Trên tinh thần từ CTHD, đối với công ty
HVĐG, người đại diện theo pháp luật của
công ty này chính là các thành viên nhận
vốn. Hay nói cách khác, cơ chế đại diện theo
pháp luật của công ty HVĐG là cơ chế nhiều
người đại diện (tập thể cùng đại diện). Việc
xác định thẩm quyền đại diện của thành viên
nhận vốn có thể được ghi nhận vào điều lệ
của công ty HVĐG. Nếu điều lệ công ty
không quy định cụ thể về những hạn chế đối
với quyền đại diện của thành viên nhận vốn,
thì người thứ ba có quyền cho rằng, tất cả các
thành viên nhận vốn đều có quyền thiết lập
mọi giao dịch nhân danh công ty HVĐG.
Mọi giao dịch được thiết lập bởi thành viên
nhận vốn trong phạm vi các ngành nghề hoạt
động kinh doanh của công ty đều làm phát
sinh trách nhiệm của công ty. Nếu thành viên
nhận vốn thực hiện hành vi ngoài phạm vi
các ngành nghề kinh doanh đã đăng ký của
công ty HVĐG, sẽ không thuộc trách nhiệm
của công ty, trừ khi được tất cả các thành
viên nhận vốn còn lại chấp thuận.
Còn các thành viên góp vốn, tinh thần
chung pháp luật hầu hết các quốc gia, trong
đó có cả pháp luật Việt Nam, là đều không
quy định cho các thành viên này có tư cách
thương nhân (thương gia). Vì vậy, thành viên
góp vốn không thể nhân danh công ty
HVĐG giao dịch với bên ngoài. Nếu thành
viên góp vốn tự đứng ra kinh doanh nhân
danh cho công ty, họ sẽ mất quyền chịu trách
nhiệm hữu hạn và tư cách pháp lý của thành
viên góp vốn trong công ty sẽ chuyển sang
thành các thành viên nhận vốn.
Tóm lại, quyền đại diện cho công ty
HVĐG trong các giao dịch với bên ngoài chỉ
thuộc về các thành viên nhận vốn. Thành
viên góp vốn hoàn toàn không có quyền đại
diện cho công ty trước các giao dịch với
người thứ ba vì họ không có tư cách thương
nhân.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và có chế đại diện của công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật một số quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÚ CÊËU TÖÍ CHÛÁC, QUAÃN TRÕ ÀIÏÌU HAÂNH VAÂ CÚ CHÏË ÀAÅI DIÏåN
CUÃA CÖNG TY HÚÅP VÖËN ÀÚN GIAÃN THEO PHAÁP LUÊÅT MÖÅT SÖË QUÖËC GIA
NguyễN VINh hưNg*
1. Cơ cấu tổ chức của công ty hợp vốn đơn
giản
Công ty HVĐG, CTHD là các loại hình
công ty xuất hiện từ khá lâu và phổ biến tại
nhiều quốc gia. Pháp luật vẫn thường công
nhận CTHD và công ty HVĐG đều là loại
hình đặc trưng của công ty đối nhân2.
Theo Maurice Cozian và Alian Viandier
thì về cơ bản, công ty đối nhân không có cơ
cấu tổ chức nặng nề như công ty đối vốn.
Những quy định của pháp luật mang tính
chất bắt buộc đối với loại hình công ty này
rất ít. Các công ty này được “thả lỏng” hết
tầm. Hội viên có quyền huy động trí tưởng
tượng và đầu óc sáng tạo của mình, không lệ
thuộc vào ai. Họ hoàn toàn có quyền tự tạo
ra khuôn mẫu phù hợp với nhu cầu của họ,
vừa nhẹ nhàng vừa hiệu quả3. Và cũng tại
Pháp, người ta cho rằng, chế độ công ty hợp
tư đơn giản (công ty HVĐG) là dập theo
khuôn mẫu CTHD; chính luật pháp cũng
tuyên bố rằng những quy định đối với CTHD
cũng áp dụng đối với công ty hợp tư đơn
giản, trừ những quy định riêng biệt. Những
quy định riêng biệt này chủ yếu liên quan
58
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Hiện nay, các quy định về công ty hợp danh (CTHD) tại Luật Doanh nghiệp năm
2014 của Việt Nam chưa thật sự rõ ràng. Khi phân tích các đặc điểm của CTHD ta
thấy, công ty này bị gắn với một hình thức công ty khác là công ty hợp vốn đơn giản
(HVĐG) để cùng được gọi là “công ty hợp danh”1. Luật Doanh nghiệp không phân
biệt rõ ràng hai loại công ty, dẫn đến không thể thiết lập quy chế pháp lý riêng cho
từng loại hình công ty. Trong khi đó, pháp luật ở nhiều quốc gia trên thế giới đều
phân định rạch ròi CTHD và công ty HVĐG (còn được gọi là CTHD hữu hạn) và
điều chỉnh chúng bằng từng đạo luật riêng biệt. Vì vậy, việc nghiên cứu quy định
pháp luật một số quốc gia về vấn đề cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành, cơ chế đại
diện của công ty HVĐG là cần thiết và có nhiều giá trị thực tiễn.
* TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
1 Ngô Huy Cương, Khái niệm công ty hợp danh tại Luật Doanh nghiệp năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11(148),
06/2009.
2 Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Giáo trình Luật Thương mại, Tập I, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011,
tr. 115.
3 Maurice Cozian, Alian Viandier, Tổ chức công ty, dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “Droit des societes: Litec. 1988, Viện Khoa
học pháp lý - Bộ Tư pháp, 1990, tr. 173 - 174.
đến vai trò người hội viên xuất vốn (thành
viên góp vốn)4.
Còn tại Đức, pháp luật quy định đối với
công ty HVĐG về nguyên tắc tổ chức tương
tự CTHD5.
Tại Việt Nam trước đây, do chịu ảnh
hưởng từ pháp luật Cộng hòa Pháp nên các
quy định về cơ cấu tổ chức của công ty hợp
tư đơn thường (hay Hội hợp tư đơn thường)
như sau: “Những thể lệ quản lý công ty hợp
tư đơn thường cũng giống như thể lệ quản lý
CTHD. Những điều giải thích về CTHD cho
trường hợp công ty có một quản lý hay nhiều
quản lý đều ứng dụng được cho công ty hợp
tư đơn thường”6.
Hiện nay, từ các quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2014 về cơ cấu tổ chức
của loại hình CTHD cho thấy, đây “là một
loại công ty mà sự liên hệ giữa các thành
viên rất gắn bó, không chỉ về quyền lợi mà
còn vì quy chế liên đới trách nhiệm, Luật
Doanh nghiệp dành cho CTHD quyền tự chủ
rất lớn trong tổ chức và quản lý doanh
nghiệp”7. Những nguyên tắc pháp định về cơ
cấu tổ chức của CTHD mà Luật Doanh
nghiệp năm 2014 yêu cầu bao gồm: Hội
đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành
viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công
ty Các vấn đề còn lại, luật cho phép các
thành viên hợp danh (Luật Doanh nghiệp
năm 2014 gọi các thành viên nhận vốn của
công ty HVĐG là thành viên hợp danh) được
tự do thỏa thuận với nhau.
Đối với Hội đồng thành viên, Luật
Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Tất cả
thành viên hợp lại thành Hội đồng thành
viên”8. Như vậy, Hội đồng thành viên sẽ là
cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất
và duy nhất của công ty HVĐG. Về nguyên
tắc, Hội đồng thành viên là cơ quan quản lý
chung và do tất cả các thành viên cùng nhau
hợp lại.
Về Chủ tịch Hội đồng thành viên, luật
quy định Hội đồng thành viên sau khi được
lập ra sẽ bầu một thành viên hợp danh để làm
Chủ tịch Hội đồng thành viên nếu điều lệ
công ty không quy định khác. Như vậy, Chủ
tịch Hội đồng thành viên chỉ có thể là một
thành viên hợp danh. Nếu căn cứ điểm b
khoản 1 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm
2014, thì thành viên hợp danh bắt buộc phải
là cá nhân. Khác với Luật Doanh nghiệp năm
2014 của Việt Nam, pháp luật một số quốc
gia như Cộng hòa Pháp, thường cho phép
người quản lý có thể là pháp nhân hoặc
người ngoài công ty. Theo Francis Lemeu-
nier: “công ty có thể chỉ định một hay nhiều
người quản lý trong hay ngoài số thành
viên”9; và “công việc quản lý có thể trao cho
một pháp nhân”10.
Đối với chức danh Giám đốc (hoặc Tổng
giám đốc), theo khoản 1 Điều 177 Luật
Doanh nghiệp năm 2014, Giám đốc (hoặc
Tổng giám đốc) có thể do Chủ tịch Hội đồng
thành viên kiêm nhiệm. Quyền hạn và nghĩa
vụ của Giám đốc (Tổng giám đốc) tương tự
Chủ tịch Hội đồng thành viên. Ngoài ra,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc cũng phải là
thành viên hợp danh.
Về vai trò của các thành viên góp vốn
trong cơ cấu tổ chức của công ty HVĐG:
Không phải là đối tượng chịu trách nhiệm
59
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
4 Như trên, tr. 191.
5 Friedrich Fubler, Jurgen Simon, Mấy vấn đề pháp luật Kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1992, tr. 35.
6 Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ, Nguyễn Tân, Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải, Quyển II, Nxb. Sài Gòn Kim lai ấn quán,
1973, tr. 801.
7 Nguyễn Hợp Toàn, Giáo trình Pháp luật Kinh tế, Khoa Luật - Đại học Kinh tế Quốc dân, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà
Nội, 2012, tr. 206.
8 Khoản 1 Điều 177 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
9 Francis Lemeunier, Nguyên lý và thực hành Luật Thương mại, Luật Kinh doanh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.
197.
10 Maurice Cozian, Alian Viandier, Tổ chức công ty, dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “Droit des societes: Litec. 1988, tr. 22.
đến cùng như thành viên nhận vốn, về lý
thuyết, thành viên góp vốn chỉ cần chuyển
nhượng phần vốn góp của họ là họ đã hết
trách nhiệm với công ty. Với vai trò chỉ là
người đóng góp nguồn tài chính để hưởng lợi
nhuận nên thành viên góp vốn không được
tham gia vào bộ máy quản trị điều hành của
công ty. Thành viên góp vốn chỉ có thể tham
gia biểu quyết các vấn đề quan trọng của
công ty như: sửa đổi, bổ sung điều lệ của
công ty, tổ chức lại, giải thể công ty và những
vấn đề khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của họ với số phiếu do điều lệ công ty quy
định...
Tóm lại, cơ cấu tổ chức của công ty
HVĐG là sự rập khuôn của CTHD. Nhờ tính
an toàn pháp lý khá cao nên pháp luật hầu
hết các quốc gia đều không muốn can thiệp
quá sâu vào việc quy định cơ cấu tổ chức của
công ty HVĐG. Những quy định của pháp
luật mang tính chất bắt buộc đối với công ty
này thường khá ít. Qua đó góp phần nâng cao
khả năng tự chủ và linh hoạt cho công ty. Tuy
nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2014 của Việt
Nam lại có khuynh hướng can thiệp khá
nhiều đến cơ cấu tổ chức của CTHD và công
ty HVĐG.
2. Quản trị điều hành công ty hợp vốn đơn
giản
Pháp luật nhiều quốc gia thường duy trì
một quy chế tương đối mềm mỏng đối với
việc quản trị công ty HVĐG để bảo đảm cho
công ty này hoạt động một cách linh động và
hiệu quả. Vì vậy, “luật pháp rất ít quy định
bắt buộc đối với họ. Họ có thể tự tổ chức ra
cơ chế điều hành hoạt động của công ty, họ
cũng không nhất thiết phải có điều lệ hoạt
động, không có quy định vốn pháp định”11.
Qua đó, quyền tự quyết và vai trò của các
thành viên nhận vốn được nâng cao và đồng
thời phát huy khả năng sáng tạo trong kinh
doanh của họ.
Nghiên cứu pháp luật về quản trị CTHD
hữu hạn tại Hoa Kỳ, “một CTHD hữu hạn
tồn tại một hoặc nhiều thành viên nhận vốn
là những người thực hiện việc quản trị điều
hành kinh doanh và một hoặc nhiều thành
viên góp vốn là những người ít có quyền
hạn hơn”12. Ngoài ra, “nếu một thành viên
góp vốn tham gia trong việc điều hành kinh
doanh sẽ chịu trách nhiệm cho các chủ nợ
của hợp danh như là một thành viên nhận
vốn”13. Thành viên góp vốn không có tiếng
nói trong việc quản trị kinh doanh hàng
ngày của công ty14. Còn theo David L.
Baumer và J.C. Poindexter: “để duy trì tình
trạng được bảo vệ của mình, một thành viên
góp vốn phải là một nhà đầu tư thụ động
(passive investor) trong hợp danh, không
được tham gia quản trị”15.
Đối với loại hình CTHD hữu hạn tại Thái
Lan: “một CTHD hữu hạn phải được quản trị
chỉ bởi các thành viên chịu trách nhiệm
không giới hạn”. Căn cứ quy định này, việc
quản trị của công ty phải được giao cho các
thành viên nhận vốn, còn thành viên góp vốn
không có quyền tham gia quản trị công ty16.
Khoản 2 Điều 6 Luật CTHD hữu hạn
năm 2008 của Singapore quy định: “Thành
viên góp vốn không được tham gia quản trị
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
11 Nguyễn Như Phát và Phạm Duy Nghĩa, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 151.
12 Lawrence S. Clark, Robert J. Allberts, Peter D. Kinder (1994), “Law and business the regulatory environment”, fourth edition,
McGraw-Hill, Inc, p. 396.
13 A. James Barner, Terry Morehead Dworkin, Eric L. Richards (2000), Law for business, seventh edition, Irwin McGraw-Hill,
p. 455.
14 Barbara C.S. Shea, Jennifer Haupt (1995), Entrepreneur magazine small business legal guide, John Wiley & Sons, Inc, p.
40.
15 David L. Baumer, J.C. Poindexter (2004), Legal environment of business in the information age, McGraw-Hill, Irwin, p. 451.
16 Section 1087, The Thailand Civil and Commercial code.
trong CTHD hữu hạn. Nếu một thành viên
góp vốn tham gia vào việc quản trị của
CTHD hữu hạn, thì người này phải chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ của
CTHD hữu hạn phát sinh trong khi tham gia
quản trị như thể người này là một thành viên
nhận vốn”17.
Tại Úc và New Zealand, thành viên góp
vốn không có quyền tham gia trong việc quản
lý điều hành của CTHD hữu hạn và thành
viên góp vốn sẽ bị mất tình trạng được hưởng
chế độ trách nhiệm hữu hạn nếu họ tham gia
vào việc quản lý điều hành công ty18.
Còn ở Canada, “trong một CTHD hữu
hạn, các thành viên góp vốn là thụ động và
các thành viên nhận vốn là người quản trị và
điều hành kinh doanh của hợp danh. Thành
viên góp vốn bị hạn chế tham gia điều hành
kinh doanh của hợp danh, nếu trái lại có thể
dẫn tới sự mất đi trách nhiệm hữu hạn của
thành viên đó”19. Tác giả Bruce Welling lý
giải thêm: “để đổi lấy trách nhiệm hữu hạn,
thành viên góp vốn không được quyền tham
gia trong việc điều hành quản trị của hợp
danh hữu hạn. Đó là đặc quyền chỉ thuộc về
thành viên nhận vốn. Nên một thành viên
góp vốn tham gia vào việc điều hành hoặc
quản trị của hợp danh hữu hạn, thành viên
góp vốn sẽ bị chịu trách nhiệm như một
thành viên nhận vốn”20.
Trước đây, vấn đề quản trị điều hành
công ty HVĐG tại Việt Nam diễn ra như sau:
“Công việc quản lý điều hành công ty cấp
vốn đơn giản bao giờ cũng do hội viên thụ
cấp phụ trách. Người cấp vốn không được
tham dự vào việc ấy”21. Nói cách khác, “việc
quản trị công việc của hội thuộc thẩm quyền
các hội viên thụ tư: Điều 59 Thương mại
trung phần định rằng, các hội viên thụ tư là
quản lý và quản trị hội cũng như hội hợp
danh. Điều 60 nói thêm rằng hội viên xuất tư
không được có tên trong danh hội, và theo
Điều 61 (Điều 27 Thương mại Pháp), hội
viên xuất tư không được làm một hành vi
quản lý nào; nếu vi phạm sẽ bị coi như hội
viên một hội hợp danh”22.
Quy định tương tự, Bộ luật Thương mại
năm 1972 cho rằng: “Việc quản lý hội hợp
tư đơn thường tuân theo những điều khoản
ấn định cho hội hợp danh. Tuy nhiên, hội
viên xuất tư không được làm một hành vi
quản lý nào, dẫu là có giấy ủy quyền, nếu
không họ sẽ bị coi như hội viên thụ tư đối
với đệ tam nhân”23.
Từ những nhận định trên cho thấy, công
ty HVĐG có thể chỉ bao gồm một (hoặc
nhiều) thành viên nhận vốn và cộng với một
(hoặc nhiều) thành viên góp vốn. Nếu xét từ
số lượng thành viên nhận vốn, lại có thể chia
công ty HVĐG thành hai loại: (i) công ty có
một thành viên nhận vốn; (ii) công ty có nhiều
thành viên nhận vốn. Trong trường hợp công
ty chỉ có một thành viên nhận vốn (i), thì
chính thành viên đó sẽ là người duy nhất quản
lý điều hành công ty, có tư cách thương nhân
và đương nhiên sẽ đại diện theo pháp luật cho
công ty. Trường hợp công ty có nhiều thành
viên nhận vốn (ii), việc quản trị điều hành
công ty sẽ giống với quản trị của CTHD.
Như vậy, khi so sánh với các quy định của
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
17 Limited Partnerships Act 2008, Singapore.
18 Higgins and Fletcher (1991), The Law of Partnership in Australia and New Zealand, sixth edition, The law book company
limited, pp. 72 - 75.
19 Bruce Welling, Lionel Smith, Leonard I. Rotman (2010), Canadian Corporate law, Cases, Notes & Materials, 4th edition,
Lexis Nexis, pp. 49 - 50.
20 Bruce Welling, Lionel Smith, Leonard I. Rotman (2010), Canadian Corporate law, Cases, Notes & Materials, 4th edition, p.
52.
21 Lê Tài Triển, Luật Thương mại toát yếu, Quyển 2, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1959, tr. 51 - 54.
22 Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ, Nguyễn Tân, Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải, 1973, tr. 811.
23 Điều 200, Bộ luật Thương mại năm 1972.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 về CTHD thì
bộ máy quản trị của CTHD hiện nay tương
đối đơn giản. CTHD bao gồm Hội đồng thành
viên, Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc).
Về Hội đồng thành viên, như đã trình
bày, đây là cơ quan có thẩm quyền quyết
định cao nhất của công ty HVĐG. Thông
thường, Hội đồng thành viên khi quyết định
các vấn đề của công ty sẽ dưới hình thức biểu
quyết. Khi biểu quyết, trừ trường hợp điều lệ
công ty quy định khác, mỗi thành viên nhận
vốn có một phiếu biểu quyết và có giá trị
ngang nhau. Phiếu biểu quyết của thành viên
nhận vốn không phụ thuộc vào mức vốn góp
của họ tại công ty HVĐG. Cần lưu ý, “trong
các trường hợp công ty có sự tham gia của
cả thành viên góp vốn và thành viên góp vốn
được tham gia họp, thảo luận và biểu quyết
tại Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên
phải bao gồm toàn thể các thành viên kể cả
thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
Mỗi thành viên chỉ có một phiếu bầu và
quyết định của Hội đồng được thông qua bởi
ít nhất 3/4 số thành viên hợp danh nhất trí
chấp thuận”24.
Về Chủ tịch Hội đồng thành viên, do
cũng là một thành viên nhận vốn nên Chủ
tịch Hội đồng thành viên đương nhiên có đầy
đủ các quyền năng của một thành viên nhận
vốn thông thường. Chủ tịch Hội đồng thành
viên còn có một số quyền và nghĩa vụ như:
triệu tập và làm chủ tọa Hội đồng thành viên
khi xét thấy cần thiết, ký các quyết định hoặc
nghị quyết của Hội đồng thành viên; quản lý
và điều hành công việc kinh doanh hàng
ngày của công ty; phân công, phối hợp công
việc kinh doanh giữa các thành viên; đại diện
cho công ty
Về Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc), căn
cứ Luật Doanh nghiệp năm 2014 các chức
danh này có những quyền hạn như: quản lý
và điều hành công việc kinh doanh hàng
ngày; triệu tập và tổ chức họp Hội đồng
thành viên, ký các quyết định hoặc nghị
quyết của Hội đồng thành viên; đại diện cho
công ty trong quan hệ với nhà nước, tranh
chấp thương mại Ngoài ra, đây cũng là
một thành viên nhận vốn, nên đương nhiên
Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) còn có các
quyền của một thành viên nhận vốn.
Về vai trò của thành viên nhận vốn trong
việc quản trị điều hành công ty HVĐG: Là
những thành viên giữ vai trò quyết định tại
công ty, nên tất cả các công việc quản trị điều
hành tại công ty đều do các thành viên nhận
vốn chịu trách nhiệm. Có tài liệu gọi các
thành viên nhận vốn là các thành viên quản
trị: “Thành viên nhận vốn (hay còn gọi là
thành viên quản trị) là người quản lý và sử
dụng vốn, người trực tiếp điều hành công ty.
Các thành viên này có trách nhiệm và nghĩa
vụ như các thành viên trong CTHD, nghĩa là
họ phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi
khoản nợ của công ty. Thành viên nhận vốn
có trách nhiệm cao hơn thành viên góp vốn
nên đương nhiên họ có quyền lớn hơn thành
viên góp vốn. Họ có quyền lấy tên mình đặt
tên cho công ty, có quyền quản lý công ty,
quyền đại diện cho công ty trong quan hệ đối
ngoại”25.
Đối với vai trò của thành viên góp vốn
trong việc quản trị điều hành công ty HVĐG
thì các thành viên góp vốn không có quyền
quản lý điều hành công ty. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 quy định: “Thành viên góp
vốn không được tham gia quản lý công ty,
không được tiến hành công việc kinh doanh
nhân danh công ty”26. Tuy nhiên, thành viên
góp vốn vẫn có quyền tham gia biểu quyết
về các vấn đề quan trọng như: sửa đổi, bổ
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
24 Nguyễn Mạnh Bách, Các công ty thương mại, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2006, tr. 83.
25 Nguyễn Thị Thu Vân, Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998 tr. 34.
26 Điểm b khoản 2 Điều 182 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
sung điều lệ của công ty, tổ chức lại, giải thể
công ty và những vấn đề khác liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của họ...
Tóm lại, tinh thần chung của pháp luật
nhiều quốc gia là việc quản trị điều hành
công ty HVĐG (trong trường hợp công ty có
nhiều thành viên nhận vốn) tương tự CTHD.
Chỉ các thành viên nhận vốn mới có quyền
quản trị điều hành công ty, còn các thành
viên góp vốn không được tham gia quản trị
công ty. Nếu công ty HVĐG chỉ có một
thành viên nhận vốn, thì chính thành viên đó
sẽ là người duy nhất quản lý điều hành công
ty. Trong mọi trường hợp, thành viên góp
vốn chỉ được tham gia những vấn đề nội bộ
(quan trọng) mà có liên quan trực tiếp đến
quyền và nghĩa vụ của họ.
3. Cơ chế đại diện của công ty hợp vốn
đơn giản
Một công ty luôn bắt buộc phải có người
đại diện theo pháp luật trong suốt quá trình
hoạt động. Việc xác định người đại diện theo
pháp luật của công ty có ý nghĩa quan trọng,
vì điều đó còn để bảo vệ quyền lợi của công ty
và của các thành viên công ty. Mặt khác, còn
để đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi
phát sinh các quan hệ giao dịch với công ty.
Đối với các loại hình của công ty đối
vốn, cơ chế đại diện được pháp luật quy định
rất cụ thể: người đại diện theo pháp luật của
công ty trách nhiệm hữu hạn là Chủ tịch Hội
đồng thành viên hoặc Giám đốc (Tổng giám
đốc); công ty cổ phần là Chủ tịch Hội đồng
quản trị hoặc Giám đốc (Tổng giám đốc).
Nhưng với các loại hình của công ty đối
nhân, pháp luật thường không quy định rõ
ràng cơ chế đại diện của các công ty này.
Tuy nhiên, với quy định khá tương đồng của
pháp luật tại nhiều quốc gia, các thành viên
góp vốn không được tham gia quản lý và đại
diện cho công ty HVĐG trong các giao dịch
với người thứ ba. Chỉ các thành viên nhận
vốn mới là những đối tượng đại diện cho
công ty HVĐG.
Pháp luật Hoa Kỳ quy định: “thành viên
góp vốn không có quyền thực tế hoặc rõ ràng
để đại diện cho CTHD hữu hạn. Chỉ các
thành viên nhận vốn mới là những người
quản lý và đại diện duy nhất”27.
Điều 68 Luật CTHD (sửa đổi năm 2006)
của Trung Quốc quy định: “một thành viên
góp vốn không được thực hiện các công việc
của hợp danh, cũng không được đại diện cho
CTHD hữu hạn với bên ngoài”28.
Án lệ trước đây tại Việt Nam cho rằng,
sự kiểm soát của người cấp vốn chỉ cho phép
người này can thiệp trong nội bộ, chỉ có thể
giao dịch với hội viên để bàn định công việc
hội, nhưng không được giao dịch với người
đệ tam với tư cách đại diện cho hội. Nếu
người cấp vốn can thiệp vào việc quản lý hội
thì đối với người đệ tam đã giao dịch với y,
y sẽ bị coi như một hội viên đồng danh,
nghĩa là phải chịu trách nhiệm bản thân và
liên đới với các hội viên khác về sự cam kết
với người đệ tam ấy29. Trong hội hợp tư đơn
thường, chỉ các hội viên thụ tư mới có tư
cách thương gia và họ mới có quyền quản lý
và đại diện. Còn các hội viên xuất tư không
có tư cách thương gia nên không thể quản lý
và đại diện cho hội30.
Quy định tại Điều 195 Bộ luật Thương
mại năm 1972: “Hội viên xuất tư không có
tư cách thương gia”. Căn cứ Bộ luật này, chỉ
các hội viên thụ tư mới có tư cách thương
gia.
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
27 Lawrence S. Clark, Robert J. Allberts, Peter D. Kinder (1994), “Law and business the regulatory environment”, fourth edition,
McGraw-Hill, Inc, p. 400.
28 Article 68, Partnership Enterprise Law of the People`s Republic of China (Amended in 2006).
29 Lê Tài Triển, Luật Thương mại toát yếu, Quyển 2, 1959, tr. 55 - 56.
30 Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ, Nguyễn Tân, Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải, 1973, tr. 801 - 805.
Hiện nay, theo các quy định tại khoản 1
Điều 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014,
người quản lý của CTHD là tất cả các thành
viên hợp danh, đồng thời các thành viên hợp
danh đều có quyền đại diện cho công ty trong
các quan hệ pháp luật. Hạn chế đối với thành
viên hợp danh trong việc thực hiện công việc
kinh doanh của công ty chỉ có hiệu lực với
người thứ ba khi người thứ ba biết về hạn chế
đó. Qua đó, có thể nhận thấy rằng, “CTHD
không có bộ máy quản lý tập trung. Các
thành viên hợp danh trực tiếp quản lý điều
hành công ty. Vì vậy, bất kỳ thành viên hợp
danh nào cũng có quyền đại diện cho công
ty. Ngược lại, công ty cũng có quyền đại diện
cho các thành viên hợp danh”31.
Trên tinh thần từ CTHD, đối với công ty
HVĐG, người đại diện theo pháp luật của
công ty này chính là các thành viên nhận
vốn. Hay nói cách khác, cơ chế đại diện theo
pháp luật của công ty HVĐG là cơ chế nhiều
người đại diện (tập thể cùng đại diện). Việc
xác định thẩm quyền đại diện của thành viên
nhận vốn có thể được ghi nhận vào điều lệ
của công ty HVĐG. Nếu điều lệ công ty
không quy định cụ thể về những hạn chế đối
với quyền đại diện của thành viên nhận vốn,
thì người thứ ba có quyền cho rằng, tất cả các
thành viên nhận vốn đều có quyền thiết lập
mọi giao dịch nhân danh công ty HVĐG.
Mọi giao dịch được thiết lập bởi thành viên
nhận vốn trong phạm vi các ngành nghề hoạt
động kinh doanh của công ty đều làm phát
sinh trách nhiệm của công ty. Nếu thành viên
nhận vốn thực hiện hành vi ngoài phạm vi
các ngành nghề kinh doanh đã đăng ký của
công ty HVĐG, sẽ không thuộc trách nhiệm
của công ty, trừ khi được tất cả các thành
viên nhận vốn còn lại chấp thuận.
Còn các thành viên góp vốn, tinh thần
chung pháp luật hầu hết các quốc gia, trong
đó có cả pháp luật Việt Nam, là đều không
quy định cho các thành viên này có tư cách
thương nhân (thương gia). Vì vậy, thành viên
góp vốn không thể nhân danh công ty
HVĐG giao dịch với bên ngoài. Nếu thành
viên góp vốn tự đứng ra kinh doanh nhân
danh cho công ty, họ sẽ mất quyền chịu trách
nhiệm hữu hạn và tư cách pháp lý của thành
viên góp vốn trong công ty sẽ chuyển sang
thành các thành viên nhận vốn.
Tóm lại, quyền đại diện cho công ty
HVĐG trong các giao dịch với bên ngoài chỉ
thuộc về các thành viên nhận vốn. Thành
viên góp vốn hoàn toàn không có quyền đại
diện cho công ty trước các giao dịch với
người thứ ba vì họ không có tư cách thương
nhân.
Khi phân tích nền kinh tế Việt Nam hiện
tại và dự đoán sự phát triển trong một tương
lai gần, có nhiều cơ sở cho rằng mô hình kinh
doanh sẽ vẫn là các doanh nghiệp với quy
mô nhỏ hoặc vừa. Đồng thời, các doanh
nghiệp vẫn luôn đề cao sự tin tưởng giữa
những người cùng tham gia. Còn khi nghiên
cứu tâm lý kinh doanh cũng như các điều
kiện kinh tế - xã hội tại Việt Nam, có thể thấy
rằng, công ty HVĐG đáp ứng khá đầy đủ và
rất phù hợp với các điều kiện trên. So với
CTHD, công ty HVĐG có khả năng linh
động hơn trong việc gọi vốn đầu tư và đồng
thời hạn chế bớt rủi ro cho nhà đầu tư. Vì
vậy, Luật Doanh nghiệp của Việt Nam nên
quy định công ty HVĐG là một loại hình
công ty độc lập với CTHD để phù hợp với
tinh thần chung của pháp luật thế giới. Đồng
thời, điều này còn góp phần phát triển loại
hình công ty HVĐG tại Việt Nam n
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
31 Nguyễn Đình Tài, Bài giảng Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 256.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_cau_to_chuc_quan_tri_dieu_hanh_va_co_che_dai_dien_cua_con.pdf