LỜI NÓI ĐẦU 6
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG .8
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG 8
1. Khái niệm thị trường và các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế 8
2. Nội dung của thâm nhập thị trường 19
3. Vai trò và sự cần thiết phải nâng cao khả năng thâm nhập thị trường quốc tế .20
II. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ. 21
1. Chỉ tiêu về thị phần. 21
2. Chi tiêu về uy tín thương hiệu 22
3. chỉ tiêu về tỷ trọng các phương thức thâm nhập. 22
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG 23
1. Môi trường kinh tế 23
2. Môi trường chính trị – luật pháp. 24
3. Môi trường văn hoá và con người. 25
4. Môi trường cạnh tranh. 27
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG THÂM NHẬP CỦA MẶT HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN VỪA QUA. 30
I. QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG EU CỦA MẶT HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM .30
1. Giai đoạn trước năm 1993. 30
2. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay .30
II. THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG THÂM NHẬP CỦA MẶT HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU .32
1. Các hình thức thâm nhập từ trước đến nay. 32
2. Các kênh phân phối và tiêu thụ. 36
3. Thực trạng của hoạt động thâm nhập. 38
4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thâm nhập thị trường EU của hàng dệt may Việt nam. 40
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG .43
1. Những kết quả đã đạt được. 43
2. Những điểm còn hạn chế. 43
3. Những nguyên nhân của những hạn chế trên .48
CHƯƠNG III. TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THÂM NHẬP HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU .50
I. TRIỂN VỌNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG THÂM NHẬP .50
1. Triển vọng thâm nhập .50
2. Phương hướng thâm nhập .54
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THÂM NHẬP HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU .55
1.Giải pháp từ phía Nhà nước 55
2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp 61
KẾT LUẬN 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
83 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam vào thị trường EU - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU.
Từ khi thực hiện Hiệp định hàng dệt may Việt nam-EU kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam đã tăng lên, thời gian đầu mức tăng rất cao (khoảng 22%/năm trong những năm từ 1993-2001). Đây là một kết quả khả quan trong quá trình thâm nhập thị trường EU, mặc dù chúng ta chưa có nhiều khả năng để thực hiện toàn bộ những hạn ngạch mà được EU dành cho. Trong số các mặt hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường EU thì áo jacket là chủng loại chiếm tỷ trọng nhiều nhất chiếm 50% kim ngạch hàng dệt may Việt nam trên thị trường này. Tuy nhiên, Việt nam vẫn chưa khai thác hết hạn ngạch được sử dụng. Hàng dệt may Việt nam mới chỉ tập chung vào sản xuất hàng dễ làm và tập chung vào những doanh nghiệp có tiềm lực sản xuất lớn, với những mặt hàng này hạn ngạch thường không đủ đáp ứng, vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới là ngành dệt may Việt nam phải có biện pháp bố trí lại các nguồn lực để khai thác tối đa nguồn hạn ngạch được giao với tất cả các chủng loại hàng, nhất là trong giai đoạn này khi hạn ngạch đã được được tăng.
-Xin và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU theo sự phân bổ và quản lý hạn ngạch của nhà nước.
Việc phân bổ và quản lý hạn ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường EU trong những năm gần đây.
Đầu năm 2004 Việt nam đã nhận được văn bản chính thức từ phía EU về việc bổ sung hạn ngạch cho Việt nam, đây sẽ là cơ hội cho Việt nam có thể tăng hạn ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường EU trong năm nay.
- Tìm kiếm các hợp đồng xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may sang thị trường EU.
Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thâm nhập thị trường EU của hàng dệt may Việt nam.
4.1 Thị phần hàng dệt may của Việt nam ở các nước thành viên trong liên minh EU.
Hiện nay thành viên trong liên minh châu Âu mà các doanh nghiệp dệt may Việt nam xuât khẩu hàng may mặc lớn nhất là thị trường Đức, thị trường Đức chiếm 46.9% thị phần so với tổng thị phần trong liên minh EU của hàng dệt may Việt nam. Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu trong liên minh Châu Âu được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 4: Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu hàng dệt may trong liên minh EU.
stt
Các nước thành viên EU
Tỷ trọng thị trường
1
Đức
46,9%
2
Pháp
10,8%
3
Hà lan
10,3%
4
Anh
9,4%
5
Bỉ
6,1%
6
Tây Ban Nha
5,1%
7
Italia
4,4%
8
Đan Mạch
2,0%
9
Thuỵ Điển
1,9%
10
áo
1,5%
11
Phần Lan
0,6%
12
Ai len
0,4Q%
13
Luxembourg
0,3%
14
Hylap
0,2%
15
Bồ Đào Nha
0,1%
(Theo số liệu của tổng cục hải quan)
Nhìn vào bảng chỉ tiêu trên ta thấy hiện nay Việt nam đã có hàng hoá dệt may xuất khẩu trên tất cẩ các nước thuộc liên minh Châu Âu. Tuy nhiên chỉ tập trung vào một số thị trường như thị trường như Đức, Pháp, Hà lan, Tây Ban Nha. Hàng dệt may Việt nam xuất hiện trên thị trường EU và luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu các mặt hàng của Việt nam xuất khẩu vào thị trường này, chứng tỏ hàng Việt nam đang dần được biết đến trên thị trường quốc tế. Đây có thể coi là thành công bước đầu trong thâm nhập thị trường EU. Tăng cường thâm nhập vào thị trường EU là mục tiêu của ngành dệt may trong giai đoạn tới.
4.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam từ 1996 đến năm 2003.
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam từ 1996 đến năm 2003.
stt
Năm
Tổng KNXK hàng dệt may
Kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU
Tỷ trọng kim ngạch
1
1996
1150
222,9
19.4
2
1997
1503
366
24.4
3
1998
1448
503.7
34.8
4
1999
1747
555.05
31.8
5
2000
1892
609.1
32.2
6
2001
2079
616.93
30
7
2002
3351
557
10.8
8
2003
3563
553
10.6
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may việt nam. đã không ngừng tăng nhưng năm đầu của quá trình thâm nhập nhưng gần đây cho thấy có những biểu hiện của một sự tăng trưởng không bền vững. Đây chính là một hạn chế trong việc thâm nhập thị trường của ngành dệt may Việt nam do phụ thuộc nhiều vào nước trung gian, và chưa tự chủ trong vấn đề nguyên phụ liệu.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG.
1. Những kết quả đã đạt được.
- Hàng dệt may Việt nam đã xuất hiện và được sự chấp nhận trên thị trường EU. Việt nam lần lượt ký các hiệp định xuất khẩu hàng dệt may với EU trong những năm gần đây.
- EU đã trở thành thị trường truyền thống của hàng dệt may Việt nam. Đã có thời gian thị trường EU là thị trưỡng xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may Việt nam.
- Việt nam đã được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EU.
- Tuy hàng dệt may Việt nam thâm nhập chủ yếu bằng phương thức gia công xuất khẩu, song phương thức này cũng phù hợp với Việt nam trong giai đoạn đầu thâm nhập thị trường EU vì đây là phương thức dễ tiến hành và ít rủi ro nên đã cho phép Việt nam có thể tăng nhanh được kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn đầu.
Có đươc những kết quả trên phải kể đến sự cố gắng của chính phủ, các tổ chức xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp kinh doanh ngành dệt may Việt nam. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may, như hỗ trợ vay vốn đầu tư sản xuất , hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại …Công tác điều hành xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường EU đã được cải cách theo hướng một cửa, xoá bỏ cơ chế “xin cho” trong cấp phép xuất khẩu tự động cho nhiều mặt hàng dệt may. Các doanh nghiệp đã cố gắng phát huy cao năng lực sản xuất của mình và phối hơp cùng với các tổ chức xúc tiến thương mại để tìm kiếm hợp đồng xuất khẩu nghiên cứu thị trường EU.
2. Những điểm còn hạn chế.
Phải thừa nhận một điều là một số sản phẩm dệt may Việt nam chưa đáp ứng được yêu cầu chặt chẽ khi xuất khẩu sang EU. Đồng thời, các doanh nghiệp dệt may Việt nam chưa làm tốt công tác marketing và thiếu vốn để mua nguyên phụ liệu cần thiết, do đó chưa lập được quan hệ đối tác trực tiếp với nhà nhập khẩu mà phải xuất khẩu vào EU qua trung gian. Từ kết quả thâm nhập cho thấy việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường EU chưa thực sự vững chắc, bị phụ thuộc quá mức vào hạn ngạch và việc tìm kiếm các hợp đồng xuất khẩu của các công ty, còn bị phụ thuộc vào đối tác quá nhiều, chưa tạo ra được một sự tăng trưởng kim ngạch bền vững, còn biến động qua các năm. Điều này đã cho thấy là các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam chuẩn bị chưa đầy đủ về năng lực tổ chức sản xuất và năng lực tổ chức thị trường, chưa cân đối được thị trường dẫn đến sự phụ thuộc quá mức vào thị trường.
Mặt hàng dệt may của Việt nam còn thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, chưa ký được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp với các bạn hàng EU mà phải thông qua trung gian nên trên 70% hàng dệt may xuất khẩu sang EU phải gia công qua nước thứ ba, điều này dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, bên cạnh đó thì số lượng hàng hoá mà EU dành cho Việt nam còn thấp so với các nước trong khu vực. Ví dụ như chỉ bằng 5% của Trung Quốc và bằng 10 % của các nước ASEAN. Đồng thời khi vào được thị trường EU thì hàng dệt may của Việt nam lại gặp rất nhiều những rào cản phi thuế quan, như là số hạn ngạch bị hạn chế thành quá nhiều nhóm, các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao Việt nam còn rất nhiều hạn chế trong việc sản xuất những mặt hàng này, dẫn đến những khó khăn trong vấn đề xuất khẩu hàng may mặc của Việt nam sang thị trường EU.
Hình thức thâm nhập chủ yếu là gia công do vậy các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt nam gặp hạn chế trong việc chủ động khai thác thông tin trực tiếp từ EU, các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt nam không tiếp xúc trực tiếp được với khách hàng nước ngoài nên thiếu khả năng cạnh tranh trên thị trường EU. Hiệu quả xuất khẩu thực tế rất thấp, bị động trong vấn đề thâm nhập sang thị trường EU. Phụ thuộc hoàn toàn vào các hợp đồng xuất khẩu từ phía trung gian.
- Việt nam còn nằm ngoài WTO. WTO là tổ chức thương mại thế giới lớn nhất hiện nay, chi phối trên 90% khối lượng buôn bán trên thế giới. Gia nhập tổ chức WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi nước mở rộng thương mại cả về chiều rộng và chiều sâu. đồng thời mỗi quốc gia thành viên có cơ hội bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong khuôn khổ các cuộc đàm phán đa biên của WTO. Hiệp định về hàng dệt may ATC là một trong những thành tựu chủ yếu của vòng đàm phán Urugoay. Trong khuôn khổ WTO hiệp định này được coi là thời kỳ quá độ hay quá trình chuyển đổi để đạt tự do hoá thương mại trong quá trình dệt may. ATC liên quan đến các hạn chế đối với sản phẩm dệt may, kể cả những hạn chế mang tính đa phương, song phương và các biện pháp khác có ảnh hưởng tương tự. Theo ATC sau 10 năm nước nhập khẩu hàng dệt may áp dụng hạn ngạch với các nước đang phát triển (1995¸2004), sau đó hạn ngạch sẽ được cắt bỏ. Bắt đầu từ năm 2005 hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may sẽ không áp dụng với những nước là thành viên của WTO. Như vậy nếu Việt Nam nằm ngoài WTO sẽ gặp phải những bất lợi sau:
+ Việt Nam tiếp tục bị hạn chế về hạn ngạch theo các hiệp định song phương, kể cả sau năm 2004 và phải chịu thuế suất nhập khẩu cao hơn ở một số thị trường quan trọng, đây là công cụ để tạo lợi thế cho nước này và hạn chế nước khác trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may. Thậm chí với thị trường EU họ còn coi hạn ngạch như một công cụ buộc các nước xuất khẩu phải đàm phán nhượng bộ để nhượng bộ, mở rộng thị trường cho thị trường hàng hoá của họ.
+ Những thuận lợi mà các nước thành viên của WTO có được sẽ làm tăng những bất lợi của Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Sau năm 2004, chế độ kiểm soát bằng hạn ngạch bị xoá bỏ với các nước là thành viên của WTO. Thay vào đó, các nước phát triển để hạn chế nhập khẩu sẽ tăng cường áp dụng các hàng rào phi thuế quan như các yêu cầu về nhãn mác, môi trường, điều kiện lao động, các yêu cầu về chống phá giá…do không kiểm soát được về hạn ngạch, nguồn cung cấp tự do, nhà nhập khẩu sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn nguồn cung cấp. Do đó cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Các nhà xuất khẩu trước đây có lợi thế về hạn ngạch tới đây sẽ mất thị trường nếu không nhanh chóng cải tiến để thích nghi với nhu cầu trên.
+ Thách thức đặt ra cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sang thị truờng EU chính là: đến cuối năm 2004, EU chấm dứt thực hiện giai đoạn hai của quá trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch với hàng dệt may của nước là thành viên của WTO. Từ nay đến hết năm 2004, nếu Việt Nam chưa trở thành thành viên của WTO thì khả năng sẽ bị áp dụng hạn ngạch. Trong khi các nước lại tự do xuất khẩu. Như vậy, sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam sẽ bị giảm một cách tương đối và tuyệt đối so với các nước khác, khách hàng sẽ chuyển sang thị trường khác tốt hơn thị trường Việt Nam để mua hàng, cơ chế áp dụng hạn ngạch đối với các nước đồng nghĩa với việc đảm bảo cho mỗi nước đều có thị phần, khi xoá bỏ cơ chế hạn ngạch, các nước sẽ phải cạnh tranh gay gắt để giành giật thị trường, cạnh tranh giữa các nước chủ yếu bằng việc hạ giá thành sản phẩm, điều này có nguy cơ dẫn đến phản ứng dây chuyền Dumping.
+ Tuy nhiên, trở thành thành viên WTO chỉ tạo ra những điều kiện thuận lợi chứ không có nghĩa là Việt Nam đã thực hiện hoá được những cơ hội kinh doanh trên thị trường quốc tế do tư cách là thành viên của WTO mang lại. Suy cho cùng để tăng cường khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU thì nâng cao năng lực nội sinh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của các sản phẩm dệt may Việt Nam mới là điều quan trọng nhất.
- Hàng dệt may của Việt nam bị áp dụng hạn ngạch do vậy không khuyến khích các doanh nghiệp chủ động thâm nhập thị trường EU.
- Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU trong những năm gần đây liên tục giảm, thị phần bị thu hẹp, khả năng thâm nhập bị hạn chế. Nếu như từ năm 1993 đến năm 2001 kim ngạch của Việt nam liên tục tăng cao thì bắt đầu từ năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang thị trường này bắt đầu trững lại và giảm, điều này chứng tỏ thị trường ngày cành đòi hỏi khắt khe hơn trong khi đó các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam không đáp ứng được. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng kim ngạch xuất khẩu giảm trong những năm gần đây là ở một số mặt hàng chủ lực, cả doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc cùng làm để xuất khẩu sang thị trường EU, hàng nội khó cạnh tranh nổi để giành được hợp đồng từ đối tác. hơn nữa, việc đấu thầu hạn ngạch đã dẫn đến tình trạng ế quota, một số doanh nghiệp không có hợp đồng xuất khẩu nhưng không trả lại hạn ngạch để bộ thương mại giao cho đơn vị khác làm. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng sự sụt giảm trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam trong những năm vừa qua là khó tránh khỏi, đó là xu hướng chung của các thị trường truyền thống đã bị mất do sự nổi lên của những thị trường mới với sức hấp dẫn lôi cuốn hơn, đồng thời về phía chủ quan mà xét thì phải cho rằng các doanh nghiệp dệt may Việt nam cũng như ngành dệt may Việt nam phải kịp thời rút ra những bài học trong kinh doanh quốc tế cũng như chiến lược thâm nhập thị trường quốc tế khi mà ngay cả thị trường truyền thống cũng bị mất dần thay vào đó là thị trường mới nổi với nhiều cơ hội nhưng cũng đầy rủi ro như thị trường dệt may Mỹ.
Hiện nay sự mất cân đối về thị trường xuất khẩu hàng dệt may còn do các doanh nghiệp trong nước vẫn phụ thuộc quá nhiều vào các đơn hàng gia công cho nước ngoài. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam hàng gia công vẫn chiếm khoảng 80%, trong đó hàng sản xuất bằng nguyên phụ liệu trong nước mới chỉ chiếm khoẳng 20%. Vì vậy mục tiêu của ngành dệt may trong thời gian tới là không chỉ tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm bằng việc tự sản xuất những nguyên phụ liệu trong nước. Cụ thể sẽ phấn đấu tăng tỷ lệ xuất khẩu sản xuất bằng phụ liệu trong nước nên 30% vào năm 2005 và 50 ¸ 60% vào năm 2010.
3. Những nguyên nhân của những hạn chế trên.
3.1. Nguyên nhân khách quan:
EU là thị trường “khó tính” coi trọng chất lượng , mẫu mốt, thương hiệu và xuất xứ hàng hoá, cùng với những rào cản phi thuế quan tại thị trường EU đã dẫn đến những khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt nam.
Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ. Trước đây có hiệp định về hàng may mặc, việc buôn bán các sản phẩm dệt may được điều chỉnh theo những thể chế thương mại đặc biệt mà nhờ đó, phần lớn các nước nhập khẩu thiết bị các hạn chế số lượng để hạn chế hàng dệt may nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với những hàng hoá công nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng nước nhập khẩu còn đề ra những điều kiện đối với hàng dệt may nhập khẩu. Tất cả những hàng rào đó ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới trong thời gian qua.
Việc quản lý, phân bổ hạn ngạch của nhà nước chưa khuyên khích được sự chủ động sáng tạo thâm nhập thị trường EU của các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam.
Nhà nước chưa có sự quản lý xắp xếp các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may một cách có hiệu quả.
Sự hấp dẫn của thị trường Mỹ đã lôi kéo sự chú ý của các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam, khiến thị trường EU chưa thực sự được chú trọng.
Sự cạnh tranh từ sản phẩm dệt may các nuớc trong khu vực trên thị trường EU, đặc biệt là từ hàng dệt may của Trung Quốc làm cho thị phần hàng dệt may đã bị thu hẹp trong hai năm vừa qua.
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Phía Việt nam chưa tự chủ được về nguyên liệu sản xuất hàng dệt may xuất khẩu mà phải nhập từ nước ngoài dẫn tới bị động và phụ thuộc vào nhà cung cấp nguyên liệu phụ, do vậy mà phải tiến hành thâm nhập thị trường EU theo phương thức gia công xuất khẩu.
Các doanh nghiệp kinh doanh dệt may Việt nam chưa chú trọng công tác nghiên cứu thị trường, còn thụ động trong việc thâm nhập thị trường.
Các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam chưa chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã và tạo lập thương hiệu nổi tiếng trên thị trường EU.
Các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may mới chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt, chưa quan tâm đến lợi ích lâu dài trong việc khai thác thị trường.
CHƯƠNG III. TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THÂM NHẬP HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU.
TRIỂN VỌNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG THÂM NHẬP.
Triển vọng thâm nhập.
EU là thị trường rộng lớn, đa dạng có nhiều triển vọng cho hàng xuất khẩu của Việt nam, nhưng đây cũng là một thị trường “sang trọng” và “khó tính”. Chinh phục thị trường này là một điều không dễ, nhất là khi Việt nam phải cạnh tranh với Trung Quốc, một cường quốc về các mặt hàng xuất khẩu. Kể từ khi quan hệ thương mại Việt nam và cộng đồng Châu Âu được bình thường hoá vào ngày 22-10-1990, quan hệ thương mại Việt nam- EU không ngừng phát triển. Tiến trình đó được thúc đẩy thêm bởi việc ký kết các hiệp định thương mại các hiệp định thương mại song phương như hiệp định thương mại giữa Việt nam-EU vào ngày 17-7-1999 đã mở ra một chương mới trong quan hệ thương mại giữa nước ta và EU. Ngày nay Việt nam và EU đã trở thành những bạn hàng không thể thiếu được của nhau, mới đây EU đã công nhận và cho phép đưa hàng Việt nam lên ngang hàng các nước các nước kinh tế thị trường trong việc điều tra và thi hành các biện pháp chống phá giá.
EU vừa mới kết nạp thêm thành viên cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế EU sẽ tạo ra một tiềm năng to lớn cho hàng dệt may Việt nam thâm nhập thị trường này trong những năm tới đây. Các thành Viên mới kết lạp của EU là những nước đã có quan hệ thương mại truyền thống trong lĩnh vực dệt may của Việt nam như là Hung ga ri, Ba lan, Bun ga ri vì vậy mà chắc chắn Việt nam sẽ gặp nhiều thuận lợi trong chiến lược thâm nhập thị trường EU. EU ngày càng trở thành một đối tác quan trọng của Việt nam trong các lĩnh vực hợp tác thương mại nhất là về lĩnh vực xuất khẩu. Tuy kim ngạch chưa lớn nhưng tốc độ tăng trưởng và phát triển tương đối cao. Đây là thị trường tiềm năng với hơn 470 triệu dân, mức sống cao và và nhu cầu tiêu thụ lớn song cũng là thị trường rất cao về chất lượng cũng như mẫu mã. Chính vì thế các doanh nghiệp kinh doanh dệt may Việt nam đang phải cố gắng để đáp ứng các quy định về tiêu chuẩn xuất xứ cũng như nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm để có thể thâm nhập và đứng vững trên thị trường này. Ngành dệt may là ngành có tiềm năng xuất khẩu lớn thứ hai trong số các mặt hàng công nghệ chế biến trong nước. EU là thị trường dệt may hạn ngạch lớn nhất của Việt nam, trên 40% hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam là xuất khẩu sang thị trường EU, trong khi Nhật bản là thị trường dệt may phi hạn ngạch. Khi ký hợp đồng hàng dệt may Việt nam- EU, EU đã dành cho Việt nam mức thuế quan phổ cập ưu đãi GSP nhằm tạo điều kiện cho hàng dệt may có xuất xứ từ Việt nam, từ chỗ bị cấm vận đã xuất khẩu vào thị thị trường EU với tôc độ tăng nhanh. Ngày nay quan hệ thương mại Việt nam –EU đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với những chuyển biến về kinh tế của hai phía . Triển vọng của mối quan hệ này phụ thuộc đường nối chính sách và những định hướng mang tính dài hạn trong chính sách thị trường nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam thâm nhập thị trường EU cũng như tạo sự lôi cuốn các doanh nghiệp EU vào thị trường Việt nam. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng cường hoạt động thông tin về thị trường EU, áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ, khuyến thích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất nhập khẩu với EU và đặc biệt khuyến khích các mặt hàng dệt may có lợi thế thế trên thị trường EU là việc làm cần thiết để duy trì thị trường giàu tiềm năng này. Bên cạnh đó cần thúc đẩy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam sản xuất hàng xuất khẩu đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nhằm vượt rào cản kỹ thuật của thị trường EU.
Hiện nay Việt nam đang đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất dệt may, nâng cấp các cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành dệt may Việt nam. Do đó trong những năm tới hàng dệt may Việt nam sẽ được tăng cường được sự cạnh tranh về giá thành và chất lượng. Đồng thời, với việc quy hoạch các vùng sản xuất nguyên phụ liệu là tiền đề quan trọng cho việc thâm nhập trực tiếp vào thị trường EU.
Trong những năm tới Việt nam sẽ đàm phán để gia nhập WTO đây sẽ là một thuận lợi cho Việt nam nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam trên thị trường EU. Hiện nay Trung Quốc đang là thành viên vủa WTO đây là yếu tố không thuận lợi trong các cố gắng cạnh tranh thị phần của Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc trên thị trường này rất lớn, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt nam trên thị trường này chỉ bằng 5% của Trung Quốc. Một khó khăn lớn nữa cho xuất khẩu của ngành dệt may Việt nam đang gặp phải là cho đến nay thiết bị sản xuất hàng dệt may của Việt nam còn lạc hậu xa so với Trung Quốc, các doanh nghiệp sản xuất với quy mô còn nhỏ nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả không cao. Thị trường dệt may EU đã mở ra đối với Việt nam, nhưng liệu hàng dệt may Việt nam có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này hay không trong khi Trung Quốc là một quốc gia có ngành dệt may phát triển đã gia nhập WTO và hàng dệt may của Trung Quốc cũng được hưởng chế độ ưu đãi khi vào thị trường EU. Những năm tới đây EU sẽ xoá bỏ hạn ngạch đối với các nước thành viên WTO do vậy nếu Việt nam còn nằm ngoài WTO thì đây sẽ là một khó khăn lớn cho việc thâm nhập hàng dệt may sang thị trường này.
Trong tương lai không xa thì EU sẽ bỏ chế độ hạn ngạch, do vậy ngành dệt may Việt nam phải đẩy mạnh công tác chuẩn bị cho việc thâm nhập trực tiếp vào thị trường này khi mà các ưu đãi của EU đối với dệt may Việt nam không còn nữa, đồng thời chiến lược buôn bán nội khu vực giữa các nước EU, và xu hướng đầu tư mở rộng sang các nước Đông Âu cũng là một trong những khó khăn trong việc thâm nhập thị trường này trong tương lai đối với ngành dệt may Việt nam.
Các nhà chức trách nhận định trong năm 2004 này Việt nam có thể đạt kim ngạch xuất khẩu lên đạt 800 đến 850 triệu USD , tăng khoảng30% so với năm 2003 vì Việt nam vừa đạt được thoả thuận về gia tăng hạn ngạch cho hàng dệt may Việt nam đối với tất cả các mặt hàng dệt may nhạy cảm (cát nóng) từ 50%-57%. Kết quả của lần đàm phán này là một bước đột phá dể Việt nam tăng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng hàngdệt may của Việt nam khi vào thị trường EU phải cạnh tranh quyết liệt với hàng hàng dệt may Trung Quốc, một cường quốc về xuất khẩu dệt may và lại đang có lợi thế là thành viên của WTO và được EU bãi bỏ hạn ngạch. Thêm vào đó hàng dệt may Việt nam vẫn chưa có sức cạnh tranh do phải gánh các chi phí phụ trợ, như chi phí giao nhận, chi phí lưu kho trong nước quá cao so với các nước xuất khẩu hàng dệt may trong khu vực.
Tình hình thương mại hàng dệt may trên thế giới từnăm 2005 sẽ có nhiều diễn biến phức tạp. điểm đáng chú ý nhất là hạn ngạch sẽ được bãi bỏ hoàn toàn giữa các ngành kinh tế của thành viên tổ chức thương mại thế giới (WTO). điều này có nghĩa là các nước đang được hưởng hạn ngạch như Việt Nam nếu như chưa gia nhập tổ chức WTO vào năm 2005 sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh của mình. Vì vậy, năm 2004 là năm chuẩn bị hết sức quan trọng và cần thiết đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Sau năm 2004 lợi thế lao động của Việt Nam sẽ không còn, năng suất thấp sẽ khiến hàng hoá của nước ta giảm sức cạnh tranh. Cùng với xu hướng suất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc tiếp tục tăng mạnh, xuất khẩu các mặt hàng này của nhiều nước sẽ bị sức ép trong đó có cả Việt Nam.
Trong năm 2004 bộ thương mại sẽ tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán để tăng hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may, sẽ tạo ra cơ chế hỗ trợ cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp hàng dệt may vào thị trường EU tăng cường xuất khẩu các mặt hàng không bị quy định hạn ngạch, các mặt hàng mới, xây dựng các quy trình quảng bá hình ảnh hàng dệt may Việt Nam thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại và qua thương vụ Việt Nam tại nước ngoàI
Phương hướng thâm nhập.
Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/2001 của Thủ Tướng Chính Phủ về chiến lược phát triển ngành dệt may Việt nam tới năm 2010
Để thực hiện “chiến lược tăng tốc” của ngành dệt may đưa kim ngạch xuất khẩu của ngành nên 10 tỷ USD vào năm 2010 cơ cấu quản lý và phân bổ hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang EU hiện nay đang được cải tiến theo chiều hướng thuận tiện hơn tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may.
Hiệp định về buôn bán hàng dệt may với EU được thực hiện trong những năm qua luôn là một trong những động lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành dệt Việt nam, với nỗ lực về nguồn hạn ngạch, giảm bớt các thủ tục và chi phí cho doanh nghiệp để đẩy mạnh xuất khẩu của sự kết hợp thực hiện giữa ba bộ: bộ Thương Mại và Bộ công nghiệp, bộ kế hoạch đầu tư đã lần lượt ký các hiệp định chính thức và hiệp định điều chỉnh đã góp phần vào nâng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường EU, các phương thức thưởng xuất khẩu, đấu thầu được mở rộng, việc cấp hạn ngạch theo yêu cầu trước đây cũng như cấp giấy phép tự động cho một số chủng loại cũng được tiến hành một cách thuận hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu, hiện nay nhà nước đang ra quy chế về hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU với những nội dung mới hơn nhằm phát triển và khuyến khích những mặt hàng mà Việt nam có thế mạnh như các mặt hàng dệt may gồm T. shirt, áo len, quần Âu, áo sơ mi, áo khoác, áo dệt kim, bộ đồ thể thao…
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, chính phủ đã đầu tư vào những khu vực chuyên sản xuất những nguyên phụ liệu cho ngành dệt may để tiến tới xuất khẩu trực tiếp sang thị trường EU.
Tăng cường tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công xuất khẩu qua nước thứ ba..
- Từng buớc nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, tạo tiền đề cho việc tiến tới xuất khẩu trực tiếp.
Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường EU thông qua việc đầu tư mở rộng quy mô và tăng cường đầu tư kỹ thuật cho ngành dệt may Việt nam.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THÂM NHẬP HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU.
Giải pháp từ phía Nhà nước.
Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại.
Đầu tư là một giải pháp quan trọng nhất để phát triển bất cứ ngành sản xuất kinh doanh nào. Việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt nam đòi hỏi phải có sự đầu tư đồng bộ từ khâu nguyên liệu, sản xuất, tìm kiếm thị trường và xuất khẩu hàng hoá. Do đó vấn đề đầu tư cành trở nên quan trọng. Quan điểm chung của đầu tư cho ngành dệt may là phải tính trên phạm vi toàn ngành trong đó tập trung cho ngành dệt và cho việc cung cấp phụ liệu cho ngành dệt may. Đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị. Về cải thiện môi trường đầu tư: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 của nhà nước ta đã chỉ rõ “Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giảm mạnh tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty nắm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thị trường thế giới”.
Cải thiện môi trường đầu tư phải tính đến vấn đề hoàn thiện các văn bản luật và dưới luật. Thường xuyên có sự điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hay chưa rõ ràng. Với luật thương mại, cần bổ sung rõ ràng về các biện pháp quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu. Luật đầu tư nước ngoài cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia về đầu tư trong lĩnh vực thương mại. Luật khuyến khích đầu tư trong nước phải quy định rõ các ngành nghề khuyến khích.
Thu hút các nguồn vốn đầu tư là biện pháp cần thiết với các doanh nghiệp dệt may Việt nam hiện nay để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Doanh nghiệp và nhà nước có thể khai thác nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.
Với chính sách đầu tư trong nước Nhà nước nên tập trung đầu tư vào một số các doanh nghiệp nhà nước có năng lực, có khách hàng, làm ăn có hiệu quả. Tiến hành cổ phần hoá, tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Cổ phần hoá doanh nghiệp trước hết là các doanh nghiệp dệt may, không chỉ là biện pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ trong nước mà còn là giảipháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để đẩy mạnh cổ phần hoá ngành may, cần giải quyết một số vướng mắc làm chậm tiến trình này như bất cập trong đánh giá lại tài sản, trong đối xử với các đối tượng mua cổ phần.
Với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, cần có chính sách khuyến khích đầu tư dưới mọi hình thức như là các xí nghiệp liên doanh cổ phần hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tập trung vào các mặt hàng mới phức tạp mà doanh nghiệp chưa có khả năng sản xuất, ưu tiên dành hạn ngạch cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch.
Thu hút sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, tăng cường khai thác quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của liên minh Châu Âu để phát triển dệt may. Đặc biệt cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường thế giới cho “Chương trình sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện nay các doanh nghiệp đang rất khó khăn trong vấn đề tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt- nhuộm theo các tiêu chuẩn ISO 9000 do vậy việc tranh thủ sự giúp đỡ nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế về môi trường là hướng đi tốt cho ngành dệt may Việt nam trong việc giải quyết khó khăn này.
Việc cải thiện môi trường thương mại cần phải bắt đầu từ việc cải cách các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục về hải quan. Cần áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ thông tin vào việc kê khai và tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu. Đồng thời nâng cao cơ sở hạ tầng cũng là biện pháp thu hút vốn đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Việc cải thiện môi trường thươngmại là một việc làm hết sức thận trọng cần phải có sự phối hợp của chính phủ, bộ và các cơ quan liên ngành phối hợp một cách đồng bộ.
1.2. Chính sách về nguyên liệu sản xuất và phát triển sản phẩm hàng dệt may xuất khẩu.
Nhà nước cần có chính sách quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu phụ cho ngành dệt may. Trên thực tế trong những năm vừa qua ngành dệt may Việt nam chưa chủ động cung cấp đủ nguyên liệu phụ mà phải nhập từ nước ngoài, do vậy phụ thuộc nhiều vào nguồn cung ứng nguyên liệu ngoài nước. Đây sẽ là khó khăn lớn trong việc tiến tới thâm nhập trực tiếp thị trường này nếu như nguồn nguyên liệu phụ không đáp ứng đủ. Bên cạnh đó thì nguyên liệu không được cung cấp đầy đủ có thể sẽ dẫn đến sự vi phạm hợp đồng xuất khẩu nếu như màu sắc, chất liệu của nguyên liệu không đáp ứng được hợp đồng xuất khẩu buộc phải thay thế bằng những sản phẩm tương đương
Tổ chức tốt hệ thống thông tin.
Thành lập trung tâm thông tin về ngành dệt may với các chức năng thu nhập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp về xu thế mới, cập nhật các kiểu dáng, chất liệu, mẫu mốt, thời trang mới, kỹ thuật công nghệ mới đồng thời dự báo tình hình thị trường dệt may trên thế giới, tổ chức hội thảo định kỳ xuất bản các ấn phẩm chuyên môn giới thiệu những sản phẩm mới, tăng cường dịch vụ tư vấn. Đồng thời phải tổ chức trung tâm thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may để có các biện pháp kịp thời như điều chỉnh cơ cấu, cân đối giữa các mặt hàng, giữa các yếu tố sản xuất để tạo nên sự đồng bộ trong sản xuất kinh doanh và tận dụng tối đa những cơ hội kinh doanh.
Quản lý và phân bổ hạn ngạch một cách có hiệu quả.
Nguyên tắc phân bổ hạn ngạch là không phân biệt đối xử, phân đúng đối tượng, công bằng minh bạch. Hạn ngạch được phân bổ tính trên căn cứ trên số liệu thực hiện năm trước. Phân bổ hạn ngạch cho doanh nghiệp có năng lực sản xuất thực tế của từng doanh nghiệp, có ưu tiên cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước, cân đối theo vùng, miền ….
Sử dụng việc thu phí khi thực hiện hạn ngạch nhằm tạo ra quỹ cho việc xúc tiến thương mại dệt may sang thị trường EU cũng là một việc làm cần thiết.
Cần phải có những điều khoản về chống gian lận thương mại thật nghiêm ngặt, cần thành lập tổ giám sát thực thi hiệp định, gồm đại diện liên bộ, hải quan, Hiệp hội dệt may việt nam, phòng thương mại và công nghiệp Việt nam sở thương mại các địa phương có liên quan để kịp thời uốn nắn và sửa chữa những phát sinh trong quá trình thực hiện hạn ngạch dệt may, xử lý nghiêm các doanh nghiệp gian lận thương mại.
Phát triển các tr gung tâm thời trang trên thị trường trong và ngoài nước.
Mục tiêu của phát triển của các trung tâm thời trang Việt nam là nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng may Việt nam, giúp cho thị trường thế giới biết đến sản phẩm may mang nhãn hiệu Việt nam, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt nam nhờ đó có thể chủ động trong phát triển kinh doanh tăng cường vòng quay của vốn lưu động.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp may công nghiệp và các cơ sở sản xuất hàng dệt may nhỏ đã hình thành và phát triển các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các hình thức ký gửi hàng dệt may tại các đại lý nhằm giới thiệu với khách hàng nước ngoài về sản phẩm dệt may Việt nam. Tuy nhiên, về cơ cấu mặt hàng còn thiếu chưa đa dạng về chủng loại và chất lượng chưa cao và chưa chuyên môn hoá các cửa hiệu chuyên biệt nổi tiếng theo nhóm sản phẩm lên chưa thu hút được khác nước ngoài. Vì vậy mà cần thiết phải hình thành lên những trung tâm thời trang lớn có uy tín trong và ngoài nước. Các trung tâm này cần phải phát triển ở những khu du lịch hay các thành phố lớn của đất nước thì mới có hiệu quả . EU là thị trường tương đối khó tính, đây lại là nơi hội tụ của nhiều kinh đô thời trang thế giới, thu hút sự quan tâm của nhiều khách hàng và người tiêu dùng trên thị trường EU. Với các sản phẩm ít tên tuổi các doanh nghiệp kinh doanh dệt may Việt nam thâm nhập trực tiếp sẽ là vấn đề cực kỳ khó khăn nếu không có các trung tâm thời trang trên thị trường EU . Thành lập các trung tâm thời trang để tập trung các doanh nghiệp, giới thiệu sản phẩm dệt may đến với khách hàng EU sẽ tạo được những kết quả quan trọng trong quá trình thâm nhập thị trường này. Trên cơ sở nghiên cứu môi trường kinh doanh dệt may của Việt nam ở các nước EU cho thấy để thúc đẩy thâm nhập trực tiếp hàng dệt may sang thị trường EU thì vai trò của các trung tâm này sẽ có vai trò quyết định.
Hỗ trợ và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp.
Nhà nước cần hỗ trợ về nghiên cứu dự báo tình hình thị trường EU, cung cấp thông tin một cách chính xác, tạo cơ hội cho các mặt hàng dệt may Việt nam được mang ra giới thiệu trên thị trường nước ngoài nói chung và trên EU nói riêng, Nhà nước cần phát huy hơn nữa chức năng,hiệu quả hoạt động của phòng thương mại công nghiệp Việt nam, các phường tham tán thương mại của Việt nam ở nước ngoài. Chính phủ nên nhanh chóng thành lập cục xúc tiến xúc tiến thương mai, đây là nơi chuyên cung cấp thông tin về thị trường thế giới trong đó có thị trường EU. Cơ quan này sẽ đóng vai trò cung cấp thông tin môi giới thương mại cho cả hai bên tham gia hoạt động quốc tế
Hỗ trợ và đào tạo nguồn nhân lực.
Để hàng hoá sản xuất ra đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng, ngoài việc trang bị máy móc thiết bị phải có những cán bộ, và những công nhân có trình độ chuyên môn cao. Hiện nay, một thực tế là các nhà dệt may Việt nam đang rất thiếu những nhà thiết kế giỏi, những công nhân có tay nghề cao, dẫn tới tình trạng hàng dệt may sản xuất ra chất lượng kém, không đồng đều, kiểu dáng đơn điệu, thiếu tính sáng tạo vì thế mà sức cạnh tranh quốc tế của hàng Việt nam rất thấp. Để khắc phục được tình trạng này nhà nước cần chú trọng các chương trình đào tạo chuyên sâu cho cán bộ kỹ thuật.
Trong ngành dệt may nhất là may gia công yếu tố lao động đóng góp vào giá thành sản phẩm. Do đó, việc đạo tạo nâng cao chất lưọng sản phẩm là việc làm rất cần thiết. Công tác đào tạo cần phải có sự phối hợp giữa nhà nước và các doanh nghiệp, đào tạo những chuyên môn mà các doanh nghiệp có nhu cầu, đáp ứng được nhu cầu mà công việc kinh doanh đòi hỏi. Việc nâng cao năng lực của cán bộ, công nhân là việc làm rất cần thiết và phải bắt đầu từ năng lực chuyên môn.
Đào tạo đội ngũ công nhân thạo về kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm nâng cao năng suất lao động và đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Nâng cao năng lực của cán bộ kỹ thuật để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng tốt thị hiếu của người tiêu dùng đồng thời cũng nâng cao năng lực của cán bộ lãnh đạo để đưa sản phẩm thâm nhập vào thị trường EU.
Đào tạo đội ngũ chuyên môn thiết kế, tạo mẫu thời trang cho phù hợp với thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng trên thị trường EU. Đồng thời tạo lên nét đặc trưng riêng cho ngành dệt may Việt nam để từ đó giúp ngành dệt may Việt nam có được chỗ đứng vững trên thị trường EU.
Tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo nhằm nâng cao kiến thức kinh doanh và trình độ quản lý cho các cán bộ quản lý và chỉ đạo kinh doanh ở các doanh nghiệp. Mở các lớp thuyết trình giới thiệu các thông tin mới nhất về chính sách, chế độ các thể lệ kinh doanh thương mại cũng như nghiệp vụ xuất nhập khẩu như marketing, vận tải, bao bì, bảo hiểm ..Tổ chức các buổi hội thảo trao đổi học hỏi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp dệt may Việt nam với nhau và với giới kinh doanh trên thị trường EU.
Bên cạnh các khoá huấn luyện đào tạo chuyên môn còn phải lưu ý đến vấn đề nâng cao năng lực ngoại ngữ vì trình độ ngoại ngữ góp phần vào vận hành máy móc thiết bị hiện đại, tiếp thu những kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới,và đặc biệt là phục vụ cho việc thâm nhập thị trường quốc tế như là đàm phán giao dịch, thúc tiến xuất khẩu.
1.7. Hỗ trợ của nhà nước trong công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam thâm nhập thị trường EU thì nhà nước cần đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc đàm phán ký kết các hiệp định, thoả thuận thương mại song phương và đa phương nhằm tạo ra tiền đề, hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt nam trong việc thúc tiến và tiếp cận thị trường, tìm đối tác. Nhà nước cần nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc xúc tiến thương mại, tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc khảo sát thị trường nghiên cứu thị trường. Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho các trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam tại các nước thành viên EU hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp như là tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh may mặc Việt nam hay việt kiều tại EU thuê diện tích tại trung tâm để giới thiệu sản phẩm, thiết lập quan hệ bạn hàng… Bên cạnh đó nhà nước cần đẩy mạnh công tác khuyến khích xuất khẩu dưới hình thức thưởng xuất khẩu, thưởng hạn ngạch cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may có tỷ lệ nội địa hoá cao, các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp xuất khẩu đạt được kim nghach xuất khẩu lớn.
Giải pháp từ phía các doanh nghiệp.
Trong những năm tới ngoài lỗ lực của chính phủ tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển, các doanh nghiệp dệt may cần có những giải pháp sau:
2.1. Nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt nam
Các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt mayViệt nam cần quan tâm vào đầu tư chiều sâu, nâng cao, cải tiến chất lượng, đa dạng hoá, hạ giá thành sản phẩm, vượt rào cản kỹ thuật của thị trường EU từ đó đáp ứng yêu cầu thị trường và có thể cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc và các nước ASEAN trên thị trường này khi EU bãi bỏ việc sử dụng hạn ngạch. Chất lượng hàng hoá là yếu tố quan trọng quyết định khả năng mở rộng xuất khẩu của doanh nghiệp Việt nam vào thị trường EU hay bất cứ thị trường nào khác. Dựa vào phân tích đặc điểm thị trường EU, thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU ta thấy rằng để hàng dệt may Việt nam thâm nhập và đứng vững trên thị trường này các doanh nghiệp kinh doanh dệt may Việt nam cần tập trung giải quyết các vấn như là nâng cao chất lượng sản phẩm, thường xuyên sáng tạo và cập nhật các mẫu mốt thời trang để đáp ứng thị hiếu khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm so với giá bán, thực hiện tốt các dịch vụ bán hàng, tránh vi phạm hợp đồng, cung cấp hàng ổn định để giữ uy tín đối với khách hàng và hàng phải phù hợp với quy định nhập khẩu của thị trường EU.
2.2. Chú ý về mẫu mốt, tạo lập thương hiệu riêng, thời trang là một trong những yếu tố quyết định tiêu thụ sản phẩm trên thị trường này.
Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng.
Nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với tiêu thụ sản phẩm. Người tiêu dùng thường căn cứ vào nhãn mác để đánh giá chất lượng sản phẩm. Tên tuổi của các hãng nổi tiếng trên thế giới đều gắn liền với nhãn mác sản phẩm. Tập quán và thói quen tiêu dùng là một yếu tố quyết định nguyên liệu và chủng loại sản phẩm.
Yếu tố thời vụ liên quan chặt chẽ tới thời cơ bán hàng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những nhà xuất khẩu trong vấn đề giao hàng đúng thời hạn.
2.3. Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
Cần khẳng định rằng trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng may xuất khẩu là chủ yếu, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ “nội lực” để xuất khẩu trực tiếp. Trong điều kiện hiện nay, khi khâu tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, thiết kế... và đặc biệt là phối hợp các công đoạn này để cho ra đời một sản phẩm có sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam còn yếu kém thì gia công vẫn là biện pháp cần thiết và hiệu quả.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực vừa qua đã làm giảm lợi thế tương đối của ngành dệt may Việt Nam về giá gia công rẻ và theo dự tính, lợi thế này chỉ được khôi phục sau năm 2000 - 2001. Vì vậy, để giữ được bạn hàng, thị trường... các doanh nghiệp dệt may cần có biện pháp nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tiết kiệm chi phí nhằm duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm.
Gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng biệt, giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng thời hạn. Đồng thời, thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ của các nước khác và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp.
2.4. Tăng cường khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư.
Thách thức đối với ngành dệt may nước ta trong tương lai là không nhỏ. Chiến lược đầu tư đúng đắn, có hiệu quả là cần thiết, một là theo hướng đầu tư thêm thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh. Hai là, tăng cường đầu tư chiều sâu, chỉ giữ lại những sản phẩm truyền thống có khả năng hoà nhập. Để tạo nguồn vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần có những giải pháp cụ thể sau:
- Tăng cường vốn tự có, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao hơn nữa năng suất lao động, giảm giá thành, tăng nguồn vốn lưu động.
- Huy động nguồn vốn từ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp với lãi suất hợp lý.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu như chúng ta muốn có một ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này với các ưu thế về công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ mở đường cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới, phức tạp mà các doanh nghiệp hiện có chưa sản xuất được. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện nay các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong việc tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt - nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức và các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, Canada, Niudilân... mà các nước xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực như ấn Độ, NêPan đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm tốt cho Việt Nam.
2.5. Tăng cườmg hoạt động xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp dệt may Việt nam sang thị trường EU.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt nam và việc hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam cần chú ý đến năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến sang thị trường EU. Các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm các đối tác, tăng cường việc chào hàng thông qua việc tham gia các hội chợ triển lãm và các hội thảo chuyên đề.
Tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU trực tiếp hoặc thông qua Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt nam, Cục Xúc Tiến Thương Mại, Phường Tham Tán Thương Mại tại các nước EU để cập nhật được các chính sách thương mại của các nước EU, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng trên thị trường, sự biến động cung cầu và giá cả trên thị trường EU…
Các doanh nghiệp kinh doanh dệt may Việt nam cần ứng dụng các nghiệp vụ Marketing để phát hiện những biến đổi về thị hiếu, nhu cầu tiêu dùng, tăng cường đầu tư cho các mặt hàng đem lại lợi nhuận cao, tổ chức các dịch vụ trước và sau khi bán hàng để duy trì, củng cố uy tín của hàng hoá Việt nam vơi khách hàng tiêu dùng trong liên minh EU.
2.6. Đầu tư đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực.
Các doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra trình độ cán bộ để có phương hướng đào tạo thích hợp, đối với cán bộ có năng lực trình độ kém thì phải đào tạo lại, với cán bộ trẻ có năng lực cần phải đào tạo chuyên sâu. Các doanh nghiệp phải luôn nâng cao trình độ cán bộ, phát huy tính năng động sáng tạo nhạt bén trong nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp cần có khoản kinh phí cho vấn đề đào tạo và đào tạo lại cán bộ để đáp ứng cho nhu cầu của đơn vị mình về nguồn nhân lực, cần tích cực cử người đi theo các chương trình đào tạo cán bộ của nhà nước phục vụ cho việc thâm nhập thị trường EU.
Để đẩy mạnh hơn nữa quan hệ thương mại dệt may với EU, Việt nam cần phải tiếp tục nghiên cứu để nắm chắc đặc điểm và tính chất của thị trường EU, đặc biệt là về chính sách thương mại, các quy định về quản lý xuất nhập khẩu, về thị hiếu và tập quán tiêu dùng, yêu cầu về mẫu mã hàng hoá, tính thời trang và chất lượng sản phẩm dệt may, phải thấy hết được những thuận lợi và những khó khăn khi thâm nhập thị trường EU. Từ đó lựa chọn các biện pháp thâm nhập thích hợp vào từng thị trường cụ thể của khối liên minh này. Mặt khác cần có những chính sách và giải pháp thích hợp mạnh mẽ của cả nhà nước và phía doanh nghiệp cho việc thâm nhập thị trường này.
Trên đây là một số giải pháp thúc đẩy thâm nhập hàng dệt may sang thị trường EU. Cùng với những nỗ lực của chính phủ và ngành dệt may Việt nam cần có những cố gắng để khẳng định dần vị trí của mình trên thị trường EU trong những năm tới.
KẾT LUẬN
Thâm nhập thị trường quốc tế là một vấn đề quan trọng và đầy khó khăn thử thách đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may nói riêng. Để thâm nhập thị trường quốc tế thì buộc các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh phải được trang bị kỹ lưỡng về thị trường và thâm nhập thị trường. Những kiến thức về thị trường và thâm nhập thị trường được đúc rút thực tiễn quá trình thâm nhập thị trường quốc tế đặt ra. Trong khuôn khổ của bài viết này em đã trình bày được những vấn đề mang tính chất cơ bản về khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU. Dựa vào phần lý luận về thị trường và thâm nhập thị trường quốc tế mà em đưa ra ở chương I, em tiến hành phân tích để tìm ra những kết quả đã đạt được, những mặt còn hạn chế để từ đó em đề xuất những giải pháp cho việc thâm nhập hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU trong giai đoan hiện nay. Cụ thể là về phần lý luận em đã nêu được khái quát về những vấn đề lý luận về thị trường và thâm nhập thị trường, các nhân tố tác động đến hoạt động thâm nhập thị trường, và sự cần thiết phải thâm nhập thị trường đối với các doanh nghiệp. Sang phần thực trạng em đã nêu đươc thực trạng thâm nhập hàng dệt may sang thị trường EU. Bằng việc tổng kết số liệu liên quan đến tiến trình thâm nhập hàng dệt may vào thị trường EU từ năm 1996 đến năm 2003, từ đó em tiến hành phân tích đánh giá và làm rõ những kết quả đã đạt được, những hạn chế, những nguyên nhân của những kết quả và những hạn chế trên để đi vào chương 3 em tiến hành đánh giá triển vọng và đưa ra được một số giải pháp thâm nhập hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU trong thời gian tới. Những giải pháp được em chia lam 2 nhóm đó là giải pháp từ phía nhà nước và giải pháp từ phía các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do dung lượng bài nghiên cứu còn ít, do vậy em chỉ nghiên cứu vấn đề một cách cô đọng ngắn gọn, em chưa đi sâu vào nghiên cứu chi tiết, cùng với những vấn đề mang tính cấp bách hiện tại, mà không đi sâu vào nghiên cứu dự báo cho xu thế tương lai khi mà EU vừa mới kết lạp thêm thành viên trong năm 2004. Chắc chắn sẽ có nhiều những cơ hội và thách thức hơn cho Việt nam trong thời gian tới. Em hy vọng những vấn đề chi tiết hơn và những dự báo mang tính chuẩn xác hơn sẽ được tiếp tục nghiên cứu ở các đề tài lớn hơn.
Cuối cùng, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và đặc biệt là thầy giáo Thạc Sĩ: Tạ Văn Lợi cùng tập thể cán bộ công nhân viên của Viện Kinh Tế Thế Giới đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế và kinh doanh quốc tế khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế trường đại học kinh tế quốc dân – Hà Nội.
2. Giáo trình nghiệp vụ ngoại thương trường ngoại thương -Hà Nội.
3. Một số kiến nghị về XNK hiện nay - Nguyễn Thị Hường
Kinh tế và dự báo số 8 năm 1997
4. XK hàng dệt may Việt nam sang Châu âu. Thực trạnh và triển vọng - Trần Lê Giang
Nghiên cứu Châu Âu số 5 năm 1999
5. Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt nam - Kinh tế và phát triển số 41 năm 2003
6. Hàng dệt may XKViệt nam thực trạng và giải pháp
Kinh tế và phát triển số 33 năm 2003
7. Khả năng cạnh tranh của ngành dệt trong bối cảnh tự do hoá
thương mại - Nguyễn Thanh Hà
NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP.
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1878.doc