Những thách thức chủ yếu là:
- Sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp không chỉ của trong nước mà còn cả các doanh nghiệp nước ngoài
- Thách thức từ nguồn nhân lực của chính các doanh nghiệp đó là trình độ nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nước ta là rất thấp không đáp ứng được nhu cầu khi tham gia kinh doanh thị trường thế giới.
20 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Hiểu biết về tổ chức WTO, cơ hội và thách thức với từng nhóm ngành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ TỰ CHỌN: HIỂU BIẾT VỀ TỔ CHỨC WTO, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI TỪNG NHÓM NGÀNH
I. Tìm Hiểu Về Tổ Chức Thương mại Thế giới (WTO):
Tổ chức Thương mại Thế giới: (tiếng Anh: World Trade Organization, viết tắt WTO); là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở tại Geneve, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 7 tháng 11 năm 2006, WTO có 150 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại.
Nguồn gốc:
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới.
Vòng đám phán thứ tám, vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.
Chức năng:
WTO có các chức năng sau:
- Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO
- Diễn đàn đàm phán về thương mại
- Giải quyết các tranh chấp về thương mại
- Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
Đàm phán:
Phần lớn các quyết định của WTO đếu dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. Mỗi thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau.
Nguyên tắc đồng thuận có ưu điểm là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất được tất cả các thành viên chấp nhận. Nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có được một quyết định đồng thuận. Đồng thời, nó dẫn đến xu hướng sử dụng những cách diễn đạt chung chung trong hiệp định đối với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các hiệp định gặp nhiều khó khăn.
Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra không phải qua sự nhất trí của tất cả các thành viên, mà qua một quá trình đàm phán không chính thức giữa những nhóm nước. Quá trình này thường bị nhiều nước đang phát triển chỉ trích vì họ hoàn toàn phải đứng ngoài các cuộc đàm phán như vậy.
Giải quyết tranh chấp:
Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn hoạt động như một trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng quy định của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc thực thi các quyết định của mình thông qua việc cho phép áp dụng trừng phạt thương mại đối với thành viên không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước thành viên có thể kiện lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ tin rằng một nước thành viên khác đã vi phạm quy định của WTO.
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm. Trong trường hợp thành viên vi phạm quy định của WTO không có các biện pháp sửa chữa theo như quyết định của Hội Đồng Giải Quyết Tranh Chấp, Hội đồng có thể ủy quyền cho thành viên đi kiện áp dụng các "biện pháp trả đũa" (trừng phạt thương mại). Những biện pháp như vậy có ý nghĩa rất lớn khi chúng được áp dụng bởi một thành viên có tiềm lực kinh tế mạnh như Hoa Kỳ hay Liên minh châu Âu. Ngược lại, ý nghĩa của chúng giảm đi nhiều khi thành viên đi kiện có tiềm lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có tiềm lực kinh tế mạnh hơn.
Cơ cấu tổ chức:
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban đặc thù.
- Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
- Cấp thứ hai: Đại Hội đồng
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
Đại Hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO.
Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương).
Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng hơn.
- Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mội hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có nhóm Công tác về việc Gia nhập, chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO.
Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa.
Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ.
Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
- Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt.
Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc thù.
Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù.
Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán DOHA, WTO đã thành lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Các nguyên tắc:
- Không phân biệt đối xử:
+ Đãi ngộ quốc gia: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nước.
+ Đãi ngộ tối huệ quốc: Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO.
- Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán
- Tính Dự đoán thông qua Liên kết và Minh bạch: Các quy định và quy chế thương mại phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định.
- Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển: Giành những thuận lợi và ưu đãi hơn cho các thành viên là các quốc gia đang pháp triển trong khuôn khổ các chỉ định của WTO.
- Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các nước thành viên
Các hiệp định:
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15 tháng 4 năm 1994. Bốn phụ lục đó bao gồm các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ trong thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ chế rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên, các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số vấn đề không đạt được đồng thuận tại diễn đàn chung. Các nước muốn trở thành thành viên của WTO phải ký kết và phê chuẩn hầu hết những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của WTO:
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994)
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)
Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS)
Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMS)
Hiệp định về Nông nghiệp (AoA)
Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC)
Hiệp định về Chống bán Phá giá
Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng
Hiệp định về Tự vệ
Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu
Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS)
Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT)
Hiệp định về Định giá Hải quan
Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển
Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO)
Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp
II. Những Cơ Hội Và Thách Thức Chính Trong Toàn Bộ Nền Kinh Tế Việt Nam Khi Gia Nhập WTO:
Ngày 07 tháng 11 năm 2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này.
1. Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau:
- Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
- Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách với các nước. Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
- Mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
- Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé.
Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập.
2. Những thách thức này gồm:
- Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không.
Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
- Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
- Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền. Như vậy, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta.
Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Với thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước gia nhập Tổ chức thương mại thế giới trước ta, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của chúng ta.
III. Cơ Hội Và Thách Thức Với Từng Nhóm Ngành:
Những cơ hội và thách thức đối với ngành BCVT và CNTT khi thực hiện các cam kết WTO
Hội nhập kinh tế quốc tế có những ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện đến sự phát triển của ngành BCVT và CNTT Việt Nam. Một chính sách và lộ trình hội nhập hợp lý là tiền đề vô cùng quan trọng để tận dụng được những lợi thế, giảm thiểu được những tác động tiêu cực của quá trình này và tạo điều kiện cho hội nhập gắn liền với việc phát triển bền vững.
1.1. Việc gia nhập WTO sẽ tạo ra cho ngành BCVT và CNTT những cơ hội phát triển:
- Là cơ hội để tiến hành đổi mới, thu hút vốn nước ngoài, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia ICT và qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế quốc dân. Tuy coi trọng phát huy nội lực, chúng ta vẫn cần quan tâm thích đáng đến đầu tư nước ngoài. Cũng như các cơ sở hạ tầng kinh tế quốc dân khác, cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia đòi hỏi vốn đầu tư lớn và có thời gian thu hồi vốn dài.Việc phát triển nhanh mạnh cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia sẽ giúp chúng ta nhanh chóng nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển.
- Là tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, chuyển giao công nghệ hiện đại đáp ứng sự thay đổi rất nhanh của công nghệ cũng như môi trường kinh doanh.
- Là tạo động lực đổi mới tổ chức sản xuất, kinh doanh (SXKD) theo hướng nâng cao sức cạnh tranh. Trên thị trường BCVT và CNTT hiện nay ở Việt Nam đã có sự cạnh tranh của nhiều DN trong nước tuy nhiên mức độ cạnh tranh còn thấp do hầu hết các DN hiện nay là các DN nhỏ và vừa. Việc gia nhập WTO chắc chắn sẽ làm cho cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn với sự tham gia của các tập đoàn, công ty lớn nước ngoài. Đây cũng là nguồn động lực mới để các DN trong nước tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp nâng cao hiệu quả SXKD nhằm đứng vững và phát triển.
- Là nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Thực tế cho thấy tác động của sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ, sự hội tụ của các ngành Điện tử - Tin học - Viễn thông cũng như những biến động theo chiều hướng toàn cầu hoá của thị trường BCVT và CNTT đã có những tác động tích cực trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
- Là cơ hội tốt để đào tạo nguồn nhân lực. Việc gia nhập WTO sẽ tăng cường các quan hệ đầu tư, thương mại với các nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển. Các hoạt động kinh tế trong nước sẽ gắn chặt hơn với thị trường thế giới. Đây chính là trường học thực tế, tuy khốc liệt nhưng là cần thiết để chúng ta đào tạo được một nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xây dựng và phát triển đất nước lâu dài.
- Là cơ hội để các DN BCVT và CNTT Việt Nam mở rộng hoạt động ra thị trường quốc tế.
- Là người tiêu dùng Việt Nam có thêm cơ hội hưởng thụ các thành tựu phát triển BCVT và CNTT. Cạnh tranh nếu được quản lý tốt, người tiêu dùng Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ những sản phẩm, dịch vụ giá rẻ và chất lượng cao.
1.2. Tuy nhiên khi thực hiện các cam kết WTO, ngành BCVT và CNTT Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với các thách thức, đó là:
- Là năng lực cạnh tranh của các DN trong nước còn yếu. Điều này thể hiện rất rõ qua yếu tố về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, trình độ đội ngũ cán bộ và năng suất lao động thấp. Quan tâm đến thị trường BCVT và CNTT Việt Nam là các nước công nghiệp phát triển có nhiều tiềm lực và kinh nghiệm cạnh tranh quốc tế cùng hệ thống pháp luật chặt chẽ để hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của các DN của họ đầu tư ra nước ngoài. - Là thị trường BCVT và CNTT trong tương lai có thể sẽ bị chia sẻ đáng kể khi các tập đoàn lớn nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Mặt khác nếu không có chính sách quản lý phù hợp sẽ dễ dẫn đến việc phát triển mất cân đối do các công ty nước ngoài sẽ tập trung đầu tư vào những lĩnh vực có lợi nhuận cao, như khu vực thành thị, khu công nghiệp,..trong khi vùng nông thôn và đặc biệt là vùng sâu, vùng xa lại không có ai làm. - Là với cơ chế đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ như hiện nay, các DN nhà nước khó có thể có và duy trì được được đội ngũ cán bộ có đủ năng lực để cạnh tranh với các DN nước ngoài.
- Là việc duy trì và phát triển các nhân tố ưu việt của chế độ xã hội nước ta; việc cân bằng ba lợi ích Nhà nước - DN - Người sử dụng trong môi trường cạnh tranh, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài là vấn đề rất mới và nhiều khó khăn cho việc hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế và xã hội, giữa kinh doanh và công ích, giữa phát triển và an toàn an ninh.
- Là việc điều chỉnh môi trường pháp lý vừa đảm bảo được các tiêu chí phát triển của nhà nước ta vừa phù hợp với yêu cầu của quốc tế là quá trình đòi hỏi mất nhiều thời gian thực hiện nhưng thực tế hiện nay lại là vấn đề hết
sức cấp bách.
Những tác động tích cực và tiêu cực, những thời cơ và thách thức của việc gia nhập WTO nêu trên còn được nhân thêm khi tính đến vai trò và ý nghĩa của BCVT và CNTT đối với nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá, vai trò và ý nghĩa của thông tin liên lạc đối với an ninh quốc phòng. Có thể thấy rõ điều này qua việc lĩnh vực dịch vụ BCVT và CNTT luôn nằm trong số ít những lĩnh vực chịu nhiều sức ép mở cửa nhất trong các cuộc đàm phán thương mại.
2. Những cơ hội và thách thức đối với ngành tài chính ngân hàng:
2.1. Cơ hội đối với hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam
Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhất là trên thị trường tài chính khu vực.
- Đối với ngân hàng nhà nước: hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để Ngân hàng nhà nước tăng cường phối hợp với các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính quốc tế và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống Ngân hàng thương mại và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các Ngân hàng thương mại trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Ngân hàng nhà nước và Chính phủ.
- Đối với các Tổ chức tín dụng: hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn, thị phần của Ngân hàng thương mại nhà nước có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng khác, nhất là tại các thành phố và khu đô thị lớn. Tuỳ theo thế mạnh của mỗi ngân hàng, sẽ xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả. Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính.
- Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng, các Ngân hàng thương mại trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. Vì thế, các ngân hàng cần tăng cường hợp tác để chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến, khai thác thị trường. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các ngân hàng trong nước sẽ tạo điều kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ.
- Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
2.2. Những thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam
- Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém.
+ Sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, chất lượng dịch vụ thấp. Qui trình quản trị trong các Tổ chức tín dụng Việt Nam chưa phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch thấp, chưa hình thành môi trường làm việc và văn hóa kinh doanh lành mạnh do vai trò và trách nhiệm của các vị trí công tác chưa rõ ràng, hệ thống thông tin quản lý và quản lý rủi ro chưa hiệu quả;
+ Hạ tầng công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán lạc hậu và có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, năng lực quản lý điều hành của Ngân hàng nhà nước và khả năng chống đỡ rủi ro của các Ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế;
+ Thể chế của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật về ngân hàng thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu cải cách và lộ trình hội nhập.
Vì thế, các Ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế.
- Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây nên.
3. Cơ hội và thách thức đối với ngành thương mại Việt Nam:
3.1. Về cơ hội:
Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu.
Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, các doanh nghiệp nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.
Các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước như Việt Nam.
- Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO của Việt Nam đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
- Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp thương mại nước ta. Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.
- Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Từ đó các doanh nghiệp thương mại nước ta có điều kiện để tận dụng các cơ hội kinh doanh mới trên thị trường trong nước và thị trường thế giới
3.2. Thách thức của việc gia nhập WTO:
- Sức ép cạnh tranh:
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn làm cho các doanh nghiệp thương mại nước ta cần phải có những thay đổi cho phù hợp không để các doanh nghiệp nước ngoài chèn ép. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến.
Riêng đối với khu vực Thương mại các doanh nghiệp của nước ta thường có nguồn vốn không lớn còn các doanh nghiệp nước ngoài có nguồn vốn lớn có trình độ quản lý tốt có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp.
- Sức ép về việc phải thay đổi cách quản lý, thay đổi tư duy trong cách thức bán hàng. Từ lâu các doanh nghiệp nước ta vẫn làm ăn buôn bán the cách thức cũ khi gia nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp thương mại nước ta phải thay đổi cả về cách thức quản lý cả cung cách bán hàng, cũng như cần phải thay đổi quy mô kinh doanh để đủ sức cạnh tranh trên cả “sân nhà lẫn sân khách”.
4. Cơ hội và thách thức đối với ngành công nghiệp xây dựng:
4.1. Việc gia nhập WTO sẽ đem lại những cơ hội sau:
- Vốn nước ngoài đầu tư vào nhiều sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh hơn, đầu tư tài sản cố định sẽ tăng, giá thành sức lao động khá thấp, nếu xuất khẩu lao động sang các nước đang phát triển sẽ có ưu thế cạnh tranh nhất định. Sau khi gia nhập WTO, chúng ta cho phép mở rộng thị trường, tạo không gian rộng lớn hơn cho ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước tiến vào thị trường quốc tế và xuất khẩu lao động.
- Khi nhận thầu công trình ở nước ta, các doanh nghiệp xây dựng nước ngoài do thiếu nguồn nhân lực, chưa thông thạo pháp luật Việt Nam nên nhất định phải hợp tác với các công ty xây dựng của ta, từ đó tạo cho các doanh nghiệp xây dựng chúng ta có cơ hội hợp tác hùn vốn với doanh nghiệp nước ngoài. Thông qua hùn vốn hợp tác, các công ty xây dựng Việt Nam được trực tiếp học hỏi kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật thi công tiên tiến của doanh nghiệp nước ngoài, thúc đẩy doanh nghiệp chúng ta nhanh chóng chuyển đổi cơ chế kinh doanh. Xét về toàn bộ là nâng cao được trình độ của các doanh nghiệp thi công xây dựng trong nước.
- Các doanh nghiệp nước ngoài nhận thầu công trình ở nước ta làm cho lực lượng lao động Việt Nam có thêm nhiều cơ hội nhận được việc làm. Đồng thời, trong điều kiện học tập kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật tiên tiến của doanh nghiệp nước ngoài, tố chất của công nhân sẽ được nâng cao.
4.2. Doanh nghiệp xây dựng Việt Nam gặp những thách thức gì sau khi gia nhập WTO
- Doanh nghiệp xây dựng nước ngoài đã quen thuộc với quy tắc cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, có kinh nghiệm quản lý phong phú và chế độ quản lý nội bộ doanh nghiệp chặt chẽ đối với những dự án có mức độ rủi ro lớn, quy mô đầu tư lớn, hàm lượng kỹ thuật cao, công trình phức tạp nên một số dự án tương đối lớn của đất nước như công trình xây dựng dầu khí, giao thông, năng lượng, kết cấu hạ tầng... được doanh nghiệp xây dựng nước ngoài nhận thầu và thắng thầu ở thị trường Việt Nam là điều khó tránh khỏi.
- Doanh nghiệp xây dựng nước ngoài có năng lực đầu tư mạnh, đa số có uy tín tốt trên thị trường quốc tế, có năng lực giúp đỡ chủ công trình về đầu tư hơn doanh nghiệp trong nước.
- Doanh nghiệp xây dựng nước ngoài có tiền vốn hùng hậu, đóng vai trò là công ty chủ thầu chính dự án trong các dự án BOT. Còn đại đa số doanh nghiệp xây dựng trong nước không đủ tiền vốn, thể chế quản lý lạc hậu thì chỉ giữ vai trò thầu phụ trong dự án BOT.
- Doanh nghiệp xây dựng nước ngoài có mối quan hệ hợp tác khá ổn định với một số chủ đầu tư trên thế giới chẳng hạn như các công ty chế tạo lớn và họ thường được chủ đầu tư chọn làm công ty nhận thầu chỉ định đặc biệt ở các dự án có liên quan tới bí mật kỹ thuật công nghệ sản xuất của chủ đầu tư nước ngoài.
- Doanh nghiệp xây dựng nước ngoài có ưu thế kỹ thuật cao rõ rệt ở nhiều lĩnh vực, cơ chế sử dụng nhân tài hợp lý, đãi ngộ tiền lương cao, thu hút được nhiều nhân tài trong nước. Điều này sẽ khiến cho các doanh nghiệp thi công xây dựng trong nước vốn đã thiếu nhân tài lại phải đứng trước thử thách; nạn cán bộ kỹ thuạt giỏi bỏ đi làm cho doanh nghiệp nước ngoài.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, việc mở cửa thị trường còn có một thời kỳ quá độ. Trong khoảng thời gian này, doanh nghiệp thi công trong nước phải khẩn trương nâng cao trình độ quản lý, tính chuyên nghiệp và trình độ trang bị kỹ thuật cao, cải thiện cơ cấu kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh về mọi mặt của doanh nghiệp để đón nhận những thách thức mới.
5. Cơ hội và thách thức đối với ngành nông nghiệp Việt Nam:
Việt Nam có gần 70% dân số sống nhờ nông nghiệp, 69% lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, khi gia nhập WTO, theo nhận định của nhiều người, nông nghiệp Việt Nam tuy có một số thuận lợi nhưng sẽ đối đầu với nhiều khó khăn. Và điều này sẽ ảnh hưởng không ít đến đời sống nông dân.
5.1. Cơ hội:
- Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng trong lĩnh vực nông nghiệp, đem vào công nghệ mới, tiên tiến để thúc đẩy ngành chế biến nông sản, nhờ đó giúp mở mang những vùng đất hoang hóa, sản xuất những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà những công ty này đang có thị trường, đưa hàng nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới nhiều hơn.
- Lao động nông nghiệp có thêm công ăn việc làm, người tiêu dùng sẽ mua được những sản phẩm nông nghiệp vừa rẻ vừa tốt hơn. Nông dân nghèo canh tác ở các vùng khó khăn sẽ có cơ may phát triển nhờ có những giống mới do các công ty quốc tế áp dụng công nghệ sinh học tạo ra.
- Khi Việt Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng như mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nông nghiệp và thủy sản, đồng thời chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (về lâu dài) giúp tránh được những vụ kiện vô lý như cá tra - cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ.
- Một khi ngành nông nghiệp đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp trở thành động lực chính thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo. Lúc đó, nông nghiệp là chìa khóa tạo ra sự ổn định và phát triển vùng nông thôn. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp có thêm nhiều cơ hội phát triển.
5.2. Thách thức
Nông nghiệp là ngành gặp khó khăn nhất khi gia nhập WTO. Việt Nam xuất khẩu nhất nhì thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, điều nhân… nhưng chỉ mới là xuất thô, hàm lượng chất xám trong nông sản xuất khẩu chưa nhiều.
- Giá thành cao, sản xuất manh mún là yếu tố khiến ngành nông nghiệp không thể đáp ứng những đơn đặt hàng với số lượng lớn. Các giống cây, con mới nhập vào nước ta bán rất đắt, bà con lại không thể tùy tiện nhân giống vì vấn đề bản quyền là những trở ngại lớn của ngành nông nghiệp.
Nhiều mặt hàng nông sản của ta hiện nay giá cao hơn nước ngoài, chất lượng không bảo đảm. Khả năng chuyển từ xuất khẩu thô lên chế biến với thương hiệu riêng để tăng giá trị gia tăng của các doanh nghiệp đòi hỏi cả một quá trình.
- Ngành chăn nuôi cơ bản vẫn là phân tán, trình độ thấp. Giá thành cao, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Hai mặt hàng chiến lược là thịt heo và bò, dù năng suất được cải thiện nhưng so với hệ thống chăn nuôi hiện đại, hiệu quả như Australia, New Zealand, trình độ vẫn còn thấp. Sản phẩm chăn nuôi trong nước còn phải đối mặt với việc trợ cấp của các nước giàu. Một con bò của EU được hưởng trợ cấp 2,62 USD/ ngày.
Khi Việt Nam mở cửa thị trường việc tăng các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu tác động đến giá các mặt hàng trong nước. Việc gia nhập WTO của Việt Nam thời gian tới sẽ ảnh hưởng nhiều đến việc phát triển chăn nuôi.
Nhưng điều đáng lo ngại là những hộ nuôi nhỏ lẻ ở Việt Nam còn chiếm một tỷ lệ khá lớn, sẽ khó cạnh tranh về giá cả nếu như không có những thay đổi căn bản về sản xuất.
Các doanh nghiệp kinh doanh và chế biến nông sản cũng gặp phải những thách thức rất lớn khi hội nhập thì sẽ có rất nhiều sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp của các nước, các doanh nghiệp kinh doanh và chế biến nước ta có sản phẩm chất lương chưa cao khó có khả năng cạnh tranh cả thị trường trong nước và quốc tế.
Vì vậy, để ngành nông nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, cần phải giải cho được bài toán lao động và vùng chuyên canh quy mô lớn. Ngoài bản thân ngành nông nghiệp, muốn giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự hỗ trợ của cả khu vực công nghiệp và dịch vụ. Cần xây dựng chương trình hỗ trợ cho khu vực nông nghiệp, nông thôn để giúp nông dân tăng cường khả năng cạnh tranh.
- Theo WTO, không có cách nào hiệu quả bằng những hỗ trợ dài hơi thông qua nghiên cứu và khuyến nông. Ngoài ra, có thể sử dụng nhiều biện pháp xúc tiến thương mại như thông qua các hiệp hội, hỗ trợ nông dân đối phó bất lợi trong thương mại. Trái với dự báo về sự suy sụp ngành nông nghiệp Trung Quốc khi gia nhập WTO, một số ngành nông sản của họ lại tăng mạnh xuất khẩu. Điều này là nhờ Trung Quốc tập trung đầu tư vào nông thôn và nông nghiệp, nhất là về kết cấu hạ tầng, vốn, kỹ thuật, bãi bỏ thuế và giảm phí nhằm tạo ra một nền kinh tế nông nghiệp có sức cạnh tranh mạnh.
6. Cơ hội và thách thức của ngành giao thông vận tải khi Việt Nam gia nhập WTO:
6.1. Cơ hội
Ngành GTVT là một ngành rất quan trọng cho việc phát triển đất nước, khi nước ta gia nhập WTO ngành GTVT có những cơ hội sau:
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp, thể chế về giao thông vận tải theo tiêu chí kinh tế thị trường khi gia nhập WTO nó thúc đẩy cho bộ giao thông tạo ra các chính sách, các quy định phù hợp với tiêu chuẩn cũng như phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
- Có được sự đầu tư xây dựng từ nước ngoài nên có điều kiện để phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, giữa kết cấu hạ tầng giao thông với vận tải và công nghiệp tạo thành mạng lưới giao thông vận tải hoàn chỉnh trên phạm vi cả nước, liên kết các phương thức vận tải đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hoá, hành khách tăng nhanh trong giai đoạn 2007- 2012 và các năm tiếp theo.
- Có điều kiện phát triển các chuyên ngành vận tải dựa trên lợi thế của từng ngành và nhu cầu vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu, lưu thông trong nước; kết hợp hài hòa giữa các phương thức vận tải; phát triển vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics.
- Có cơ hội học tập trình độ xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như có trình độ để quản lý các công trình GTVT. Các nước có công nghệ xây dựng phát triển, có kỹ thuật cao trong việc xây dựng các công trình lớn, là điều kiện để các kỹ sư nước ta học hỏi kinh nghiệm.
6.2. Thách thức
- Do cơ sở hạ tầng của nước ta còn kém chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội nên khi gia nhập WTO nó đòi hỏi phải được xây dựng để đáp ứng nhu cầu vận chuyển trong nước và quốc tế.
- Các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành GTVT hiện tại đang có đội ngũ ban quản trị và lực lượng lao động có trình độ tay nghề chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập.
- Các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực GTVT chưa có kinh nghiệm về kinh doanh quốc tế, khi tham gia hội nhập sẽ không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp của nước ngoài.
IV. Kết Luận:
Qua phân tích môt số ngành kinh tế của nước ta khi tham gia thị trường quốc tế cho thấy rằng cơ hội là rất lớn, tuy nhiên thách thức là rất lớn. Các
doanh nghiệp trong các ngành kinh tế của nước ta khi tham gia kinh doanh ở trong nước và khi tham gia kinh doanh trên trường quốc tế cần phải có chính sách thay đổi về tư duy trong quản trị, thay đổi về quy mô của các doanh nghiệp để có đủ năng lực để cạnh tranh với doanh nghiệp của các nước.
Những cơ hội chủ yếu của các doanh nghiệp là:
- Có thể tiếp cân được một thị trường kinh doanh rộng lớn
- Có đước một môi trường kinh doanh thông thoáng hơn
- Tránh được sự phân biệt đối xử khi tham gia kinh doanh quốc tế
- Có điều kiện để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài
- Nâng cao được năng lực cạnh tranh.
Những thách thức chủ yếu là:
Sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp không chỉ của trong nước mà còn cả các doanh nghiệp nước ngoài
Thách thức từ nguồn nhân lực của chính các doanh nghiệp đó là trình độ nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nước ta là rất thấp không đáp ứng được nhu cầu khi tham gia kinh doanh thị trường thế giới.
Mục Lục: Trang
I. Tìm hiểu về tổ chức WTO: 1 - 5
- Tổ chức Thương mại Thế giới 1
- Nguồn gốc 1
- Chức năng 1
- Đàm phán 2
- Giải quyết tranh chấp 2
- Cơ cấu tổ chức 2 - 4
- Các nguyên tắc 4
- Các hiệp định 5
II. Những cơ hội và thách thức chính trong toàn 6 - 9
bộ nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO:
1. Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, 6 - 7
nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau
2. Những thách thức này gồm 7 - 9
III. Cơ hội và thách thức với từng nhóm ngành: 9 - 19
Những cơ hội và thách thức đối với ngành
BCVT và CNTT khi thực hiện các cam kết WTO 9 - 12
Những cơ hội và thách thức đối với ngành tài 12 - 14
chính ngân hàng
Cơ hội và thách thức đối với ngành thương 14 - 16
mại Việt Nam:
Cơ hội và thách thức đối với ngành công 16 - 17
nghiệp xây dựng
Cơ hội và thách thức đối với ngành nông 17 - 19
nghiệp Việt Nam
Cơ hội và thách thức của ngành giao thông 19 - 20
vận tải khi Việt Nam gia nhập WTO
IV. Kết luận:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0155.doc