Sản xuất luân là nền tảng, là yếu tố đầu tiên quyết định sự phảt triển của một chế độ xã hội mà trong đó thì máy móc thiết bị bao giờ cũng giữ vai trò xương cốt, là chỉ tiêu quan trọng nhất. Vì vậy nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị là một yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp xây lắp trong giai đoạn hiện nay.
Trước những đòi hỏi cấp bách và sự thay đổi nhanh chóng của thị trường xây lắp, công ty Tây Hồ luôn ý thức được rằng muốn đứng vững và phát triển được trên thị trường này cần phải có thực lực về con người và thiết bị. Bời vậy từ khi thành lập đến nay công ty đã luân quan tâm đến phát triển năng lực thi công cơ giới để có thể đảm nhận được các công trình trọng điểm cả trong và ngoài quân đội. Trong những năm qua, công ty Tây Hồ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị, làm tốt công tác quản lý, sử dụng máy móc thiết bị để đảm bảo cho hoạt động sản xuất được cân đối, nhịp nhàng, liên tục và đạt hiệu quả cao. Nhưng nhìn chung do nhiều lý do khác nhau mà hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn còn nhiều vướng mắc, công tác quản lý sử dụng máy móc thiết bị còn nhiều tồn tại cần được giải quyết.
Với ý nghĩa thực tế đó, từ ban giám đốc đến toàn thể cán bộ công nhân viện trong công ty đều thấy được việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị sẽ là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới. Đặc biệt là trong những năm tới khi mà nước ta vừa ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, đây không chỉ là vận hội lớn để công ty mở rộng qui mô cả về lượng lẫn chất mà nó còn đem đến những thách thức không nhỏ. Chỉ có những doanh nghiệp có đủ bản lĩnh, năng lực thật sự mới có thể đững vững, công ty Tây Hồ cũng không nằm ngoài xu thế ấy, chính vì thế để có thể tồn tại và phát triển thì một trong những vấn để cần quan tâm đến đầu tiên là công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị sao cho có hiệu quả nhất, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cũng như sức cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Chuyên để tốt nghiệp này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc và khoa học những vấn đề liên quan đến nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị của công ty Tây Hồ, một công ty kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp, với mục tiêu tìm ra được một giải pháp tối ưu thoả mãn yêu cầu trên. Tuy nhiên do khả năng còn hạn chế và lần đầu mới nghiên cứu một vấn để lớn như thế này nên chắc rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn nhằm giúp chuYên đề của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
63 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng máy móc thiết bị thi công cơ giới ở công ty Tây Hồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ử lý các sai phạm kỹ thuật cho từng công trình và nghiên cứu áp dụng các kỹ thuật xây dựng mới. Quản lý quá trình bảo dưỡng sửa chữa, sử dụng vận hành máy móc thiết bị theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật.
- Phòng tài chính kế toán: Có nhiệm vụ quản lý công tác tài chính, kế toán, thống kê và hách toán trong nội bộ công ty. Quản lý bằng tiền mọi hoạt động của công ty trên cơ sở những qui định, qui phạm của công ty, Bộ quốc phòng và Nhà nước. Đảm bảo các nguồn vốn chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trả lương, thưởng, bảo hiểm và các chế độ thanh quyết toán, thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
7. Đặc điểm về vốn.
Công ty Tây Hồ là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động dựa trên nguồn vốn do nhà nước cấp và hàng năm được nhà nước và Bộ quốc phòng xét duyệt cấp thêm vốn kinh doanh. Bên cạnh đó công ty còn là một doanh nghiệp quân đội có cổ phần tại Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội nên công ty có thể vay vốn tại đây với mức lãi suất ưu đãi. Do vậy việc huy động vốn hiện nay của công ty chủ yếu từ ba nguồn chính là Ngân sách nhà nước cấp, vốn vay và vốn tự bổ sung của công ty.
Để đảm bảo giá trị doanh thu hàng năm hiện nay phải đạt 97 tỷ đồng trong khi đó vốn chủ sở hữu của công ty chỉ có 11,2 tỷ là một việc hết sức khó khăn. Bên cạnh đó, hoạt động xây lắp là một hoạt động kinh tế đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn và có khả năng quay vòng nhanh. Do vậy hàng năm, sô nợ phải tra hay vốn vay của công ty có thể lên đến 74 tỷ đồng. Mặt khác do tính chất đặc thù của hoạt động xây lắp đòi hỏi phải có sự đầu tư mới máy móc thiết bị một cách thường xuyên, liêm tục, nên công ty chỉ có thể thực hiện hoạt động này trên cơ sở nguồn vốn vay. Điều này đã gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đổi mới máy móc thiết bị của công ty do mất tính chủ động.
Tóm lại trong những năm qua, công ty đã tích cực quan hệ với các cơ quan tài chính cấp trên, các ngân hàng trong và ngoài quân đội, tổ chức bộ máy kế toán hợp lý, hách toán đầy đủ, chính xác mọi hiện tượng kinh tế phát sinh, phản ánh đúng mọi kết quả sản xuất kinh doanh. Đảm bảo thanh toán một cách đầy đủ các khoản nợ đến hạn của công ty, do vậy hoạt động vay vốn của công ty diễn ra tương đối thuận lợi, vốn sản xuất kinh doanh của công ty luôn được bảo toàn, đảm bảo cho sản xuất phát triển năm sau cao hơn năm trước. Nguồn vốn giành cho đầu tư đổi mới máy móc thiết bị không ngừng gia tăng.
III. Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của công ty Tây Hồ.
1. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm gần đây.
Theo kết quả ở bảng biểu ở trang bên, ta có thể thấy rằng trong những năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty diễn ra tương đối thuận lợi các chỉ tiêu cơ ban như tổng số vốn, doanh thu, lợi nhuận….
2. Phân tích thực trạng quản lý sử dụng máy móc thiết bị của công ty.
Bảng cơ cấu máy móc thiết bị.
TT
Loại thiết bị
Nước sản xuất
Số lượng ( cái )
Giá trị còn lại
I
Trang thiết bị các loại
%
1
Máy đào một gầu bánh xích
- Dung tích: 1 m3
2,5 m3
-Xúc bánh lốp 2,8 m3
- Máy đào HITACHI
Nga
Nga
Nhật
3
3
4
80
80
90
2
Trạm trộn Asphan 30 tấn/h
VN 1995
4
75
3
Đầm bánh hơi tự hành 17,55 tấn
Nga
2
80
4
Cần trục bánh hơi:
Sức nâng 18 tấn
sức nâng 1,5 tấn
Nga
TQ
3
2
80
90
5
Máy trộn bê tông 300 – 800 (lít)
TQ
4
90
6
Máy phun vữa xi măng 1,5 m3/h
Đức
3
80
7
Trạm trộn bê tông
TQ
2
75
8
Máy sàng, rửa đá sỏi 11 m3/h
TQ
4
75
9
Máy phát điện lưu động 25 KW
TQ
2
80
10
Máy phun sơn 400 m3/h
Đức
4
90
11
Máy ép cọc lực ép 40-60 tấn
Nga
3
90
12
Máy khoan cắt bê tông
Nhật
3
80
13
Máy giải bê tông asfan
Đài loan
2
75
14
Hệ thống trạm trộn asfan
VN 1996
2
80
15
Máy phun nhựa đường 190CV
Đài Loan
4
70
16
Đầm cọc MIKASA
Nhật
6
70
17
Đầm rùi
Đức
4
75
18
Vận thăng
Nga
5
80
19
Máy hàn điện, hơi
Nga
9
70
20
Máy lu
TQ
4
75
21
Máy bơm nước
Nga, TQ
12
75
22
Máy mài cầm tay
Đức
20
85
23
Máy trắc địa
TQ
15
70
24
Máy cắt thép
Nhật
12
85
25
Máy cắt gạch
Nhật
8
80
26
Xe nâng 3 – 5 tấn
Thụy điển
6
75
27
Máy khoan tự hành IN23- IN27
TQ
4
75
28
Máy san tự hành
Nhật
4
80
II
Phương tiện vận tải
1
Xe tự đổ
Đức
8
80
2
Ô tô vận chuyển bê tông
TQ
6
75
3
Ô tô tưới nước
TQ
6
70
4
Xe ủi
Nga
5
75
5
Xe Kamas tự đổ 10 – 12 tấn
Nga
12
80
2.1. Phân tích hệ thống tổ chức quản lý thi công của công ty.
Sơ đồ 05 hệ thống tổ chức quản lý thiết bị.
CÔNG NHÂN VẬN HÀNG MÁY
TỔ KỸ THUẬT
ĐỘI KỸ THUẬT
XƯỞNG CƠ KHÍ LẮP MÁY
PHÒNG KỸ THUẬT
PHÒNG KẾ HOẠCH TỔNG HỢP
Hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị của công ty Tây Hồ được chia thành 4 cấp cơ bản như trên, trong đó ở cấp công ty, phòng kỹ thuật đóng vai trò chính trong việc quản lý máy móc thiết bị về các mặt kỹ thuật, thời gian hoạt động và sửa chữa. Phòng kế hoạch có nhiệm vụ lập kế hoạch và quản lý việc mua sắm, đổi mới công nghệ, trên cơ sở đó phòng kế hoách cũng thực hiện việc quản lý tiến độ huy động công suất máy móc thiết bị vào sản xuất và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của phòng kỹ thuật và xưởng cơ khí lắp máy. Xưởng cơ khí lắp máy có vai trò quản lý và thực hiện toàn bộ hoạt động sửa chữa máy móc thiết bị của toàn công ty. Ở cấp xí nghiệp và cấp đội thì hoạt động quản lý máy móc thiết bị được thực hiện bởi các đội vá các tổ kỹ thuật trên cơ sở theo dõi hoạt động thực tế và sự phản ánh của công nhân trực tiếp vận hành máy. Thực tế cho thấy, trong những năm qua số lượng máy móc thiết bị của công ty có được chưa nhiều, chủ yếu là các thiết bị thông thường nhỏ lẻ và nhìn chung công ty vẫn chưa thực hiện tốt việc quản lý hệ thống máy móc thiết bị, do vậy mà thời gian huy động công suất máy móc còn thấp và hiệu quả sử dụng chưa cao. Điều này là do hệ thống máy móc thiết bị của doanh nghiệp xây dựng có sự khác biệt so với các doanh nghiệp về qui mô và mức độ sử dụng nên các doanh nghiệp xây dựng thường gặp nhiều khó khăn trong vấn đề quản lý máy móc thiết bị. Bên cạnh đó thì hoạt động quản lý của công ty mặc dù đã có sự phân cấp nhưng do tính chất và đặc thù của ngành xây dựng cần phải có nhiều loại máy móc thiết bị khác nhau, thường xuyên có sự di chuyển theo địa điểm công trình nên đôi khi trình tự quản lý và sử dụng không được đảm bảo một cách chính xác nhất.
2.2. Phân tích tình hình quản lý sử dụng về mặt số lượng máy móc thiết bị.
Khác với các doanh nghiệp công nghiệp thông thường, hệ thống máy móc thiết bị của các doanh nghiệp xây lắp thường mang tính chất riêng lẻ, mỗi máy có những tính năng, tác dụng khác nhau và được sử dụng vào những công việc khác nhau. Tuỳ theo từng loại công trình riềng biệt mà số lượng cũng như mức độ đóng góp của chúng sẽ được thể hiện một cách cụ thể tương ứng.
Do hệ thống máy móc thiết bị hiện nay của công ty còn nhiều hạn chế, đa phần là các loại máy móc thiết bị thông thường nên khi thi công các công trình chúng đều được huy động để phục vụ thi công. Đối với các loại máy móc thiết bị đặc chủng thì chỉ được huy động đối với những công trình hay công việc đặc biệt, song nhìn chung thì toàn bộ số lượng máy móc thiết bị của công ty đều được đưa vào hoạt động thường xuyên.
Năm 2004 số lượng máy móc thiết bị của công ty đã có sự thay đổi đáng kể do công ty đã đầu tư thêm một số loại máy móc thiết bị cần thiết. Bên cạnh đó, do hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có chiều hướng phát triển tốt nên khả năng huy động máy móc thiết bị vào thi công cũng tăng dần lên.
Bảng 07: Sử dụng số lượng máy móc thiết bị.
TT
Danh mục thiết bị
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng số máy hiện có
Số máy hoạt động thực tế
%
Tổng số máy hiện có
Số máy hoạt động thực tế
%
Tổng số máy hiện có
Số máy hoạt động thực tế
%
1
Xe Kamzben
6
6
100
10
10
100
12
12
100
2
Máy ủi
3
2
67
3
3
100
4
4
100
3
Máy xúc
1
1
100
2
2
100
3
2
100
4
Máy lu 6 - 12 tấn
10
7
70
2
2
100
2
2
100
5
Xe lu
4
4
100
6
6
100
6
Máy khoan
15
12
80
24
20
83
7
Máy bơm nước
5
5
100
8
6
75
9
7
77
8
Máy mài
4
3
75
6
5
83
6
6
100
9
Máy trộn bê tong
12
12
100
20
18
90
24
24
100
10
Đầm dùi
30
28
93
34
33
97
40
39
98
11
Giàn giáo thép ( bộ )
600
550
92
700
670
95
800
760
95
12
Máy phát điện 25KW
2
2
100
3
2
67
4
4
100
13
Cần trục
1
1
100
1
1
100
2
2
100
14
Máy hàn
6
5
83
6
6
100
8
8
100
Trung bình
92
95
95
2.3. Phân tích tình hình quản lý, sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian.
Hiện nay cũng như bao doanh nghiệp khác, công ty rất quan tâm đến vấn đề nâng cao hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Bởi trong những năm qua hệ thống này chưa thực sự hoạt động đúng với khả năng của chúng, mức độ đóng góp cho các công trình còn hạn chế. Bên cạnh đó yêu cầu cấp thiết của ngành xây dựng đòi hỏi phải có sự đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị phục vụ thi công nhưng với khả năng làm việc như hiện nay thì vấn đề thu hồi vốn đầu tư là rất khó khăn. Để minh hoạ thực tế vấn đề này ta có thể hình dung thời gian hoạt động của máy móc thiết bị trong công ty như sau.
+ Năm 2002: 25 ngày / tháng
+ Năm 2003: 23 ngày / tháng
+ Năm 2004: 21 ngày / tháng
+ Năm 2005: 22 ngày / tháng
(Với thời gian làm việc thực tế 10,7 giờ / ngày)
Một nguyên nhân cũng khồng kém phần quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian huy động máy móc thiết bị của công ty đó là vị trí địa lý, điều kiện thời tiết khí hậu và thổ nhưỡng của mỗi công trình, những yếu tổ này có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ, chất lượng của công trình cũng như là khả năng làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Chúng chính là đặc điểm riêng của hoạt động sản xuất xây lắp. Thật vậy, vào quí I và quí IV hàng năm thì đây là thời điểm nhu cầu xây dựng là cao nhất do điều kiện về thời tiết và thời điểm nên số lượng công trình cũng như thời gian hoạt động của máy móc thiết bị bao giờ cũng nhiều hơn hai quí còn lại, có thể thấy rõ hơn điều này qua bảng số liệu thực tế sau.
Thời gian hoạt động thực tế của máy móc thiết bị (ngày/ tháng)
Năm 2005
Quí I
Quí II
Quí III
Quí IV
25
20
19
24
2.4. Phân tích tình hình sử dụng công suất máy móc thiết bị.
Như trên đã phân tích, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm vừa qua diễn ra theo chiều hướng tương đối thuận lợi. Nhưng bên cạnh đó thì công tác quản lý sử dụng máy móc thiết bị đang gặp phải những khó khăn nhất định. Hệ thống máy móc thiết bị chủ yếu hiện nay chỉ được huy động vào sản xuất ở mức độ trung bình, thời gian nằm chờ, đợi việc lâu gây nên sự lãng phí trong hoạt động sản xuất và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Mặc dù công ty đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao năng lực hoạt động của máy móc thiết bị như tiến hành hoạt động cho thuê, nhưng nhìn chung thì mức độ huy động công suất còn rất thấp. Ta có thể thấy được điều này qua bảng số liệu sau.
Bảng sử dụng công suất máy móc thiết bị.
Đơn vị: % ( so với công suất thiêtd kế )
TT
Danh mục thiết bị
2003
2004
2005
1
Xe ô tô tải
60
53
61
2
Máy ủi
61
60
60
3
Máy xúc
57
60
58
4
Máy lu 6 – 12 tấn
43
55
55
5
Xe lu rung
45
48
6
Máy khoan
45
50
48
7
Máy bơm nước
50
48
45
8
Máy mài
50
43
46
9
Máy trộn bê tông
71
75
80
10
Đầm dùi
62
64
65
11
Giàn giáo thép
47
45
48
12
Máy phát điện 25kw
60
50
48
13
Cần trục
42
39
40
14
Máy hàn
47
41
50
15
Máy phun nhựa
35
45
50
Trung bình
52.1
51.5
53.5
Trong đó ta có thể thấy rằng xe ô tô tải, máy xúc, máy ủi, xe lu, máy trộn bê tong, máy phun nhựa đường có mức huy động công suất nhiều hơn các loại máy khác, bởi đây là những loại máy bắt buộc phải có đối với một công trình xây dựng. Mặt khác trong những năm qua công ty đã trúng thầu nhiều công trình giao thông như làm đường, cầu cho các tỉnh Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Bình Dương… Còn các loại máy như cần trục, máy phát điện do tính chất đặc thù nên không phải công trình nào cũng cần huy động, do vậy mức độ thường thấp hơn các máy trên. Bên cạnh đó trong những năm qua hoạt động quản lý hệ thống máy móc thiết bị của công ty chưa linh hoạt nên ngoài việc thi công các công trình của công ty thì công ty vẫn chưa thiết lập được nhiều mối quan hệ với các đơn vị bạn để thực hiện hoạt động cho thuê máy móc thiết bị làm tăng nguồn thu cũng như tăng mức công suất của hệ thống.
Năm 2004 mặc dù khối lượng công việc và doanh thu xây lắp của công ty có tăng hơn năm 2003 là 12 tỷ đồng nhưng mức độ huy động công suất lại giảm 0,6 %, điều này là do đặc điểm hoạt động xây lắp trong năm này phải thi công một số công trình ở xa nên việc cung cấp nhiên nguyên vậy liệu và công tác sửa chữa gặp nhiều khó khăn vì vậy công ty đã lựa chọn hình thức thuê máy móc thiết bị tại chỗ thay cho phải huy động máy móc thiết bị của công ty.
Năm 2005 công suất huy động máy móc thiết bị có tăng hơn so với năm 2004 là 2 %, lý do là trong năm này công ty đã đấu thầu được nhiều trình có giá trị lớn hơn. Mặt khác công ty cũng bước đầu thực hiện chủ trương buộc các đội thi công xây dựng phải làm sao huy động được tối đa công suất máy móc thiết bị hiện có.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy những năm qua công ty đã có nhiều cố gắng trong việc huy động tối đa công suất sử dụng máy móc thiết bị nhưng công tác quản lý và sử dụng chúng vẫn đang còn nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Với tình hình và xu thế phát triển của công ty như hiện nay thì chắc rằng hệ thống máy móc thiết bị sẽ dần được sẽ dần được sử dụng có hiệu quả hơn. Song song với vấn đề quản lý sử dụng máy móc thiết bị thì công tác quản lý bảo dưỡng và sửa chữa cũng là vấn đề cần được quan tâm.
2.5. Phân tích tình hình sửa chữa máy móc thiết bị.
Công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất, tới việc thực hiện kế hoạch, tiến độ thi công cũng như ảnh hưởng tới chất lượng của công trình và kết quả kinh doanh của công ty. Công tác sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị được công ty giao cho từng đội sản xuất nhưng chịu trách nhiệm chính là phòng kỹ thuật và xưởng cơ khí. Trong đó các đội sản xuất với vai trò là người trực tiếp quản lý sư dụng máy móc thiết bị phục vụ thi công nên họ có trách nhiệm phải bảo quản, bảo dưỡng theo chu kỳ, thường xuyên kiểm tra máy móc thiết bị. Phòng kỹ thuật và xưởng cơ khí đóng vai trò là người quản lý trực tiếp công tác sửa chữa trong toàn công ty, có trách nhiệm hướng dẫn giúp đỡ các đội trong công tác sửa chữa, bảo dưỡng hệ thống máy móc thiết bị. Ngoài ra phòng kỹ thuật còn là nơi tiến hành công tác xây dựng và lập kế hoạch sửa chữa cho toàn bộ hệ thống máy móc thiết bị trên cơ sở thực trạng hoạt động của từng loại và thống nhất trong toàn công ty.
mặt khác có thể thấy rằng việc công ty tiến hành hạch toán độc lập cho từng đội thi công theo từng công trình, số lượng máy móc thiết bị của công ty cũng được chia một cách hợp lý nên nhìn chung các đội đều có ý thức bảo quản giữ gìn máy móc thiết bị một cách nghiêm túc để làm tốt công tác thi công xây dựng bảo đảm doanh số nộp cho công ty hàng năm. Có thề thấy rõ hơn qua bảng số liệu sau.
Bảng kế hoạch sửa chữa máy móc thiết bị.
Loại hình sửa chữa
2003
2004
2005
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
Sửa chữa nhỏ
72
70
97
85
83
98
90
90
100
Sửa chữa vừa
30
29
97
31
31
100
33
32
97
Sửa chữa lớn
7
7
100
6
6
100
7
7
100
Nhìn chung kết quả công tác sửa chữa, bảo dưỡng công ty trong những năm qua là rất đáng khích lệ, trong quá trình hoạt động ít xảy ra tình trạng máy móc thiết bị hỏng bất thường làm ảnh hưởng đến sản xuất. Sở dĩ có được kết quả đó là do sự cố gắng chung của tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty đặc biệt là sự đóng góp không nhỏ của phòng kỹ thuật và xưởng cơ khí.
Như trên đã đề cập, do đặc điểm của hoạt động xây lắp nên hệ thống máy móc thiết bị thường xuyên phải thay đổi theo từng công trình vì vậy mà việc tập trung sửa chữa, bảo dưỡng rất khó khăn và tốn kém. Chính vì thế, công ty đã chọn hình thức sửa chữa phân tán đối với các hỏng hóc thông thường và được thực hiện trực tiếp bởi các đội với biên chế mỗi đội có 1 dến 2 cán bộ hoặc công nhân kỹ thuật làm công tác sửa chữa. Còn đối với các trường hợp sửa chữa lớn nếu thuận lợi, công ty sẽ tập trung đưa về xưởng cơ khi tiến hành sửa chữa hoặc công ty thuê sửa chữa tại công trình.
2.6. Tình hình đổi mới, cải tiến máy móc thiết bị .
Khi mới thành lập, năng lực thi công cơ giới của công ty còn rất kém, cơ sở vật chất phục vụ thi công các công trình xây lắp của công ty chủ yếu còn lại là của công ty xây dựng 232. Các thiết bị ở đây chủ yêu là các thiết bị nhỏ lẻ, không có tính đồng bộ, thường xuyên hỏng hóc, giá trị thấp không còn đáp ứng được đối với nhu cầu ngày càng cao của các công trình trong tình hình mới. Trước thực tế đó đỏi hỏi công ty Tây Hồ phải có sự đầu tư, đổi mới trang thiết bị để có trong tay một năng lực đủ mạnh, có thể đứng vững và phát triển.
Để giúp công ty Tây Hồ tháo gỡ được điều này, năm 2003 Bộ trưởng Bộ quốc phòng đã phê duyệt dự án đầu tư mới năng lực thi công cơ giới cho công ty Tây Hồ với tổng kinh phí là 4,9 tỷ đồng. Nhưng cho đến nay việc đầu tư mới chỉ thực hiện được 2,4 tỷ theo các năm như sau:
+ Năm 2004: 1.400 triệu đồng
+ Năm 2005: 500 triệu đồng
+ Năm 2006: 500 triệu đồng
IV. Đánh giá thực trạng quản lý sử dụng máy móc thiết bị của công ty Tây Hồ.
1. Những thành tích đã đạt được.
* Tình hình đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị: trong những năm qua công ty đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị phục vụ thi công xây lắp. Từ ngày đầu mới thành lập với số lượng máy móc thiết bị của còn hạn chế, nhưng cho đến nay tổng số vốn đầu tư cho máy móc thiết bị của công ty đã lên tới hơn 9 tỷ đồng, trong đó số vốn ngân sách cấp là 2,4 tỷ còn lại là nguồn vốn tự có và vốn vay. Với số vốn này công ty đã trang bị cho mình nhiều loại máy móc thiết bị đặc chủng, chuyên dụng cần thiết để phục vụ trực tiếp cho hoạt động thi công xây lắp. Mặc dầu số lượng máy móc thiết bị được đầu tư chưa phải là nhiều nhưng phần nào cũng đã đảm bảo cho công ty có khả năng thực hiện những dự án lớn. Bên cạnh đó thì hoạt động quản lý máy móc thiết bị nhất là quản lý hoạt động đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Với số vốn Ngân sách cấp còn ít ỏi, công ty đã manh dạn sử dụng nguồn vốn vay trung hạn và dài hạn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, không những thế công ty còn cố gắng quản lý và sử dụng máy móc thiết bị một cách linh hoạt, đảm bảo việc bố trí sắp xếp các loại máy giữa các công trình nhằm mục đích nâng cao năng lực sản xuất của máy móc thiết bị. Với mô hình quản lý phân theo 4 cấp từ công ty đến các tổ đội thi công đã bước đầu phát huy tác dụng trong việc bảo đảm sự hoạt động thường xuyên của hệ thống máy móc thiết bị. Ngoài ra trong công tác quản lý đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, như quản lý tập trung máy móc thiết bị trong toàn công ty, giao khoán máy móc thiết bị cho từng đơn vị, xí nghiêph thi công và tình khấy hao cho từng đội. Hiện nay công ty vẫn đang trong quá trình thử nghiệm để lựa chọn một phương pháp hợp lý và hiệu quả nhất.
* Công tác sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị được công ty duy trì và thực hiện thường xuyên với phương châm hỏng đâu sửa đấy nhằm hạn chế đến mức tối đa tình trạng máy hỏng, máy ngừng hoạt động làm ảnh hưởng đến chất lượng cũng như tiến độ thi công các công trình. Mặc dù đa số máy móc thiết bị đều được đầu tư mới trong những năm gần đây nhưng công tác bảo dưỡng sửa chữa luân được công ty xác định là vấn đề then chốt, nó bảo đảm cho máy móc thiết bị luân được tu bổ, phục hồi chức năng để phục vụ kịp thời cho sản xuất. Nhưng cái cơ bản là việc sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị nhằm kéo dài thời gian hoạt động của chúng, giảm chi phí khấu hao, tiết kiệm vốn đầu tư và hạ giá thành công trình xây dựng từ đó có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Qua phân tích thực trạng công tác bảo dưỡng sửa chữa của công ty trong thời gian qua, ta thấy rằng công ty đã có biện pháp tích cực để đảm bảo hiệu quả sửa chữa như việc lập kế hoạch chung của phòng kỹ thuật rồi triển khai đến từng xí nghiệp, từng đội xây dựng. Công ty đã thành lập một xí nghiệp lắp máy chuyên đảm nhận công tác sửa chữa các loại máy móc thiết bị trong và ngoài công ty với đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi, tay nghề cao. Ngoài ra cùng với việc giao máy móc thiết bị cho các đơn vị thì công ty cũng đã đào tạo cho mỗi đơn vị một vài công nhân kỹ thuật có khả năng tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng những hư hỏng nhỏ, bất thường. Vì vậy trong những năm qua công ty đã hoàn thành kế hoạch sửa chữa với chất lượng cao, giảm thiểu được nhiều sự cố hư hỏng bất thường, hạn chế thời gian sửa chữa và nâng cao thời gian hoạt động cho máy móc thiết bị. Đạt được những thành tích trên là do công ty đã có nhiều biện pháp tích cực trong công tác quản lý máy móc thiết bị, gắn trách nhiệm của từng người lao động, từng đội, xí nghiệp với máy móc thiết bị mà ho quản lý.
* Công tác quản lý hồ sơ thiết bị cũng được công ty tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ theo các cấp độ quản lý khác nhau. Tất cả các loại máy móc thiết bị khi đưa vào sử dụng đều được lập một sổ hồ sơ lý lịch trên cơ sở năng lực hoạt động thực tế theo ngày giờ và các sự cố, hư hỏng trong quá trình sử dụng được công ty giao cho các tổ trưởng, đội trưởng thi công và người thực hiện trực tiếp là công nhân vận hành máy. Sau khi có được số liệu tổng hợp từ phía những người công nhân, các tổ các đội lập hồ sơ theo giõi rồi gửi lên cho xí nghiệp và công ty để có kế hoạch sửa chữa hoặc mua mới thay thế kịp thời. Nhìn chung trong những năm qua, công ty đã làm tốt công tác giáo dục ý thức trách nhiệm cho mọi người trong việc quản lý máy móc thiết bị.
2. Những tồn tại cần khắc phục.
Qua nghiên cứu thực trạng tình hình sử dụng máy móc thiết bị ở công ty Tây Hồ chúng ta có thể thấy được một số những tông tại cơ bản sau:
2.1. Về mặt quản lý máy móc thiết bị.
* Cơ cấu máy móc thiết bị chưa hợp lý.
Mặc dù trong những năm qua công ty đã có nhiều cố gắng trong hoạt động đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị nhưng chủ yếu vẫn là các loại máy móc thiết bị thông thường quy mô nhỏ, tính đồng bộ giữa chúng chưa cao. Còn các loại máy móc thiết bị đặc chủng, chuyên dụng thì công ty lại đang thiếu, nhiều khi phải đi thuê của công ty bạn, do đó mà khả năng đáp ứng cũng như huy động máy móc thiết bị chưa thật hiệu quả. Mặt khác thì giải pháp khoán cho từng đơn vị quản lý trực tiếp máy móc thiết bị đang gặp vài vấn để, do số lượng máy móc thiết bị hạn chế nên việc chia đều chúng cho các đơn vị gặp nhiều khó khăn, nhiều đơn vị vẫn đang phải dùng chung máy móc thiết bị của nhau. Do vậy hay xảy ra tình trạng là ở đội này không có máy sản xuất những ở đội kia máy lại đang để không, gây lãng phí. Tình trạng thừa thiếu máy móc thiết bị trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thường xuyên diễn ra và cho đến nay nó vẫn là một bài toán đang cần lời giải.
* Hệ thống tổ chức sửa chữa máy móc thiết bị chưa thật hợp lý.
Hệ thống này của công ty bao gồm rất nhiều chủng loại khác nhau nên khó có khả năng đánh giá một cách chính xác mức độ hao mòn cho từng loại máy móc thiết bị trên cơ sở năng lực hoạt động thực tế. Công ty đã áp dụng biện pháp phân chia hệ thống này ra thành từng nhóm có tính năng tác dụng tương tự nhau, điều này đã dẫn đến tình trạng máy móc thiết bị hoạt động ít hơn nhưng đến chu kỳ sửa chữa thì vẫn phải sửa, thiết bị hoạt động nhiều hơn cần được kiểm tra sửa chữa thì lại không được vì đang còn phải hoạt động. Mặt khác, với cơ cấu tổ chức hệ thống sửa chữa như hiện nay khi mà các đội, các xí nghiệp phải thường xuyên cơ động theo các công trình mà họ lại chỉ sửa chữa được những hư hỏng nhỏ, thông thường còn các hư hỏng lớn lại phải do công ty đảm nhiệm. Do vậy mà trong nhiều trường hợp máy móc thiết bị của đội phải dừng hoạt động trong một thời gian dài để chở công ty sửa chữa, ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình là không tránh khỏi. Đây cũng là một trong những vấn để đang được cán bộ công ty xem xét, điều chỉnh trong thời gian qua.
* Hệ thống tổ chức quản lý thiết bị của công ty trong những năm qua đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập cần phải được giải quyết. Với chủ trương giao khoán trực tiếp cho các đội, các xí nghiệp theo từng công trình trên cơ sở có sự phân chia hệ thống máy móc thiết bị. Nhưng công tác quản lý giám sát sự hoạt động của hệ thống này không tốt nên ở công ty vẫn xảy ra tình trạng các đội, các xí nghiệp không báo cáo một cách trung thực, chính xác năng lực hoạt động hay khả năng huy động công suất của chúng. Điều này làm cho hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị trong toàn công ty bị hạn chế nhiều. Công ty đã nghiên cứu nhiều giải pháp quản lý khác nhau nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một giải pháp hữu hiệu, do đó tình trạng máy chờ việc vẫn tiếp tục diễn ra. Như vậy nếu đánh giá chung thì hiệu quả quản lý máy móc thiết bị của công ty chỉ đạt ở mức độ trung bình và cần phải có sự cố gắng hơn nữa.
2.2. Về mặt sử dụng máy móc thiết bị.
* Số lượng, chủng loại máy móc thiết bị chưa đồng bộ:
Trong những năm qua mặc dù công ty đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị nhưng cho đến nay số lượng máy móc thiết bị có được của công ty chưa nhiều, chủ yếu là những máy móc thiết bị thông thường, trong đó các máy móc thiết bị chuyên dụng vẫn còn thiếu. Với số vốn hạn chế, công ty đã quyết định đầu tư vào một số chủng loại máy móc thiết bị thật sự cần thiết như máy trộn bê tồng, xe ủi, đầm dùi, xe kamazben…còn các thiết bị đặc chủng thì công ty chỉ chọn lọc đầu tư một số loại tương ứng với các công trình mà công ty có thể nhận thi công như xe lu rung, cốt pha thép định hình… Do vậy hệ thống máy móc thiết bị hiện nay của công ty bao gồm nhiều loại với số lượng không nhiều và tính đồng bộ không cao. Nhìn chung số lượng máy móc thiết bị của các đội không đủ để đáp ứng nhu cầu thi công xây dựng của các công trình do vậy trong nhiều trường hợp các đội phải đi thuê máy móc thiết bị của các đơn vị bạn nên rất khó có thê chủ động trong hoạt động thi công.
* Thời gian huy động máy móc thiết bị còn dài.
Mới chỉ đạt 10,7 giờ/ ngày và 22 ngày/ tháng trong năm 2006 vừa qua, điều này cho thấy khả năng huy động máy móc thiết bị của công ty còn hạn chế, thời gian nằm chờ việc của chúng vẫn lâu. Thật vậy một số loại máy móc thiết bị ở đội thi công hiện nay như máy ủi, xe lu,… chỉ được huy động từ 10 đến 12 ngày / tháng. Bởi lẽ đa phần là máy móc thiết bị mới có giá trị khấu hao lớn, được quản lý tập trung tại chỗ nên việc huy động chúng theo từng công trình gặp phải nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, số thiết bị này chỉ có thể tham gia thi công trong giai đoạn đầu giải phóng mặt bằng nên khi cơ động chúng đến công trình công ty đều phải tính toán, cân nhắc hiệu quả huy động để thi công nhiều công trình một lúc, kết hợp với hoạt động cho thuê. Nếu chỉ thi công một công trình thì chi phí huy động thường là rất cao nên công ty có thể tiến hành thuê máy móc thiết bị ngay tại nơi thi công công trình.
* Công suất sử dụng máy móc thiết bị còn thấp.
Trong nămg 2006, công suất sử dụng máy móc thiết bị chỉ đạt 53,5%, điều này nói lên công ty chưa tận dụng hết công suất thực tế của máy móc thiết bị, thời gian ngừng máy kéo dài không hợp lý, tay nghề của thợ chưa cao chưa làm tốt các qui trình kỹ thuật chủ yếu. Với khả năng sử dụng như thế thì việc phát huy hiệu quả của máy móc thiết bị trong công ty chắc chắn chưa đạt yêu cầu cũng như mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó chỉ số công suất còn cho thấy khả năng huy động máy móc thiết bị chưa linh hoạt, công tác quản lý điều phối máy móc thiết bị trong toàn công ty chưa thực sự hợp lý.
3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại đó.
Từ những tồn tại nêu trên ta có thể rút ra được một vài nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất là do từ ngày mới thành lập, phải thay đổi hình thức kinh doanh từ chủ yếu là kinh doanh thương mại sang lĩnh vực xây lắp nên công ty đã gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm bạn hàng và thị trường cung ứng. Uy tín của công ty vẫn chưa cao, cơ sở vật chất, năng lực kỹ thuật, đội ngũ cán bộ và hệ thống máy móc thiết bị còn vô cùng thiếu thốn. Đa phần cán bộ quản lý của công ty được chuyển từ doanh nghiệp thương mại sang nên không có nhiều kinh nghiêm trong thị trường xây lắp, do vậy mà hoạt động quản lý gặp nhiều khó khăn. Ban đầu công ty chỉ có thể nhận thi công các công trình nhỏ lẻ và chủ yếu là do yêu cầu của Bộ quốc phòng. Đến nay tuy vị thế của công ty trên thị trường xây lắp đã có nhiều biến chuyển tích cực nhưng số lượng cũng như giá trị của các công trình vẫn chưa thực sự cao. Mặt khác công ty chưa có một chiến lược kinh doanh cụ thể dài hạn mà chủ yếu là các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn như vậy làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh chung của công ty.
Việc quản lý sử dụng máy móc thiết bị hiện nay ở công ty cũng đang gặp những khó khăn nhất định. Với việc phân chia máy móc thiết bị cho từng đội, từng xí nghiệp theo kiểu quản lý phân tán đã phát huy tác dụng kịp thời cho hoạt động thi công nhưng cũng gây ra tình trạng thừa máy chỗ này, thiếu máy chỗ kia làm giảm hiệu quả sử dụng. Công ty cũng đã tiến hành quản lý theo kiểu tập trung toàn bộ nhưng giải pháp này lại có nhược điểm là gây ra tình trạng chậm trễ trong quá trình thi công và chi phí huy động máy móc thiết bị cao. Do vậy mà hiện nay công ty phải áp dụng linh hoạt cả hai giải pháp này, song hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị vẫn chưa thực sự hoàn hảo.
Ngày nay, hoạt động thuê và cho thuê máy móc thiết bị xây dựng đang diễn ra khá phổ biến, nó có thể giải quyết được những khó khăn về máy móc thiết bị cho mỗi doanh nghiệp khi công trình thi công ở xa. Trước mỗi công trình luôn phải cân nhắc giữa chi phí huy động máy móc thiết bị với việc thuê chúng ngay tại chỗ sao cho hợp lý nhất.
Mặc dù số lượng cán bộ công nhân viên hiện nay của công ty rất lớn khoảng hơn 1150 người nhưng trong đó chỉ có hơn 400 người là cán bộ quản lý, kỹ sư và công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo, còn lại chủ yếu là lao động hợp đồng mùa vụ, chưa qua đào tạo cơ bản nên khả năng sử dụng máy móc thiết bị còn nhiều hạn chế. Vì vậy mà năng suất hoạt động của máy móc thiết bị không cao.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG MÁY MÓC THIẾT BỊ THI CÔNG CƠ GIỚI Ở CÔNG TY TÂY HỒ
I. Một số giải pháp cụ thể.
1. Bố trí sử dụng hệ thống máy móc thiết bị ở các đội thi công cơ giới một cách có hiệu quả.
Việc bố trí sắp xếp hệ thống máy móc thiết bị một cách hợp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý sử dụng máy móc thiết bị. Một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp là hệ thống máy móc thiết bị phải đảm bảo tính cân đối và tính nhịp nhàng. Điều đó được thể hiện trước hết ở mỗi quan hệ tỷ lệ thích hợp giữa công suất máy móc thiết bị, khả năng lao động, số lượng và chất lượng của các loại nguyên vật liệu được đưa vào sản xuất. Nói cách khác đó là mối quan hệ tỷ lệ giữa ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Ngoài ra tính cân đối, nhịp nhàng còn được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo sản xuất đồng bộ với hiệu quả cao, khắc phục được tình trạng sản xuất khi thì thong thả cầm chừng, khi thì vội vàng khẩn trương, gây lãng phí về sức người cũng như máy móc thiết bị. Từ ý nghĩa thực tế đó vấn để đặt ra là muốn nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị thì cần phải làm tốt công tác quản lý, bố trí, sắp xếp chúng, tạo điều kiện cho máy móc thiết bị phát huy tối đa hiệu quả.
Sắp xếp, bố trí lại hệ thống máy móc thiết bị ở đội thi công cơ giới hiện nay bằng cách giảm bớt số xe kamazben và một số máy trộn bê tông. Trang bị thêm những máy móc thiết bị đặc chủng cần thiết theo ngành nghề kinh doanh trong giai đoạn tới như xe lu rung, cốp pha thép định hình, máy khoan …và loại bỏ các thiết bị lạc hậu đã lỗi thời không còn đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các công trình.
Áp dụng hình thức quản lý theo đối tượng và quản lý hỗn hợp thay cho hình thức quản lý tập trung trước đây trên cơ sở phân chia các loại máy móc thiết bị thông thường như xe Kamazben, máy trộn bê tông cho các đội sử dụng nhưng vẫn chịu sự quản lý của đội thi công cơ giới để khi cần công ty có thể huy động qua lại giữa các đội. Riêng đối với các máy móc thiết bị đặc chủng như xe lu rung, cần trục… thì tuỳ theo kế hoạch sản xuất mà đội thi công cơ giới lập kế hoạch chuyển giao cho từng đội đảm bảo phục vụ kịp thời cho hoạt động sản xuất với chi phí thấp nhất.
Công ty tiến hành từng bước giảm dần chi phí khấu hao cho các loại máy móc thiết bị mới bằng cách trong những năm đầu có thể không tính lãi hoặc tính lãi ở mức thấp. Nếu cần có thể dung quĩ đầu tư phát triển, quĩ khấu hao cơ bản của công ty để trích khấu hao cho máy móc thiết bị ơ đội thi công cơ giới và thu lại trong những năm sau. Áp dụng hình thức giao khoán theo mỗi tổ, mỗi đầu xe thuộc đội thi công cơ giới để mỗi đơn vị này tự có trách nhiệm tìm việc cho mình. Trong giai đoạn đầu công ty chỉ cần thu để trang trải đủ chi phí khấu hao cho máy móc thiết bị.
Đối với các công trình Quốc phòng cần phải huy động 100% năng lực máy móc thiết bị ở đội thi công cơ giới. Công ty có thể qui định tỷ lệ sử dụng máy móc thiết bị ở đội thi công đỗi, với mỗi đội, mỗi xí nghiệp theo bán kính của công trình so với công ty khi nhận thi công công trình. Cụ thể như sau:
+ Nếu R < 100 km thì 100% máy móc thiết bị sử dụng phải huy động từ đội đảm trách thi công
+ Nếu 100 km < R < 300 km thì phải huy động từ 60 – 80 % máy móc thiết bị
+ Nếu R > 300 km thì huy động ít nhất 50 % máy móc thiết bị.
Đồng thời với đó là tích cực thực hiện công tác tiếp thị cho thuê máy móc thiết bị với phương châm giảm thiểu chi phí trên cơ sở hạ thấp lãi định mức.
Để có thể thực hiện được giải pháp này thì trong những năm tiếp theo có thể là từ 3 đến 5 năm công ty không tính khấu hao cho máy móc thiết bị ở đội thi công cơ giới mà dùng lãi xí nghiệp và lãi của công ty để trích khấu hao. Đội thi công cơ giới phải quản lý, theo dõi chặt chẽ hoạt động sử dụng máy móc thiết bị ở từng xí nghiệp, từng đội để tính toán chính xác chi phí hoạt động cho các xí nghiệp. Việc này có thể giao trực tiếp cho công nhân vận hành máy trên cơ sở có sự giám sát của đội.
Có sự phối hợp trong công tác lập kế hoạch thi công từ cấp công ty đến cấp đội để có kế hoạch bố trí máy móc thiết bị hợp lý, tránh tình trạng thừa thiếu máy móc thiết bị làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công của toàn công ty. Các xí nghiệp các đội xây dựng phải khai thác, sử dụng tối đa công suất máy móc thiết bị được công ty giao cho và thực hiện tốt công tác sửa chữa, bảo dưỡng theo đúng kế hoạch nhằm đảm bảo duy trì hoạt động thường xuyên cho hệ thống.
2. Hoàn thiện công tác bảo dưỡng sửa chữa dự phòng theo kế hoạch.
Máy móc thiết bị chiếm vị trí cơ bản trong tổng năng lực sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra, đến yêu cầu của tổ chức quá trình sản xuất cân đối nhịp nhàng và liên tục. xét về mặt vốn thì đó chính là hình thái vật chất của vốn cố định, một loại vốn lớn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn dung cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo dưỡng sửa chữa và sử dụng hợp lý máy móc thiết bị làm giảm được hao mòn vô hình, góp phần làm nên hiệu quả cho quá trình sử dụng. Thật vậy sửa chữa dự phòng máy móc thiết bị là công tác gắn liền với quá trình sử dụng, không thể có sử dụng tốt nếu không làm tốt công tác sữa chữa. sửa chữa máy móc thiết bị chu đáo cẩn thận sẽ hạn chế những sự cố, hỏng hóc lớn trong quá trình sử dụng, nhờ đó mà kéo dài tuổi thọ cho máy móc thiết bị, giảm thời gian ngừng máy, tăng năng lực hoạt động cho chúng. Với quan điểm cơ bản của sửa chữa dự phòng theo kế hoạch là lấy sửa chữa dự phòng làm chính, tức là không đợi máy hòng mới sửa chữa mà kiểm tra khắc phục thường xuyên những sự cố nhỏ, không để máy móc thiết bị rơi vào tình trạng hỏng nặng. Sửa chữa là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, nó phải được tiến hành thường xuyên để đảm bảo cho máy móc thiết bị hoạt động hết công suất.
Để hoàn thiện công tác sửa chữa, bảo dưỡng sự phòng theo kế hoạch công ty cần chú trọng những vấn đề sau làm tốt công tác lập chi tiết quá trình bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị dựa trên các căn cứ sau:
+ Căn cứ vào kế hoạch sửa chữa năm của công ty đã xây dựng.
+ Căn cứ vào lịch sửa chữa từng loại máy móc thiết bị.
+ Căn cứ vào năng lực thi công thực tế của từng loại máy móc thiết bị.
+ Căn cứ vào số lượng công nhân làm công tác sửa chữa.
Sau khi tính toán các căn cứ cùng với việc xác định mức tiêu hao về thời gian, nguyên vật liệu và nhân công cho công tác sửa chữa, phòng kỹ thuật và xưởng cơ khí sẽ tiến hành lập kế hoạch sửa chữa cho cả năm rồi trên cơ sở bản kế hoạch đó công ty phân bổ chi tiết cho từng tháng, từng tuần và giao cho các xí nghiệp, các đội triển khai thực hiện.
Để khắc phục hiện tượng chờ đợi trong công tác sửa chữa công ty có thể thay đổi mô hình tổ chức sửa chữa như sau:
Sơ đồ hệ thống tổ chức sửa chữa máy móc thiết bị.
Trong đó phòng kỹ thuật và xưởng cơ khí lắp máy cần phối hợp chặt chẽ với các đội, các xí nghiệp để có kế hoạch sửa chữa cụ thể đối với từng loại máy móc thiết bị trên cơ sở thống kê chính xác thời gian hoạt động của chúng.Cùng với nó là việc tuyển chọn, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho cán bộ kỹ thuật làm công tác sửa chữa.
Thành lập ở mỗi xí nghiệp một đội kỹ thuật thay thế cho tổ kỹ thuật trước đây để đảm trách nhiệm vụ sửa chữa vừa, xưởng cơ khí lắp máy có thể cử cán bộ của mình xuống tăng cường các đội ngũ kỹ thuật này.
Biên chế thêm cho mỗi đội từ 1 đến 2 công nhân kỹ thuật bậc cao để có thể đảm trách công việc sửa chữa nhỏ và bảo dưỡng cho máy móc thiết bị tránh tình trạng máy hỏng đột suất làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công.
Có kế hoạch bảo quản cụ thể đối với những loại máy móc thiết bị vận chuyển đi xa hoặc hoạt động trong điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt: như máy xúc, máy ủi, máy tạo vét bùn, máy trộn bê tông, giàn giáo thép, cốt pha thép…
Có nội quy, quy định chung cho hoạt động quản lý, bảo dưỡng máy móc thiết bị và nội quy, quy định riêng cho từng loại.
Đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh chu kỳ sữa chữa máy móc thiết bị và làm tốt công tác xác định chu kỳ sửa chữa, tránh tình trạng máy chưa hỏng đã đem vào sửa chữa. Lập sổ lý lịch rõ ràng cho từng loại máy móc thiết bị và giao trách nhiệm trực tiếp cho người vận hành máy.
Đối với những loại hỏng hóc mà công ty chưa đủ khả năng sửa chữa thì phải ký hợp đồng với các cơ sở sửa chữa dảm bảo giảm đến mức thấp nhất thời gian ngừng máy, phục vụ kịp thời cho hoạt động sản xuất.
Với việc thay đổi hệ thống tổ chức sửa chữa như trên các đội, các xí nghiệp có thể đảm trách các công việc sửa chữa nhỏ và vừa nên hiệu quả sử dụng sẽ được tăng cao. Ta có thể thấy được điều này qua ví dụ cụ thể như sau:
-Tại đội xây lắp số 3 thuộc xí nghiệp xây lắp 897
+ Tổng số thiết bị: 35
+ Số thợ sửa chữa: 2 bậc 3/7
+ Mỗi ngày phải dừng thiết bị bình quân 8 giờ
+ Hệ số sử dụng thời gian: 0,8
+ Số ngày làm việc: 26 ngày/ tháng
+ Đơn giá một ca máy: 800.000 đồng
+ Một năm làm việc 12 tháng
Chí phí dừng máy trong năm đội là:
=0,8 x 12 tháng x 26 ngay x 800.000đ/ca =199.680.000đ
Nếu bố trí thêm 1 thợ sửa chữa bậc 5/7: Bình quân 1 năm trả lương hết
+ Bậc 5/7: 1.000.000đ/th x 12tháng = 12.000.000đ
+ Bậc 3/7: 2 x 800.000đ/th x 12tháng = 19.200.000đ
+ Các chí khác : =30.000.000đ
Tổng chí phí =61.200.000đ
Như vậy hàng năm đội vẫn còn dư được 138.480.000đ. Bên cạnh đó máy móc thiết bị của đội luôn được bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời, đáp ứng được nhu cầu sản xuất khẩn trương từ đó mà hiệu quả kinh doanh của đội sẽ tăng cao hơn nữa.
Hiện nay chi phí cho hoạt động bảơ dưỡng sữa chữa của công ty không lớn nên công ty chưa có kế hoạch xác định chi phí rõ rang mà được trích trực tiếp từ quỹ khấu hao cơ bản theo từng trường hợp cụ thể. Trong những năm tới công ty cần lập kế hoạch xác định chi phí môt cách chi tiết và đặc biệt và xác định nguồn cung cấp chi phí.
Bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ cho công tác xây dựng lịch xích, lập kế hoạch sửa chữa giữa công ty, xí nghiệp và các tổ đội thi công để đảm bảo thực hiện đúng phát huy hiệu quả sửa chữa một cách tốt nhất. Phải thành lập được các đội kỹ thuật ở các xí nghiệp có đủ khả năng sửa chữa để đảm bảo hoạt động sửa chữa được thông suốt. Thường xuyên trao đổi, bồi dưỡng, rút kinh nghiệm cho công nhân sửa chữa và cán bộ quản lý sửa chữa ở các đội.
3. Nâng cao hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị.
Hệ số thời gian làm việc thực tế phản ánh trình độ sử dụng máy móc thiết bị của mối doanh nghiệp.Thông qua hệ số này ta có thể thấy được khả năng huy đông công suất thiết bị cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Hệ số này được tính trên cơ sở thời gian làm việc thực tế chia cho thời gian làm việc theo quy định trong năm, hệ số này cho biết trong năm máy móc thiết bị của doanh nghiệp hoạt động được bao nhiêu giờ và phải ngừng hoạt động bao nhiêu giờ. Bên cạnh đó thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị còn có tác dụng giúp các cán bộ quản lý trong doanh nghiệp có thể nhanh trong nắm bắt được tình hình hoạt động của từng bộ phận sản xuất để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời. Do vậy đối với mỗi doanh nghiệp nếu có thể nâng cao hệ số này thì cũng đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị nói riêng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung.
Làm tốt công tác tiếp thị, giới thiệu năng lực thi công của công ty, từng bước chiếm lĩnh thị trường để có thể nhận được ngày càng nhiều các công trình có giá trị lớn đảm bảo đủ thời gian hoạt động cho máy móc thiết bị.
Cân đối lại nhiệm vụ, bố trí hợp lý kế hoạch sản xuất cho từng đội, từng xí nghiệp và cho từng thiết bị, khai thác hết thời gian làm việc cho các thiết bị. Căn cứ vào nhiệm vụ, chức năng thi công của từng đội, từng xí nghiệp để bố trí hệ thống máy móc thiết bị cho hợp lý, đảm bảo cho các đơn vị thi công luôn đủ máy móc thiết bị. Đối với các công trình xây dựng ở xa địa bàn của đơn vị thì cần phải lập kế hoạch tiến độ thi công rõ rang, cụ thể, chính xác và tính toán chi phí cần thiết để có thể huy động tối đa công suất máy móc thiết bị, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thuê máy ở bên ngoài.
4. Tăng cường đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất.
Máy móc thiết bị được chế tạo gồm nhiều bộ phận phức tạp có nhiệm vụ dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào đối tượng lao động, làm thay đổi hình thức tự nhiên của đối tượng lao động, biến đổi chúng thành những sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do vậy mà giữa con người và máy móc thiết bị có mỗi quan hệ gắn bó nhất định thể hiện sự tác động qua lại với nhau. Con người chế tạo ra máy móc thiết bị, làm chủ máy móc thiết bị và tiêu thụ những sản phẩm do chính chúng ta làm ra. Máy móc thiết bị chỉ có thể làm ra những sản phẩm đẹp, đa dạng, chất lượng cao khi nó được điều khiển bởi những con người hiểu và biết cách sử dụng chúng. Mặt khác, tính phức tạp và độ tinh vi của máy móc thiết bị ngày càng cao, đòi hỏi người công nhân phải thường xuyên cập nhật những kiến thức khoa học mới để có thể luôn làm chủ được máy móc thiết bị. Gắn với khái niệm công nghệ thì máy móc thiết bị là phần cứng đóng vai trò xương cốt của quá trình sản xuất còn con người là phần mềm đóng vai trò quyết định đến hiệu quả của quá trình sản xuất. Vì vậy vấn đề đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất là việc làm cần thiết trong công tác quản lý sử dụng máy móc thiết bị của doanh nghiệp hiện nay đặc biệt là đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp như công ty Tây Hồ thì lại càng cần thiết.
Đối với cán bộ quản lý thì cần làm tốt ngay từ công tác tuyển chọn cán bộ cấp phòng ban phải có trình độ đại học còn cán bộ cấp đội, xí nghiệp từ trung cấp trở lên. Sau đó tiếp tục đào tạo theo hình thức tự đào tạo hoặc gửi đi học ở các trường lớp kết hợp với việc đào tạo thêm về kiến thức xây dựng. Mục tiêu đặt ra là từ nay cho đến năm 2010 phải đảm bảo cho 30% cán bộ còn lại ở cấp phòng ban có trình độ đại học và 100% cán bộ quản lý cấp đội, xí nghiệp có trình độ từ trung cấp trở lên. Đối với các cán bộ quản lý kỹ thuật hiện đang phụ trách hệ thống máy móc thiết bị cần được đào tạo nâng cao, bổ túc kiến thức thường xuyên về đặc tính kỹ thuật và những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới được áp dụng vào máy móc thiết bị.
Mỗi năm công ty cần tổ chức ít nhất một khoá đào tạo ngắn hạn ( khoảng 7 – 10 ngày) về quản lý cho cán bộ quản lý là trưởng, phó các phòng ban, xí nghiệp và các đội xây dựng bằng cách thuê giáo viên các trường đại học về giảng dạy nhằm mục đích bổ sung những kiến thức mới về quản lý đặc biệt là lĩnh vực quản lý thiết bị. Sau đó mỗi phòng ban, xí nghiệp sẽ có trách nhiệm chuyền bá, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý của mình.
Đối với công nhân vận hành máy móc thiết bị.
Đối với những công nhân thuộc biên chế chính thức của các đội được tổ chức theo kiểu đội khung thì công ty phải quan tâm đến việc đào tạo và đào tạo lại nhằm mục đích nâng cao tay nghề để họ có thể đảm nhận được các công việc mang tính kỹ thuật ở các công trình.
Riêng đối với những công nhân được thuê theo hợp đồng mùa vụ tại địa phương thì chỉ giao những công việc ít liên quan đến máy móc thiết bị. Nếu có thì chỉ là những máy móc thiết bị đơn giản, thông thường nhưng vẫn cần phải có sự hướng dẫn, kèm cặp thường xuyên của công nhân lành nghề.
Để làm tốt điều này công ty có thể thường xuyên mở các khoá đào tạo ngắn hạn cho toàn bộ công nhân trong công ty hoặc cũng có thể giao cho từng đội tự làm trên cơ sở người có tay nghề cao, hướng dẫn người có tay nghề thấp hơn. Đội trưởng có trách nhiệm quản lý, giáo dục, nhắc nhở toàn thể công nhân trong đội về ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các nội quy, quy chế do công ty đưa ra. Công ty sẽ cử cán bộ chuyên môn trực tiếp giám sát quá trình này ở mỗi đội.
Cần trang bị những kiến thức cơ bản về máy móc thiết bị cho người công nhân sử dụng hiểu được tính năng, tác dụng và các điều khiển kỹ thuật của máy móc thiết bị mà bản thân đang sử dụng. Khi vận hành sử dụng máy móc thiết bị phải đúng qui trình thao tác, qui trình theo hướng dẫn ghi trên từng thiết bị và những điều cần thiết mà cán bộ kỹ thuật hướng dẫn. tuyệt đối chấp hành các qui tắc về an toàn máy móc thiết bị theo qui định chung và các qui định cụ thể cho từng loại máy móc thiết bị. Phải giáo dục cho người công nhân ý thức được trách nhiệm cũng như tinh thần tự giác trong việc bảo quản, lau chùi máy móc thiết bị sau mỗi ca làm việc, tránh hư hỏng mất mát phụ tùng chi tiết máy. Mỗi công nhân vận hành máy phải ghi rõ thời gian hoạt động thực tế vào sổ theo dõi của máy nhằm giúp cho cán bộ quản lý kỹ thuật biết được chính xác thời gian hoạt động của từng máy để có kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng kịp thời, tránh được những hỏng hóc lớn.
Giải pháp này sẽ phát huy hiệu quả tốt nếu công ty làm cho mọi người hiểu được sự cần thiết phải nâng cao trình độ sử dụng máy móc thiết bị. Khi đó thì mỗi người tự nhận thức được rằng muốn có cơ hội thăng tiến thì chỉ có một con đường duy nhất là học tập để nâng cao trình độ. Cũng như vậy thì giải pháp này còn có thể giúp công ty nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị về các mặt số lượng, thời gian, công suất từ đó mà kéo dài tuổi thọ của máy móc thiết bị, giảm chi phí sửa chữa, bảo dưỡng chúng, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường xây lắp.
KẾT LUẬN
Sản xuất luân là nền tảng, là yếu tố đầu tiên quyết định sự phảt triển của một chế độ xã hội mà trong đó thì máy móc thiết bị bao giờ cũng giữ vai trò xương cốt, là chỉ tiêu quan trọng nhất. Vì vậy nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị là một yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp xây lắp trong giai đoạn hiện nay.
Trước những đòi hỏi cấp bách và sự thay đổi nhanh chóng của thị trường xây lắp, công ty Tây Hồ luôn ý thức được rằng muốn đứng vững và phát triển được trên thị trường này cần phải có thực lực về con người và thiết bị. Bời vậy từ khi thành lập đến nay công ty đã luân quan tâm đến phát triển năng lực thi công cơ giới để có thể đảm nhận được các công trình trọng điểm cả trong và ngoài quân đội. Trong những năm qua, công ty Tây Hồ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị, làm tốt công tác quản lý, sử dụng máy móc thiết bị để đảm bảo cho hoạt động sản xuất được cân đối, nhịp nhàng, liên tục và đạt hiệu quả cao. Nhưng nhìn chung do nhiều lý do khác nhau mà hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn còn nhiều vướng mắc, công tác quản lý sử dụng máy móc thiết bị còn nhiều tồn tại cần được giải quyết.
Với ý nghĩa thực tế đó, từ ban giám đốc đến toàn thể cán bộ công nhân viện trong công ty đều thấy được việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị sẽ là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới. Đặc biệt là trong những năm tới khi mà nước ta vừa ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, đây không chỉ là vận hội lớn để công ty mở rộng qui mô cả về lượng lẫn chất mà nó còn đem đến những thách thức không nhỏ. Chỉ có những doanh nghiệp có đủ bản lĩnh, năng lực thật sự mới có thể đững vững, công ty Tây Hồ cũng không nằm ngoài xu thế ấy, chính vì thế để có thể tồn tại và phát triển thì một trong những vấn để cần quan tâm đến đầu tiên là công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị sao cho có hiệu quả nhất, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cũng như sức cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Chuyên để tốt nghiệp này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc và khoa học những vấn đề liên quan đến nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị của công ty Tây Hồ, một công ty kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp, với mục tiêu tìm ra được một giải pháp tối ưu thoả mãn yêu cầu trên. Tuy nhiên do khả năng còn hạn chế và lần đầu mới nghiên cứu một vấn để lớn như thế này nên chắc rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn nhằm giúp chuYên đề của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36715.doc