt ra là cần có chính sách để đảm bảo cho người lao động khi bị thất nghiệp có được mức sống tối thiểu và tạo điều kiện cho họ tìm việc làm mới thì Nhà nước ta nên quy định thêm chế độ BHTN vào trong hệ thống chế độ BHXH bắt buộc. Có thể thấy đây là chế độ mới thay thế một phần cho chế độ trợ cấp mất việc làm và chế độ trợ cấp thôi việc được quy định trong Bộ Luật Lao Động. Tuy nhiên, trong thời gian tới các cơ quan quản lý nhà nước cần phải nghiên cứu cụ thể để ban hành sớm nhất việc thực hiện chế độ này. Ban hành chế độ này theo một số định hướng cụ thể sau: - Phạm vi và đối tượng áp dụng: BHTN áp dụng bắt buộc đối với mọi người lao độn làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức có sử dụng lao động theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn và hợp đồng có xác định thời hạn từ 1 năm trở lên. - Quỹ BHTN: Ngoài việc trợ cấp cho người lao động bị thất nghiệp với mức và thời gian hưởng tuỳ thuộc vào độ dài thời gian đóng bảo hiểm, quỹ còn hỗ trợ cho việc đào tạo, nâng cao tay nghề và tư vấn tìm việc, giới thiệu việc làm cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Quỹ được quảnlý thống nhất, dân chủ, công khai theo chế độ tài chính của Nhà nước, bảo đảm cân đối thu- chi, hạch toán độc lập, đồng thời được Nhà nước bảo hộ. 2. Định hướng tăng cường công cụ quản lý nhà nước về chi trả BHXH 2.1. Định hướng hướng xây dựng dự luật BHXH Hiện nay, chính sách BHXH đang được điều chỉnh chủ yếu bằng các văn bản dưới luật. Nhưng trong điều kiện phát triển của đời sống kinh tế- xã hội thì hệ thống pháp luật, chính sách BHXH hiện hành đã bộc lộ một số vấn đề bất cập mà nguyên nhân chính là do sự thiếu đồng bộ, hoàn chỉnh của các quy phạm pháp luật. Do vậy, vấn đề cấp thiết trong công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH hiện nay là Chính Phủ sớm ban hành và trình quốc hội thông qua dự luật BHXH để tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động sự nghiệp BHXH. Việc xây dựng dự luật phải có một số định hướng sau : * Sửa đổi, bổ sung một số nội dung về chi trả các chế độ BHXH Để khắc phục những vấn đề còn bất cập, chưa hợp lý trong các quy định chi trả BHXH, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho người lao động hưởng các chế độ BHXH thì luật phải bổ sung thêm một số quy định sau : - Đối với chế độ ốm đau, thai sản : Chế độ ốm đau và thai sản được xác định là chế độ ngắn hạn với mục đích chi trả là bù đắp cho người lao động một phần tiền lương, tiền công bị giảm sút trong những ngày người lao động nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn, rủi ro, thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình,… Tuy nhiên, số ngày nghỉ của các chế độ này phải được giới hạn, nếu quá giới hạn thì sẽ không được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH ; phải có một số điều kiện ràng buộc đối với người lao động hưởng trợ cấp hai chế độ này là quy định thời gian đóng BHXH tối thiểu thì mới được hưởng trợ cấp. Có giải pháp hợp lý đối với một số nghỉ hưởng chế độ ốm đau dài ngày. - Chế độ TNLĐ-BNN : Về việc chi trả cho chế độ LĐ-BNN cấn sửa đổi, bổ sung một số vấn đề sau : Đối với mức trợ cấp một lần thì tỷ lệ thương tật nên chia nhỏ thành 5 nhóm( 5-10%, 11-15%, 16-20%, 21-25%, 26-30%) tương ứng với các mức hưởng trợ cấp là 4.6.8.10.12 tháng lương tối thiểu thay vì 3 nhóm như trong quy định của nghị định 12/CP. Tương tự với mức trợ cấp hàng tháng đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên cũng được chia nhỏ thành 13 nhóm hưởng, khoảng cách mỗi nhóm là 5% tương ứng với các mức hưởng là từ 0,4 đến 1,6 tháng lương tối thiểu thay vì được chia 7 nhóm như trước đây. Việc chia nhỏ như thế này nhằm tránh trường hợp tiêu cực trong khâu giám định mức độ suy giảm khả năng lao động. Đồng thời tạo sự bình đẳng tương đối giữa các mức trợ cấp cho người lao động. Hiện nay, tai nạn xẩy ra tại nơi làm việc là không nhiều, nhưng xảy ra trên đường đi công tác hoặc đến nơi làm việc do tai nạn giao thông là rất lớn. Vì vậy, luật BHXH cần quy định chặt chẽ hơn về khái niệm, điều kiện để hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN, tránh sự lạm dụng quỹ BHXH. Bên cạnh đó, cần nâng cao mức hưởng cho các đối tượng bị TNLĐ-BNN bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống, cụt hai chi hoặc tâm thần,… lên mức trợ cấp 100% tiền lương tối thiểu thay cho mức 80% như hiện nay. - Chế độ hưu trí : Đây là chế độ BHXH quan trọng, cơ bản nhất trong chính sách BHXH. Để được hưởng chế độ này người lao động phải đóng góp cả đời người. Và điều kiện hưởng, mức hưởng nó liên quan mật thiêt với mức đóng, thời gian đóng, tuổi nghỉ hưu, tuổi thọ,.. Để đưa ra chính sách hợp lý khi chi trả cho các đối tượng này thì luật BHXH phải xác định rõ: Thứ nhất, cần thống nhất quy định điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí là phải có thời gian đóng BHXH tối thiểu là 20 năm. Quy định này sẽ loại bỏ được các đối tượng đủ tuổi đời nhưng mới đủ 15 năm đóng BHXH ra khỏi đối tượng hưởng hàng tháng. Đây là điều kiện để đảm bảo cân đôí nguồn quỹ BHXH dài hạn cũng như khả năng chi trả của quỹ trong tương lai. Thứ hai, có thể định hướng tăng tuổi nghỉ hưu không quá 5 tuổi so với quy định chung trong một số lĩnh vực ngành nghề. Quy định này sẽ góp phần khuyến khích người lao động tham gia làm việc sau tuổi nghỉ hưu nếu điều kiện cho phép. Thứ ba, cần thu hẹp số đối tượng nghỉ hưu trước tuổi. Đó là người đủ 30 năm đóng BHXH nếu có nguyện vọng về hưu thì cũng phải đủ điều kiện về tuổi đời. Thứ tư, tính toán lại mức hưởng bảo hiểm hưu t rí công bằng hơn theo đúng nguyên tắc đóng hưởng. Đối với mức hưởng bảo hiểm hưu trí một lần cần phải quy định cao hơn để đảm bảo sự hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng. - Chế độ BHYT : Nhìn chung chính sách BHYT đã thể hiện được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chăm lo sức khoẻ của nhân dân, góp phần đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của mọi người dân. Tuy nhiên, trong thời gian tới khi xây dựng luật BHXH thì cần có một số định hướng sau : Trong luật BHXH cần có điều chỉnh BHYT. Vì BHYT là một hình thức của BHXH, xét về bản chất thì nó là một nội dung của BHXH. Do vậy, nên xây dựng được một định chế BHYT trong luật BHXH là tốt nhất. Điều chỉnh lại mức chi của quỹ BHYT, không để tình trạng kết dư quỹ quá lớn như hiện nay trong khi chi cho khám chữa bệnh của người lao động lại thấp. Quy định lại danh mục thuốc chữa bệnh thay cho quy định từ năm 1995 là thuốc chữa bệnh được cấp trên cơ sở mức lương tối thiểu là 120.000đ ; và thực hiện cung cấp một số dịch vụ y tế kỹ thuật cao. * Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về chi trả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện chi trả chế độ BHXH đến người lao động trong luật. Đồng thời xây dựng chế tài xử phạt nghiêm khác đối với một số trường hợp vi phạm. Hiện nay, việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, chi trả BHXH đang do các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện. Còn BHXH Việt Nam mới chỉ có chức năng kiểm tra và lập báo cáo lên cơ quan quản lý nhà nước chứ chưa có thẩm quyền xử phạt vi phạm. Vì vậy, định hướng trong thời gian tới là khi xây dựng luật BHXH là nên giao quyền cho cơ quan BHXH các cấp trong việc thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm. Tuy nhiên, bộ Lao Động Thương Binh và Liên Đoàn Lao Động Việt Nam,… phải đóng vai trò giám sát. Ngoài ra, các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chi trả BHXH phải nghiên cứu xây dựng những chế tài xử phạt đủ mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm trong công tác chi trả BHXH, hạn chế tình trạng làm sai, trục lợi BHXH đảm bảo quyền lợi, lợi ích cho đối tượng hưởng. * Luật BHXH phải quy định rõ việc quản lý thống nhất sử dụng quỹ, đầu tư, bảo toàn và tăng trưởng một cách có hiệu quả để đảm bảo nguồn tài chính chi trả trong tương lai. Đó là: - Nên điều chỉnh lại tỷ lệ đóng góp của các bên tham gia BHXH để đảm bảo cân đối thu chi, hạn chế tình trạng thâm hụt quỹ trong 20-30 năm tới. Các cơ quan quản lý nhà nước nên nghiên cứu, tính toán mức đóng góp dựa trên thu nhập thực tế chứ không căn cứ vào thang bảng lương như hiện nay. Tiền lương làm cơ sở đóng góp phải căn cứ tiền lương ở các khu vực sản xuất, hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp liên doanh. Nên quy định mức sàn và mức trần đóng BHXH cụ thể đối với một số ngành nghề, khu vực để hạn chế khoảng cách lớn giữa những người hưởng lương hưu. Tỷ lệ đóng góp nên điều chỉnh theo hướng tăng dần cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế- xã hội, giảm tỷ lệ đóng cho chế độ ngắn hạn, tăng tỷ lệ đóng vào quỹ dài hạn. Phải quy định việc quản lý và sử dụng hai nguồn quỹ này tách bạch nhau. - Cần đưa ra phương án hỗ trợ cụ thể, rõ ràng của ngân sách nhà nước đối với quỹ trong việc chi trả trợ cấp cho những người hưởng các chế độ BHXH trước năm 1995 và trong trường hợp quỹ bị thiếu khi chi trả các chế độ BHXH. - Định hướng quy định đầu tư quỹ nhàn rỗi đó là: cần quy định việc đầu tư quỹ nhàn rỗi vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao hơn để bảo toàn vốn, tránh thâm hụt và mất quỹ khi có lạm pháp xảy ra. 2.2. Định hướng tăng cường một số công cụ quản lý khác Để công tác quản lý Nhà nước về thực hiện chi trả BHXH cho người lao động có hiệu quả hơn thì ngay từ đầu việc đăng ký tham gia BHXH của người lao động cần phải được thực hiện quản lý chặt chẽ; có như thế thì khi lập hồ sơ xét hưởng mới thực hiện đúng và nhanh chóng. Đồng thời việc lập hồ sơ xét hưởng trợ cấp cho các chế độ BHXH cũng cân phải thực hiện theo quy trình chặt chẽ, nghiêm ngặt để hạn chế tối đa những trình trạng sai phạm có thể, đồng thời cũng phải đơn giản, nhanh chóng không gây phiền hà, khó khăn cho người lao động khi hưởng chế độ BHXH. Vì vậy cần phải quy định thẩm quyền cấp và ban hành các hồ sơ về BHXH của các cơ quan thực hiện chức năng quản lý của mình. II. Kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay 1. Một số kiến nghị Qua việc tổng hợp, phân tích đánh giá kết quả hoạt động quản lý nhà nước về chi trả BHXH hiện nay có thể đưa ra một số ý kiến sau đối với các cơ quan quản lý nhà nước như sau: 1.1. Đối với quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội - Sớm thông qua luật BHXH. BHXH là chính sách lớn, nhạy cảm, có ảnh hưởng lâu dài đến quyền lợi của người lao động và an sinh xã hội; vì vậy trước khi thông qua dự án luật BHXH cần phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của cử tri, nhất là những đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. - Khi thông qua luật, pháp lệnh có ảnh hưởng đến cân đối thu chi quỹ BHXH phải tính toán bố trí ngân sách để đảm bảo thực hiện. - Trong lệnh hoặc pháp lệnh được Quốc hội hoặc UBTV Quốc hội thông qua nếu có các nội dung liên quan đến các đối tượng hưởng khám chữa bệnh do ngân sách nhà nước đảm bảo thì nên thực hiện mua BHYT. - Quốc hội và UBTV Quốc hội tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện chi trả BHXH cho người lao động tại các cấp, các ngành. 1.2. Đối với Chính Phủ Thứ nhất, về cơ chế lâu dài: - Để cải cách cơ bản chính sách BHXH, giải quyết được những bất hợp lý hiện hành, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN, đảm bảo chính sách an sinh lâu dài của đất nước, cần phải tổ chức tổng kết, đánh giá, phân tích mặt tích cực, tồn tại, nguyên nhân chủ quan, khách quan của các chế độ BHXH hiện hành; trên cơ sở đó đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, soạn thảo dự án luật BHXH, xác định các vấn đề cốt lõi như: các chế độ BHXH, mức đóng- hưởng, tổ chức thu- chi, tổ chức hệ thống BHXH, BHYT, đầu tư đảm bảo tăng trưởng quỹ; thống nhất mục tiêu, nguyên tắc, nội dung BHXH trước khi hình thành luật. - Nghiên cứu chính sách viện phí theo hướng tính đúng, tính đủ theo ca bệnh. Trên cơ sở đó xem xét lại việc phân bổ ngân sách cho sự nghiệp y tế, quy định chính sách BHYT, đồng thời có kế hoạch hình thành mạng lưới y tế cơ sở quốc lập và ngoài quốc lập, chăm lo sức khoẻ cho nhân dân nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa. - Nghiên cứu đưa về cơ quan, doanh nghiệp chi trả chế độ ốm đau, thai sản theo quy định của pháp luật và hạch toán các khoản chi này vào giá thành, chi phí lưu thông hoặc kinh phí được giao không phải đóng BHXH ốm đaum thai sản nhằm giảm chi phí sản xuất và khắc phục được nhiều tồn tại như hiện nay. Về giải quyết những vấn đề tồn tại trước mắt: - Chỉ đạo các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH, BHYT; có cơ chế gắn trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan liên quan và chính quyền các cấp trong việc quản lý hồ sơ, đối tượng tham gia, đối tượng hưởng các chế độ BHXH. Tăng cường củng cố cả về số lượng lẫn chất lượng thanh tra viên của ngành; tổ chức kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm việc thực hiện chi trả các chế độ, chính sách BHXH để đưa việc chấp hành pháp luật BHXH của các tổ chức, cá nhân đi vào nề nếp. - Đầu tư quỹ kết dư của BHXH, BHYT vào một số dự án lớn của quốc gia có độ an toàn và hiệu quả cao nhằm tăng mức thu lãi qua đầu tư quỹ kết dư góp phần đảm bảo an toàn và cân đối quỹ về lâu dài. - Chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát các văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể thi hành pháp luật về BHXH, khắc phục sớm những bất cập hiện hành; đồng thời xem xét tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ và các bộ ngành để bổ sung sửa đổi cho phù hợp. - Tăng cường bộ máy chuyên trách của Hội Đồng quản lý BHXH đủ năng lực để kiểm soát được quá trình hoạt động của hệ thống BHXH, tổng kết phân tích được chính sách BHXH, BHYT hiện hành, tham mưu cho nhà nước có các điều chỉnh thích hợp cũng như đề xuất các biện pháp xử lý các tồn tại, vướng mắc của BHXH, BHYT trong quá trình thực hiện. 1.3. Hội đồng quảnlý BHXH Việt Nam Cần chủ trì phối hợp với các bộ ngành có liên quan để nghiên cứu trình Chính Phủ sử đổi một các chế độ, chính sách BHXH. Họp để bàn giao thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, xỷ lý các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, chi trả BHXH theo quy định tại nghị định số 01/3/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính Phủ. 1.4. Đối với Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam Là tổ chức chính trị lớn của người lao động, công đoàn cần tích cực tham gia vào việc thực hiện chính sách BHXH mới nhằm đản bải quyền lợi cho người lao động. Công đoàn cần tổ chức phổ biến, tuyên truyền đến người lao động về ý nghĩa, mục đích, nội dung các chế độ, chính sách BHXH, quyền lợi và trách nhiệm của người lao động, chủ sử dụng lao động và BHXH Việt Nam trong việc thực hiện chế độ chính sách BHXH. Tổ chức công đoàn giám sát hoặc phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động; đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và cung cấp đầy đủ hồ sơ, tư liệu cần thiết làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ BHXH. Giám sát BHXH các cấp trong việc chi trả các chế độ BHXH, bảo đảm đầy đủ, kịp thời và thuận tiện. Xây dụng chương trình phối hợp giữa công đoàn với BHXH các cấp để thực hiện tốt nội dung giám sát của công đoàn với hoạt động BHXH; phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước và BHXH các cấp trong việc giải quyết những khiếu nại, vướng mắc của người lao động về chế độ chính sách BHXH. Tăng cường kiểm tra, chỉ đạo thành lập các tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp, khu vực ngoài quốc doanh có đủ điều kiện theo quy định của luật công đoàn, trên cơ sở đó có các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công đoàn các cấp nhằm bảo vệ quyền lợi của người tham gia BHXH. 1.5. Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội - Cần nghiên cứu, hoàn thiện chế độ chính sách BHXH để trình Chính Phủ, thủ tướng Chính Phủ thông qua. - Cần ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật BHXH và các văn bản dưới luật quy định thực hiện BHXH theo chức năng, nhiệm vụ mà thủ tướng giao. - Thường xuyên phải có hướng dẫn các bộ, các ngành, cơ quan, đơn vị, các sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội thực hiện tốt chế độ chính sách BHXH cho đối tượng hưởng. - Tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật BHXH; chi trả BHXH có của các ngành, địa phương, đơn vị sử dụng, cơ quan BHXH Việt Nam. 1.6. Bộ Tài Chính - Cần tăng cường nghiên cứu, sửa đổi, ban hành và hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. Phân bổ và giao nhiệm vụ chi BHXH chặt chẽ căn cứ vào dự toán chi của BHXH Việt Nam lập đã được Chính Phủ phê duyệt. - Thường xuyên thanh tra, kiểm tra tình hình tài chính ( thu, chi) của BHXH để đưa ra các quy định quản lý cho phù hợp. - Tiến hành nghiên cứu và ban hành các quy định về mức thu, chi, đầu tư để đảm bảo cân đôi quỹ BHXH. 1.7. Bộ y tế Thực hiện nghiên cứu và ban hành các quy định về việc khám chữa bệnh BHYT. Phối hợp với các cơ quan liên quan để nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện chế độ BHYT. 1.8. Bộ quốc phòng. Phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện BHXH cho sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân độinhân dân và công an nhân dân. Tham gia nghiên cứu và ban hành các chế độ BHXH cho lực lượng vũ trang, an ninh, quốc phòng. Ngoài các cơ quan trên thì còn một số cơ quan như: Bộ nội vụ, vụ ngân xã, kiểm toán nhà nước,… cũng cần phối hợp để thực hiên công tác quản lý Nhà nước về BHXH, chi trả BHXH là cho chính sách BHXH ngày càng hoàn thiện hơn. 2. Giải pháp tăng cường hoạt động quản lý Nhà nước về chi trả BHXH Để hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về chi trả BHXH thì các cơ quan quản lý Nhà nước phải thực hiện một số công việc sau: Thứ nhất, các cơ quan thực hiện chức năng quản lý phải cùng nhau nghiên cứu, bàn bạc và có thể lập ra một uỷ ban có sự đại diện của các ngành, các bộ để xây dựng và hoàn thiện chính sách BHXH Việt Nam. - Thực hiện công tác quản lý BHXH tập trung, thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ từ khâu hoạch định chính sách đến khâu thực hiện chính sách đặc biệt là chính sách chi trả cho người lao động. - Cần quy định rõ ràng chức năng quản lý Nhà nước về chi trả BHXH của các cơ quan: Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, Bộ Y Tế, Bộ Nội Vụ, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tài Chính,… trong quá trình thực hiện chức năng quản lý. Tránh tình trạng quản lý chồng chéo, đan xen lẫn nhau khi các cơ quan này thực hiện chức năng quản lý của mình. Đồng thời các cơ quan này cũng phải có mối quan hệ thống nhất với nhau trong quá trình quản lý. - Các bộ ngành thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực chi trả BHXH cần phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới để hoàn thiện chức năng quản lý của mình. Đồng thời xem xét để xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách chi trả BHXH để trình Chính phủ và Nhà nước xem xét. Bên cạnh đó cũng phải thường xuyên tổng kết, đánh giá lại hoạt động của công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Từ đó rút ra được những mặt được, tích cực để duy trì và phát huy; đồng thời nhận thức được những vấn đề còn tồn tại, hạn chế để kịp thời chấn chỉnh. Phải làm rõ chức năng quản lý Nhà nước về BHXH, chi trả BHXH với chức năng quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Về chức năng quản lý Nhà nước thì tiếp tục giao hoàn toàn cho Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội thực hiện; còn chức năng quản lý hoạt động sự nghiệp cũng tiếp tục giao cho BHXH Việt Nam. Tuy nhiên để thực hiện tốt chính sách BHXH, chi trả BHXH thì cần phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa chức năng quản lý Nhà nước đối với chức năng quản lý sự nghiệp; phải có sự thống nhất ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương - Hiện nay đã sáp nhập BHYT vào hệ thống BHXH, vì vậy nhiệm vụ cuả các cơ quan quản lý đó là tiếp tục xây dựng chính sách về quyền hưởng, đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng của các chế độ BHYT. Bên cạnh đó cần phải sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy, nhân sự ,…cho nhất quán để hoạt động của bộ máy có hiệu quả hơn, đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người lao động hưởng BHXH. - Với chức năng quản lý Nhà nước về chi trả BHXH thì khi xây dựng và hoàn thiện chính sách, chế độ BHXH các cơ quan phải bàn bạc và thống nhất với nhau về một số nội dung sau: quy định đối tượng hưởng rõ ràng, điều kiện hưởng và mức hưởng phải tương xứng với nghĩa vụ đóng góp của họ. Mức hưởng phải được xây dựng trên cơ sở, căn cứ vào thời gian đóng, mức đóng, tuổi và tình trạng sức khoẻ của người lao động. Đồng thời điều chỉnh lại tỷ lệ đóng- hưởng BHXH, tỷ lệ đóng góp của các quỹ thành phần( quỹ ngắn hạn, quỹ dài hạn, quỹ BHYT), xem xét lại tuổi nghỉ hưu cho hợp lý. - Quy định về thực hiện quản lý tập trung và thống nhất quỹ tài chính BHXH trong cả nước. Bên cạnh đó thực hiện điều chỉnh mức đóng góp, đầu tư và mức chi trả cho các chế độ, chi cho công tác quản lý BHXH để tạo nguồn tài chính ổn định, lâu dài , đảm bảo cho việc chi trả cho người lao động được đầy đủ, kịp thời. Cụ thể: + Tăng nguồn thu cho quỹ BHXH bằng cách tăng mức đóng góp vào quỹ BHXH của các đối tượng tham gia; mở rộng đối tượng tham gia BHXH. + Quy định việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH nhàn rỗi vào những công trình, dự án, doanh nghịêp vào những ngành, lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao ở trong và ngoài nước, quảnlý chặt chẽ danh mục đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH có hiệu quả. + Quy định lại mức chi trả BHXH, quy định về việc chi trả cuả các quỹ ngắn hạn và dài hạn. + Xác định rõ phương án hỗ trợ cụ thể của ngân sách Nhà nước đối với việc chi trả các chế độ cho người lao động về cả nội dung lẫn hình thức vật chất hỗ trợ. Ngoài ra, cần nghiên cứu thay đổi cơ chế hoạt động tài chính của các quỹ dài hạn, tiến tới thực hiện cơ chế đầu tư, đầu tư ứng trước để duy trì quỹ tài chính ổn định, an toàn, vững mạnh tạo nên tiềm lực tài chính lớn đảm bảo tốt công tác chi trả BHXH. - Các cơ quan phải cùng nhau bàn về việc xây dựng và ban hành pháp luật BHXH,BHYT tạo hành lang pháp lý vững chắc cho BHXH Việt Nam. Về luật BHXH, cần được hoàn thiện như sau: + Ban hành cụ thể về BHXH tự nguyện + Sửa đổi chế độ hưu trí đảm bảo công bằng giữa mức đóng góp và hưởng thụ, đồng thời đảm bảo sự ổn định của quỹ hưu trí. + Sửa đổi mức đóng BHXH cho phù hợp với sự phát triển kinh tế + Ban hành các quy định cụ thể về chế độ bảo hiểm thất nghiệp + Xây dựng và ban hành luật BHXH Nội dung của luật có thể được chia như sau: Chương I: Những quy định chung gồm 12 điều quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, quyền và trách nhiệm của các bên trong quá trình tham gia quan hệ BHXH, giải thích một số từ ngữ và quy định có tính chất nguyên tắc chi phối toàn bộ nội dung của luật BHXH. Chương II: BHXH bắt buộc chi thành 18 điều, chia thành các mục, mỗi mục ứng với một chế độ BHXH bắt buộc như ốm đau, thai sản, TNLD-BNN, hưu trí, tử tuất. Trong chế độ này quy định cụ thể về đối tượng, điều kiện hưởng, mức hưởng của từng chế độ BHXH. Chương III: BHXH tự nguyện gồm 7 điều quy định đối tượng của BHXH tự nguyện, các chế độ BHXH tự nguyện gồm hưu trí hàng tháng, trợ cấp một lần, điều kiện hưởng, mức hưởng lương hưul quyền và trách nhiệm của bên tham gia BHXH tự nguyện. Chương IV: Bảo hiểm thất nghiệp gồm 7 điều quy định đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp, mức trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp, đào tạo nghề và giới thiệu việc làm, quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Chương V: Quỹ BHXH gồm 14 điều được chi thành 3 mục, quỹ BHXH bắt buộc, quỹ BHXH tự nguyện, quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, quỹ BHXH bắt buộc gồm 3 quỹ thành phần: quỹ ốm đau, thai sản, quỹ TNLĐ-BNN, quỹ hưu trí và tử tuất. Chương VI: Tổ chức BHXH gồm 2 điều quy định có tính nguyên tắc về tổ chức BHXH và Hội Đồng quảnlý BHXH. ChươngVII: Thủ tục thực hiện BHXH gồm 3 điều quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động, lập hồ sơ hưởng BHXH và quy định thời hạn giải quyết. Chương VIII: Giải quyết khiếu nại tố cáo, giải quyết tranh chấp khởi kiện về BHXH gồm 6 điều, quy định khiếu nại tố cáo và tranh chấp trong quan hệ BHXH; thẩm quyền, thủ tục giải quyết; việc thi hành các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật. Chương IX: Quản lý Nhà nước về BHXH gồm 2 điều xác định trách nhiệm quản lý Nhà nước về BHXH; các cơ quan có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý Nhà nước; trách nhiệm của Nhà nước đối với quỹ BHXH. Chương X: Khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật về BHXH gồm 2 điều quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật về BHXH đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức,cá nhân. Chương XI: Điều khoản thi hành gồm 3 điều quy định hiệu lực thi hành; các quy định xử lý qua độ, việc áp dụng và thẩm quyền hướng dẫn thi hành luật. Về BHYT cần được hoàn thiện: + Mở rộng đối tượng tham gia BHYT: hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân. + Xây dựng và ban hành luật BHYT với các nội dung sau: Chương I: Những quy định chung về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc thực hiện BHYT. Chương II: Các hình thức BHYT bao gồm BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện. Chương III: Chế độ BHYT. Quy định trình tự, thủ tục, nội dung hưởng BHYT. Chương IV: Cơ quan quản lý BHYT Chương V: Quỹ BHYT Chương VI: quy định khác như khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm, hiệu lực thi hành. Thứ hai, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong công tác quản lý Nhà nước về chi trả BHXH. Công tác quản lý Nhà nước về BHXH, chi trả BHXH là một lĩnh vực rất rộng, có liên quan đến nhiều bộ, ngành, nhiều cấp. Do vậy, để làm tốt công tác này đòi hỏi các bộ, ngành, cơ quan như Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, tổ chức Công Đoàn, Bộ Y Tế,… phải có sự phối hợp nhau một cách chặt chẽ để quảnlý lĩnh vực này. Đồng thời rà soát lại nhiệm vụ của các sow, ngành ở các địa phương để kịp thời phát hiện những vướng mắc, hạn chế để kịp thời bổ sung, tập trung chỉ đạo thực hiện. Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội cũng cần phải thường xuyên thực hiện những đợt kiểm tra liên ngành về việc thực hiện chi trả BHXH cho các đối tượng có phù hợp với chính sách không. Thứ ba, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền chủ trương chính sách BHXH. Bởi vì: Một nhân tố tác động đến việc mở rộng đối tượng, tăng thu, đảm bảo quyền lợi hưởng cho người lao động là công tác thông tin tuyên truyền. Xuất phát từ nền kinh tế nước ta đi lên từ nghèo nàn, lạc hậu, dân trí thấp; do vậy sự hiểu biết về BHXH, BHYT còn hạn chế nên công tác thông tin tuyên truyền là rất cần được tăng cường thường xuyên, liên tục. Công tác thông tin tuyên truyền phải có nội dung, phương pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn cụ thể. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí dành cho công tác tuyên truyền cũng cần phải bố trí một cách tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. Cần phải thực hiện tuyên truyền dưới mọi hình thức, trên mọi phương tiện thông tin đại chúng; mở các đợt tuyên truyền rộng rãi ở tất cả các ngành, các điạ phương,.. Công tác tuyên truyền phải đạt được mục đích là nâng cao nhận thức cho người lao động, người sử dụng lao động cũng như các đối tượng hưởng thụ chính sách BHXH. Có làm được như vậy thì chính sách BHXH mới thực sự đi vào cuộc sống của người lao động, người hưởng chính sách BHXH, giúp họ vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống, rủi ro trong cuộc sống. Đồng thời cũng trang bị cho họ những kiến thức để bảo vệ mình khi bị vi phạm quyền lợi BHXH. Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả tốt thì việc tuyên truyền phải được tiến hành thường xuyên, rộng rãi hơn nữa để đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về BHXH đi vào cuộc sống. Thứ tư, tăng cường nghiên cứu điều chỉnh chính sách tiền lương, trợ cấp BHXH cho phù hợp với xu thế chung của các nước trong khu vực. Như chúng ta đã biết, quỹ BHXH được lập ra để đảm bảo các hoạt động của BHXH mà chủ yếu là chi trả các trợ cấp BHXH. Tuy nhiên, quỹ này cũng phụ thuộc rất lớn vào tiền lương của người lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Và việc đóng góp vào quỹ vẫn dựa trên tiền lương cơ bản và với việc tính tỷ lệ đóng góp dựa trên cơ sở tiền lương nên theo nguyên tắc tương đương khi hưởng người lao động cũng chỉ được hưởng trên cơ sở tiền lương làm căn cứ đóng BHXH; nhưng tiền lương cơ bản của chúng ta hiện nay đang còn thấp cho nên mức trợ cấp BHXH thấp ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của bản thân và gia đình người thụ hưởng. Vì vậy, nghiên cứu điều chỉnh nâng cao mức tiền lương cơ bản là hết sức cần thiết. Để đưa mức tiền lương mới đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, chi trả BHXH phải tăng cường nghiên cứu nghiên cứu, ban hành sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước cũng như phù hợp với xu thế chung của các nước trong khu vực. Thứ năm, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà nước về chi trả BHXH cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, chi trả BHXH cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm của các cơ quan, các cấp, người sử dụng lao động, người lao động về việc chi trả, hưởng các chế độ BHXH, làm lành mạnh hoá đúng như mục tiêu chính sách BHXH của Nhà nước. Muốn làm được điều đó, cơ quan quản lý nhà nước về chi trả BHXH cần phải tăng cường, hoàn thiện đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra cho ngành. Trong công tác thanh tra, kiểm tra cần phải xử lý nghiêm các trường hợp khai man, làm sai hồ sơ để được hưởng chế độ BHXH. Đặc biệt, nên cần tăng thêm thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cho cơ quan BHXH Việt Nam. Đồng thời cần có kế hoạch xây dựng các kế hoạch phối hợp giữa Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, UBND các cấp, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, BHXH Việt Nam để thực hiện thanh tra, kiểm tra. Công tác thanh tra, kiểm tra cần phải được thực hiện thường xuyên, định kỳ và có hiệu quả. Thứ sáu, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư và cân đối lại nguồn quỹ BHXH Để đảm bảo an toàn chi trả cho người lao động thì tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH cần được đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Việc đầu tư phải đảm bảo mục tiêu an toàn- đảm bảo rằng khoản đầu tư phải giữ nguyên giá trị, lãi( tỷ suất hoàn vốn), tính lưu hoạt( khả năng bán nhanh các khoản đầu tư nếu cần tiền mặt) giá trị xã hội( đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội). Quỹ hưu trí cần được đầu tư bảo toàn, phát triển, có sự hỗ trợ của nhà nước, sau khi trừ chi phí quản lý, tỷ lệ lãi suất hàng năm không thấp hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn. Tăng cường đầu tư vào lĩnh vực sinh lời, ít rủi ro với cơ chế chặt bảo đảm sự an toàn của các khoản đầu tư từ nguồn quỹ này. Đồng thời quy định rõ thẩm quyền, cơ chế làm việc của Hội đồng quản lý BHXH, cơ quản BHXH Việt Nam thực hiện việc này. Mặt khác một vấn để hiện nay đó là quỹ BHXH ngày càng mất cân đối một cách nghiêm trọng. Quỹ BHXH chi trả cho các chế độ ngắn hạn thì ngày càng dư thừa nhiều, do các khoản chi này ít, không đáng kể. Trong khi quỹ dài hạn, nhất là chi lương hưu cho người lao động thì đang thâm hụt, thu không đủ chi. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước cần xem xét lại để có những biện pháp thiết thực nhằm cân đối lại nguồn quỹ BHXH, có thể là: tăng tỷ lệ trong tổng số tiền đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động dành cho chế độ dài hạn; tăng mức đóng góp của các bên tham gia BHXH; .. Tóm lại, các cơ quan chức năng cần tăng cường hoạt động nghiên cứu xem xét lại giải pháp tốt nhất để cân đối lại nguồn quỹ đảm bảo nguồn tài chính để thực hiện chi trả cho các chế độ BHXH. Thứ bảy, tăng cường đầu tư thêm con người cơ sở, vật chất để phục vụ tốt hơn công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH Hiện nay chính sách, chế độ BHXH được mở rộng hơn; và theo dự tính có thể thêm cả chế độ bảo hiểm thất nghiệp, BHXH tự nguyện. Vì vậy để làm tốt hơn công tác quản lý nhà nước về BHXH và chi trả BHXH phải tăng cường thêm đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước và cơ sở vật chất như trang thiết bị tin học, phương tiện đi lại,… để giúp hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực này có hiệu quả hơn. Mặt khác, công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH có đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc rất lớn vào trình độ quản lý, năng lực chuyên môn, phẩm chất của người cán bộ làm công tác này. vì Thế cơ quan quản lý nhà nước về BHXH cần chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức từng bước có khả năng chủ động, độc lập để xử lý và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời mở các lớp tập huấn, hướng dẫn về chính sách, quy định mới của nhà nước về BHXH cho các cán bộ quản lý từ trung ương đến địa phương. Những cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH cần phải nắm vững các chính sách, chủ trương của Đảng; đồng thời phải thường xuyên tìm tòi, thực hiện nghiên cứu khoa học để hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý của mình. Kết luận BHXH là chế độ bồi thường kinh tế được xây dựng trên cơ sở sự hỗ trợ lẫn nhau của những người cùng tham gia bảo hiểm về kinh tế- xã hội. Là những chế độ mà Nhà nước hoặc xã hội áp dụng để trợ giúp vật chất cho các thành viên trong xã hội khi họ già yếu, mất khả năng lao động và có những khó khăn đặc biệt khác. Chính vì vậy mà tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện quản lý về lĩnh vực này. Và đối với nước ta cũng vậy, trên con đường đi lên CNXH việc thực hiện quản lý chính sách BHXH, chi trả BHXH của Nhà nước là cần thiết. Trong thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước chính sách BHXH nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận. Đó là, chính sách BHXH đã góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này hiện tại cũng đang còn gặp phải một số vấn đề vướng mắc, khó khăn cần phải chấn chỉnh. Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước ta đang từng bước tiến hành đổi mới chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới hiện nay. Xây dựng, bổ sung, cải cách và hoàn thiện các chính sách, điều khoản về các chế độ BHXH hiện hành. Đưa BHXH thực sự trở thành chính sách an sinh xã hội lớn và quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của nước ta. Và đó là một chính sách không thể thiếu trong đời sống người lao động. Qua chuyên đề thực tập của mình, em đã nêu lên được một phần hoạt động của công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực chi trả BHXH ở Việt Nam trong thời gian qua, cũng như đóng góp một số giải pháp nhỏ nhằm từng bước hoàn thiện công tác này trong thời gian tới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu tài liệu, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn và cá cán bộ trong cơ quan thực tập, song do thời gian có hạn, kiến thức thực tế chưa sâu nên chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo thêm của cô giáo Tô Thị Thiên Hương và các thầy cô trong bộ môn để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình bảo hiểm- trường đại học Kinh Tế Quốc Dân Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế- Trường đại học Kinh Tế Quốc Dân Tạp chí Bảo Hiểm Xã Hội Báo Bảo Hiểm Xã Hội Tạp chí Bảo Hiểm Y Tế Tạp chí quản lý Nhà nước Các văn bản quy định chế độ BHXH hiện hành- Bộ LĐTBXH, HN 6/1994 Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về chính sách BHXH- nhà xuất bản lao động xã hội, HN 2003. Báo cáo của uỷ ban các vấn đề xã hội về tình hình thực hiện chính sách BHXH, BHYT bát buộc Bộ luật lao động của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Thuyết trình của uỷ ban các vấn đề xã hội về khắc phục một số bất cập về BHXH, góp phần đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động Báo cáo tổng kết công tác năm 2001 và chương trình công tác năm 2002 của BHXH Việt Nam Một số bài luận văn của các khoá 40,41,42,43 Các bảng số liệu Bảng 1: Mức đóng BHXH ở một số nước trên thế giới Bảng2: Đối tượng hưởng BHXH ở Việt Nam giai đoạn 1996-2005 Bảng 3: Tình hình chi BHXH ở Việt Nam giai đoạn 1995-2005 Bảng 4: Cơ cấu chi của quỹ BHXH ở Việt Nam từ năm 1995-2005 Các biểu đồ Biểu đồ 1: Biểu đồ chi trả của quỹ BHXH qua các năm từ 195-2005 Biểu đồ 2: biểu đồ cơ cấu chi trả từ quỹ năm 2005 Sổ BHXH và một số biểu mẫu BHXH Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36513.doc
Tài liệu liên quan