Phương thức vận hành đa dạng, chủ yếu
thể hiện mối quan hệ phối hợp, phân công và
hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện quyền lực
nhà nước và chịu sự chi phối bởi các quan
điểm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Những đặc thù của thể chế và thiết chế
bảo vệ hiến pháp có ảnh hưởng quan trọng
đến phương thức vận hành của cơ chế bảo vệ
hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam. Khi
thiết chế bảo vệ hiến pháp bao gồm nhiều cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền liên quan đến
bảo vệ hiến pháp thì thể chế và phương thức
vận hành của cơ chế bảo vệ hiến pháp bao gồm
nhiều loại, rất đa dạng. Các phương thức đó
tồn tại trong nhiều nguồn của thể chế bảo vệ
hiến pháp. Sự vận hành của cơ chế bảo vệ hiến
pháp có thể tiến hành thông qua các hình thức
như kiểm tra văn bản, chất vấn, xem xét báo
cáo, tổ chức đoàn giám sát v.v. Mỗi hình thức
lại được tiến hành với những quy trình, thủ tục
khác nhau. Trình tự, thủ tục bảo vệ hiến pháp,
mối quan hệ giữa thiết chế bảo vệ hiến pháp
và các cơ quan khác thể hiện sự phối hợp hoặc
kiểm soát bên trong của các cơ quan.
Đặc biệt, phương thức vận hành của cơ
chế bảo vệ hiến pháp vẫn thể hiện và chịu sự
ảnh hưởng bởi quan điểm lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng khác biệt
lớn của phương thức bảo vệ hiến pháp trong
NNPQ XHCN Việt Nam so với các phương
thức bảo vệ hiến pháp khác. Hiện nay, sự vận
hành của cơ chế bảo vệ hiến pháp trong NNPQ
XHCN Việt Nam đặt trong sự chỉ đạo mang
tính phân công và phối hợp để thực hiện quyền
lực nhà nước. Nhưng khi quan điểm về việc
xác lập cơ chế tài phán về những hành vi vi
hiến trong hoạt động lập pháp, hành pháp và
tư pháp được khẳng định trong Văn kiện Đại
hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam được triển
khai sẽ dẫn đến những thay đổi trong phương
thức vận hành của cơ chế bảo vệ hiến pháp
trong NNPQ XHCN Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế bảo vệ hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Cơ chế bảo vệ hiến pháp và các yếu tố
cấu thành
Hiện nay, ở nước ta có nhiều quan điểm
khác nhau về bảo vệ hiến pháp và cơ chế bảo
vệ hiến pháp.
Bảo vệ hiến pháp
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “bảo hiến
(bảo vệ hiến pháp) có thể được hiểu là tổng
hợp các biện pháp giữ gìn, chống lại sự vi
phạm các nguyên tắc và quy phạm của hiến
pháp”1. Quan điểm này hiểu bảo vệ hiến pháp
theo nghĩa rộng và đã đồng nhất bảo vệ hiến
pháp với bảo đảm hiến pháp.
Quan điểm khác lại coi “bảo vệ hiến pháp
là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền ra
phán quyết về tính hợp hiến hoặc bất hợp hiến
của văn bản pháp luật, qua đó làm phát sinh
hệ quả pháp lý vô hiệu hóa văn bản pháp luật
vi hiến”2. Quan điểm này đã thu hẹp nội hàm
của khái niệm bảo vệ hiến pháp, coi bảo vệ
hiến pháp chỉ bao gồm hoạt động xem xét và
bảo đảm tính hợp hiến của văn bản quy phạm
pháp luật.
Chúng tôi cho rằng, bảo vệ hiến pháp là tổng
hợp các hoạt động được tiến hành bởi các chủ
thể mà hiến pháp xác định thẩm quyền nhằm
bảo đảm sự tôn trọng, giữ gìn hiến pháp, ngăn
ngừa, chống lại và triệt tiêu hành vi vi hiến.
Nội hàm của khái niệm “bảo vệ hiến pháp”
ở đây chỉ bao hàm những hoạt động do những
chủ thể mà hiến pháp đã quy định thẩm quyền
(hiến pháp xác định nhiệm vụ và quyền hạn
nhất định liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm
sự tôn trọng, giữ gìn hiến pháp, chống lại và
triệt tiêu hành vi vi hiến) tiến hành. Bởi lẽ,
hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý do
nhân dân thiết lập, thể hiện chủ quyền và ý chí
của nhân dân; do đó, việc nhân dân giao cho ai
chịu trách nhiệm bảo vệ hiến pháp cũng phải
được thể hiện trong hiến pháp. Chính nhân dân
xác định nhiệm vụ và quyền hạn của chủ thể
tiến hành hoạt động bảo vệ hiến pháp bằng
các quy định của hiến pháp. Cách hiểu này sẽ
loại trừ những chủ thể trong xã hội có tham
TÀO THị QUYÊN *
TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CƠ CHẾ BẢO VỆ HIẾN PHÁP
(*) ThS. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Ban Công tác lập pháp, Đặng Văn Chiến (chủ biên), Cơ chế bảo hiến, Nxb. Tư pháp, H. 2005, tr. 17.
(2) Hồ Đức Anh, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006, tr. 16.
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 2312
2010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
gia thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ hiến
pháp nhưng sự tham gia đó không xuất phát từ
thẩm quyền hiến định mà chỉ là thẩm quyền
mang tính phái sinh từ hiến pháp và được quy
định bởi văn bản quy phạm pháp luật khác.
Cơ chế bảo vệ hiến pháp
Theo nghĩa rộng, cơ chế bảo vệ hiến pháp
là toàn bộ những yếu tố, phương tiện, phương
cách và biện pháp nhằm bảo đảm cho hiến
pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm
Hiến pháp có thể xảy ra.
Với nghĩa hẹp, cơ chế bảo vệ hiến pháp là
một thiết chế được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc và quy định của pháp luật,
để thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm cho
hiến pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi
phạm có thể xảy ra3.
Chúng tôi cho rằng, cơ chế bảo vệ hiến
pháp là một tổng thể các yếu tố có quan hệ mật
thiết, tương tác lẫn nhau, hình thành một hệ
thống và phương thức vận hành của hệ thống
đó để tiến hành hoạt động bảo vệ hiến pháp,
nhằm bảo đảm sự tôn trọng, giữ gìn hiến pháp,
ngăn ngừa và chống lại mọi hành vi vi phạm
hiến pháp.
Cơ chế bảo vệ hiến pháp bao gồm các yếu
tố: thể chế, thiết chế và phương thức vận hành
của cơ chế bảo vệ hiến pháp.
Thể chế bảo vệ hiến pháp: thể chế bảo vệ
hiến pháp là các nguyên tắc, quy phạm được
sắp xếp một cách logic, hợp thành một hệ
thống thống nhất, định hướng và điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động bảo vệ hiến pháp.
Thiết chế bảo vệ hiến pháp: thiết chế bảo vệ
hiến pháp được hiểu là các cơ quan nhà nước,
cá nhân được hiến pháp quy định nhiệm vụ
và quyền hạn tiến hành các hoạt động bảo vệ
hiến pháp. Việc tổ chức các thiết chế bảo vệ
hiến pháp phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử,
đặc điểm chế độ chính trị, điều kiện kinh tế -
xã hội và truyền thống pháp lý của mỗi nước.
Thiết chế bảo vệ hiến pháp là yếu tố trung tâm,
là phần “động cơ” của toàn bộ cơ chế. “Động
cơ” đó bao gồm những bộ phận nào, quyền
năng, sức mạnh hay “công năng” của mỗi bộ
phận ra sao sẽ giữ vai trò quyết định hiệu quả
của hoạt động bảo vệ hiến pháp.
Phương thức vận hành của cơ chế bảo vệ
hiến pháp: để thiết chế bảo vệ hiến pháp hoạt
động và thể chế bảo vệ hiến pháp được thực
thi, phải có phương thức vận hành. Phương
thức vận hành cơ chế bảo vệ hiến pháp tồn tại
song song với thiết chế và thể chế bảo vệ hiến
pháp. Trong cơ chế bảo vệ hiến pháp, thể chế
và thiết chế là những yếu tố thuộc diện cấu
trúc, còn nguyên tắc và phương thức hoạt động
thể hiện mối quan hệ và quy trình vận hành.
Như vậy, phương thức vận hành là phương
pháp, hình thức, biện pháp thực hiện hoạt động
bảo vệ hiến pháp của thiết chế được giao thẩm
quyền bảo vệ hiến pháp.
Mối quan hệ giữa các yếu tố của cơ chế bảo
vệ hiến pháp: thể chế bảo vệ hiến pháp là yếu tố
thiết lập nên toàn bộ cơ chế bảo vệ hiến pháp,
nó có ý nghĩa như là việc “khai sinh” và “đặt
tên” cho cơ chế, xác định mục đích, nhiệm vụ
của cơ chế bảo vệ hiến pháp, trao thẩm quyền
cho thiết chế bảo vệ hiến pháp. Thiết chế bảo
vệ hiến pháp là “cỗ máy” hiện hữu của cơ chế.
Thiết chế - với ý nghĩa là một yếu tố của cơ chế
bảo vệ hiến pháp tồn tại trong thực tế được cấu
trúc bởi các bộ phận của nó. Khi xem xét thiết
chế bảo vệ hiến pháp, người ta xem thiết chế
bảo vệ hiến pháp thuộc thể loại nào, bao gồm
các bộ phận gì; tính chất của từng bộ phận; vị
trí, chức năng của từng bộ phận có bảo đảm
thực hiện được các thẩm quyền mà thể chế trao
cho thiết chế bảo vệ hiến pháp hay không. Như
vậy, thể chế bảo vệ hiến pháp quyết định “hình
hài”, “cấu trúc”, “quy mô” của thiết chế bảo
vệ hiến pháp. Ngược lại, việc các bộ phận của
thiết chế bảo vệ hiến pháp hoạt động trong thực
tế ra sao sẽ thể hiện tính đúng đắn, sự phù hợp,
tính khả thi của thể chế bảo vệ hiến pháp (nói
cách khác là thể hiện hiệu lực của các nguyên
tắc và quy phạm về bảo vệ hiến pháp). Nguyên
tắc và phương thức vận hành của cơ chế bảo vệ
(3) GS,TS. Lê Minh Tâm, Bảo hiến, cơ chế bảo hiến và cơ chế bảo hiến Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 4/2005, tr. 33.
24 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hiến pháp là yếu tố quan trọng, không thể thiếu
của cơ chế bảo vệ hiến pháp. Việc các chủ thể
thực hiện các nguyên tắc, phương pháp, hình
thức theo những thủ tục, quy trình trong cơ chế
bảo vệ hiến pháp giúp cho “cỗ máy” thiết chế
bảo vệ hiến pháp chuyển từ trạng thái “tĩnh”
sang trạng thái “động”. Chính thiết chế bảo vệ
hiến pháp là chủ thể vận hành, thực hiện các
nguyên tắc, phương thức bảo vệ hiến pháp trên
cơ sở pháp lý là thể chế bảo vệ hiến pháp. Bằng
các phương pháp, hình thức, quy trình, thủ tục
mà các thiết chế tiến hành các hoạt động bảo
vệ hiến pháp, nguyên tắc và phương thức vận
hành tạo nên “trạng thái hoạt động” của cơ chế
bảo vệ hiến pháp. Nếu cơ sở pháp lý cho hoạt
động của thiết chế bảo vệ hiến pháp cụ thể, rõ
ràng, khoa học, đồng bộ và khả thi, cấu trúc
của thiết chế bảo vệ hiến pháp phù hợp, các
bộ phận cấu thành của nó có đủ năng lực, các
nguyên tắc, hình thức, phương pháp, thủ tục
hợp lý, công khai, rõ ràng, minh bạch thì sẽ
bảo đảm tính liên thông, kịp thời và hiệu quả
của toàn bộ cơ chế bảo vệ hiến pháp. Tóm lại,
cơ chế bảo vệ hiến pháp hoạt động dựa trên sự
tương tác giữa các yếu tố của cơ chế, sự ảnh
hưởng và quy định lẫn nhau giữa các yếu tố
của cơ chế bảo vệ hiến pháp. Thiếu bất cứ yếu
tố nào thì cơ chế bảo vệ hiến pháp cũng không
thể hoạt động được. Bất cứ khiếm khuyết nào
của mỗi yếu tố hay sự không phù hợp, không
tương thích giữa các yếu tố cấu thành cơ chế
bảo vệ hiến pháp đều ảnh hưởng đến mức độ
hiệu quả và chất lượng của mục tiêu bảo vệ
hiến pháp.
2. Đặc trưng của cơ chế bảo vệ hiến pháp
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Nhìn chung, cơ chế bảo vệ hiến pháp được
quy định bởi bản chất của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (NNPQ
XHCN Việt Nam) và mang những đặc trưng
cơ bản sau:
Thể chế bảo vệ hiến pháp trong NNPQ
XHCN Việt Nam mang tính xã hội, tính
chính trị và tính pháp lý
Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý của
mỗi quốc gia, chứa đựng những giá trị xã hội
cao quý nhất của quốc gia; do đó, thể chế bảo
vệ Hiến pháp cũng mang tính xã hội, chính trị
và pháp lý.
Tính xã hội của thể chế bảo vệ hiến pháp
thể hiện trước hết ở những nội dung liên quan
đến việc bảo đảm những giá trị nhân đạo, công
bằng, bình đẳng, bác ái, truyền thống, bản sắc
dân tộc... của quốc gia. Xét đến cùng, đây là
những tinh hoa mà cộng đồng quốc gia đó
hướng tới và giữ gìn. Điều này cũng được thể
hiện ở ngay tại những điều khoản đầu tiên của
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung
một số điều năm 2001) rằng: Nhà nước bảo
đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ
về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Tính chính trị của thể chế bảo vệ hiến pháp
thể hiện ở những nội dung liên quan đến việc
xây dựng và duy trì “kiến trúc” của hệ thống
chính trị của quốc gia. Nghiên cứu và phân tích
thể chế bảo vệ hiến pháp người ta sẽ thấy được
cấu trúc, các bộ phận, vị trí, vai trò của các bộ
phận và mối quan hệ giữa các bộ phận trong
hệ thống chính trị. Hơn nữa, người ta còn thấy
được mục tiêu chính trị tổng thể của toàn thể
hệ thống chính trị quốc gia. Lời nói đầu của
Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Hiến
pháp này quy định chế độ chính trị,... nguyên
tắc tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà
nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”.
Tính pháp lý - tính chất nổi bật nhất của
thể chế bảo vệ hiến pháp thể hiện ở những nội
dung liên quan đến khuôn mẫu xử sự, hành
vi, quy trình vận hành của cơ chế bảo vệ hiến
pháp. Nếu như những nội dung thể hiện tính
xã hội và tính chính trị có vẻ trừu tượng thì
những nội dung thể hiện tính pháp lý cụ thể và
rõ ràng hơn. Thông qua tính chất này, người ta
thấy được quốc gia theo dòng pháp luật chính
thống nào, từ đó xác định được cơ chế bảo vệ
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 2512
2010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hiến pháp của quốc gia thuộc mô hình nào;
vận dụng, tiếp thu và bổ sung thêm những đặc
điểm nào của các mô hình khác.
Thể chế bảo vệ hiến pháp xác định các
nguyên tắc phù hợp với đặc trưng của NNPQ
XHCN Việt Nam. Cụ thể:
- Nguyên tắc bảo đảm tính tối thượng của
hiến pháp là nguyên tắc quan trọng nhất, đồng
thời cũng là nguyên tắc đặc thù của hoạt động
bảo vệ hiến pháp. Thể chế bảo vệ hiến pháp
đã thể hiện đầy đủ các yêu cầu của nguyên tắc
bảo đảm tính tối thượng của hiến pháp.
Thứ nhất, Hiến pháp là luật cơ bản của
Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Điều 146, Hiến
pháp quy định: “Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước”. Hiến
pháp quy định những quan hệ nền tảng nhất,
tạo dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động của toàn
xã hội; do vậy, nó là đạo luật cơ bản, đạo luật
gốc. Các văn bản khác đều do Hiến pháp quy
định và nhằm cụ thể hoá Hiến pháp.
Thứ hai, hiệu lực tối cao của Hiến pháp
trong hệ thống văn bản pháp luật. Hiến pháp
đứng ở vị trí “đỉnh” của cấu trúc hình tháp của
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Ở vị trí
đó, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao, mọi
văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp, không được trái với Hiến pháp. Những
văn bản không phù hợp với Hiến pháp, trái với
Hiến pháp bị coi là văn bản vô hiệu.
Thứ ba, yêu cầu tôn trọng và tuân thủ Hiến
pháp của mọi chủ thể trong xã hội. Điều 12
của Hiến pháp đã khẳng định tất cả các chủ thể
trong xã hội phải tôn trọng và tuân thủ Hiến
pháp. Đồng thời, điều này cũng xác định nghĩa
vụ của tất cả các chủ thể trong việc phòng,
chống các hành vi vi phạm Hiến pháp, bảo
đảm tất cả các hành vi vi phạm Hiến pháp phải
bị phát hiện và xử lý.
Nguyên tắc bảo đảm tính tối thượng của
Hiến pháp là nguyên tắc quan trọng hàng đầu
của hoạt động bảo vệ hiến pháp. Yêu cầu của
nguyên tắc này cũng phản ánh đặc trưng không
thể thiếu của NNPQ XHCN Việt Nam; hơn
nữa, nó còn được coi là một trong các nguyên
tắc vận hành của NNPQ XHCN Việt Nam.
Nguyên tắc bảo đảm tính tối thượng của
Hiến pháp đã được Đảng Cộng sản Việt Nam
rất quan tâm. Đặc biệt, khi đề ra đường lối chỉ
đạo việc đổi mới, hoàn thiện Nhà nước và hệ
thống pháp luật của Việt Nam theo định hướng
là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn
mạnh: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong
các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền”4; “Xây dựng cơ chế phán quyết
về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp”5.
- Nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân.
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và
xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền
công dân và được quy định trong Hiến pháp
và luật”.
Các quyền con người, quyền công dân
không chỉ được tôn trọng và thừa nhận mà còn
được bảo đảm bởi Nhà nước (Điều 51 Hiến
pháp năm 1992). Bên cạnh những bảo đảm
về chính trị, kinh tế, NNPQ XHCN Việt Nam
hết sức quan tâm xây dựng những bảo đảm về
pháp lý cho việc thực hiện và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân. Nguyên tắc bảo
đảm quyền con người, quyền công dân cũng
là nguyên tắc thể hiện đặc trưng của NNPQ
XHCN Việt Nam.
- NNPQ XHCN Việt Nam có một số
nguyên tắc đặc thù so với các nguyên tắc của
các Nhà nước pháp quyền khác. Đó là nguyên
tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong
thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp” và nguyên tắc “bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước”. Vì
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 126.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 127.
26 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
vậy, nguyên tắc vận hành của cơ chế bảo vệ
hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam có
nội dung và cách thức chỉ đạo khá đặc biệt. Sự
vận hành của cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong
NNPQ XHCN Việt Nam đặt trong sự chỉ đạo
mang tính phân công và phối hợp để thực hiện
quyền lực nhà nước. Hoạt động của cơ chế bảo
vệ hiến pháp độc lập với hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp, nhằm bảo đảm tính hợp
hiến của các hoạt động lập pháp, hành pháp
và tư pháp, nhưng mục tiêu cuối cùng của nó
không phải là nhằm gây khó khăn, bác bỏ hay
triệt tiêu hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp, mà là nhằm củng cố và hoàn thiện hơn
các hoạt động đó, khắc phục những thiếu sót,
lệnh lạc và sai lầm của các cơ quan khi thực thi
quyền lực mà nhân dân ủy thác cho.
Nguyên tắc “bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước” không những không
đối lập với các nguyên tắc khác của NNPQ
XHCN Việt Nam mà còn góp phần cùng các
nguyên tắc khác bảo đảm định hướng xây
dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều đó được
minh chứng hết sức rõ ràng thông qua những
chủ trương, quan điểm chỉ đạo mang tính toàn
diện, khách quan và không ngừng đổi mới của
Đảng trong quá trình phát triển của NNPQ
XHCN Việt Nam. “Đảng lãnh đạo xây dựng và
hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam là yêu cầu
tất yếu, khách quan trong sự nghiệp đổi mới
và phát triển đất nước, bảo đảm Nhà nước ta
thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
theo định hướng XHCN. Đó là yêu cầu khách
quan về mặt chính trị của việc xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền. Song, sự lãnh đạo
của Đảng phải tuân theo những quy luật hình
thành, phát triển và hoàn thiện của Nhà nước
pháp quyền. Bất cứ ở đâu, lúc nào nếu xa rời
những yêu cầu khách quan được đặt ra từ các
quy luật này đều khó có thể đạt được mục tiêu
đề ra”6. Liên quan cụ thể đến hoạt động bảo vệ
hiến pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng
tỏ vai trò lãnh đạo không thể thiếu và thể hiện
sự lãnh đạo thường xuyên và phát triển theo
chiều hướng ngày càng sâu sắc, cụ thể nhằm
chỉ đạo, định hướng việc xây dựng và hoàn
thiện NNPQ XHCN Việt Nam ngày càng tiệm
cận gần hơn tới những giá trị đã được thừa nhận
chung của tinh hoa văn minh của nhân loại. Sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không
chỉ bảo đảm cho hoạt động của Nhà nước nói
chung và cơ chế bảo vệ hiến pháp nói riêng
vận hành thông suốt theo định hướng XHCN,
mà còn bảo đảm cho sự phát triển của cơ chế
bảo vệ hiến pháp phù hợp với quy luật của Nhà
nước pháp quyền.
Quá trình phát triển của các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn
thiện cơ chế bảo vệ hiến pháp là quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ bao quát đến cụ thể và
ngày càng đầy đủ hơn. Ban đầu, sự lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động bảo vệ hiến pháp
chỉ thể hiện thông qua những quan điểm về
bảo đảm thi hành hiến pháp và pháp luật nói
chung. Cùng với sự phát triển của các quan
điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, các
quan điểm về bảo vệ hiến pháp được đề cập
trực tiếp hơn. Lần đầu tiên thuật ngữ “cơ chế
bảo vệ luật và hiến pháp” được nhắc đến trong
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020.
Những quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng
sản có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển
của các yếu tố cấu thành cơ chế bảo vệ hiến
pháp, chi phối hoạt động của cơ chế bảo vệ
hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam.
Chẳng hạn, quan điểm về nghiên cứu “xây
dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động
và quyết định của các cơ quan công quyền”7
được khẳng định trong Văn kiện Đại hội X của
(6) Nguyễn Phước Thọ, Phương thức lãnh đạo của Đảng với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 2+3 (139+140), tháng 1/2009, tr. 60.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 126.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 127.
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 2712
2010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ quyết định nội
dung của thể chế bảo vệ hiến pháp, xu hướng
hình thành và phát triển của thiết chế bảo vệ
hiến pháp. Quan điểm “xây dựng cơ chế phán
quyết về những vi phạm hiến pháp trong hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp”8 sẽ tạo
nên bước ngoặt quan trọng dẫn đến những thay
đổi trong nguyên tắc vận hành của cơ chế bảo
vệ hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam.
Với nguyên tắc này, những hành vi vi phạm
hiến pháp không chỉ bị xem xét và xử lý bằng
các thủ tục của các cơ quan quyền lực nhà nước
hay cơ quan hành chính nhà nước, mà còn có
thể bị xem xét và giải quyết bằng thủ tục tố
tụng tư pháp. Điều này thể hiện sự tiến bộ vượt
bậc trong nhận thức của Đảng về Nhà nước
pháp quyền, về cơ chế tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước theo hướng ngày càng đề
cao quyền tư pháp và vai trò của các cơ quan tư
pháp. Quan điểm của Đảng về xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm hiến pháp trong
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng
nhằm bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước hiệu quả hơn, bảo đảm một trong các
đặc trưng của Nhà nước pháp quyền là quyền
lực nhà nước phải bị kiểm soát, quyền lực nhà
nước phải thuộc về nhân dân.
Như vậy, ý nghĩa của sự lãnh đạo của Đảng
đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước
nói chung và đối với cơ chế bảo vệ hiến pháp
trong NNPQ XHCN nói riêng là nhằm mục
tiêu bảo vệ những giá trị cao quý nhất, nhằm
hướng tới lý tưởng mà nhân dân đã lựa chọn
và đã thể hiện trong bản hiến pháp – đó là lý
tưởng về xã hội XHCN - xã hội dân giàu, công
bằng, dân chủ và văn minh.
Thiết chế bảo vệ hiến pháp được tổ chức
và hoạt động tuân theo nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và
nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản
Về vị trí, thiết chế bảo vệ hiến pháp nằm
trong bộ máy nhà nước với các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của NNPQ XHCN. Đây là
đặc điểm thể hiện sự khác biệt với thiết chế
bảo vệ hiến pháp trong các Nhà nước khác. Đa
số các Nhà nước pháp quyền trên thế giới hiện
nay, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
và tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc
phân quyền dựa trên cơ sở của học thuyết tam
quyền phân lập. Theo đó, quyền lực nhà nước
được phân chia thành quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp. Mối quan hệ
giữa các nhánh thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp là mối quan hệ kiềm
chế và đối trọng. Trong NNPQ XHCN Việt
Nam, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân
dân, thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Thiết chế bảo vệ hiến
pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam nằm trong
bộ máy nhà nước XHCN được phân công thực
hiện chức năng bảo vệ hiến pháp, bảo vệ ý chí
cao nhất của nhân dân được thể hiện trong hiến
pháp, thực hiện quyền lực thống nhất của nhân
dân. Mối quan hệ giữa thiết chế bảo vệ hiến
pháp và các cơ quan khác không phải là mối
quan hệ kiềm chế, đối trọng lẫn nhau, mà là
mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong
thực hiện quyền lực.
Điểm khác biệt quan trọng của thiết chế bảo
vệ hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam so
với các thiết chế bảo vệ hiến pháp khác là thiết
chế này đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo việc thành lập, đề ra quan điểm chỉ đạo về
cơ cấu, nhân sự, nhiệm vụ, quyền hạn... của
thiết chế bảo vệ hiến pháp.
Cơ cấu của thiết chế bảo vệ hiến pháp
NNPQ XHCN Việt Nam đang trong giai
đoạn định hình, do đó phải có những bước
chuyển đổi mang tính quá độ. Thiết chế bảo vệ
hiến pháp cũng phát triển theo quy luật chung
đó. Trong giai đoạn đầu, cơ cấu của thiết chế
không có cơ quan chuyên trách bảo vệ hiến
pháp. Hoạt động bảo vệ hiến pháp được giao
cho nhiều cơ quan và cá nhân như: Quốc hội,
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước,
Thủ tướng Chính phủ. Giữa các thiết chế có sự
28 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
phân công nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp theo hệ
thống thứ bậc: cơ quan có địa vị pháp lý cao
hơn được giao nhiệm vụ quan trọng hơn, cơ
quan có địa vị pháp lý cao hơn được quyết định
hậu quả pháp lý cao hơn đối với đối tượng chịu
sự tác động của hoạt động bảo vệ hiến pháp.
Cùng với sự phát triển của NNPQ XHCN,
thiết chế bảo vệ hiến pháp sẽ phát triển theo
hướng hình thành một cơ quan bảo vệ hiến
pháp chuyên trách.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế bảo
vệ hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam
không đa dạng và phức tạp như trong các Nhà
nước khác mà chủ yếu tập trung vào các nội
dung như: giám sát tính hợp hiến của văn bản
quy phạm pháp luật, giải thích hiến pháp, bảo
vệ quyền và tự do cơ bản của công dân. Đa số
các Nhà nước pháp quyền khác trên thế giới
tồn tại trong hệ thống chính trị đa đảng, nên
một trong các nhiệm vụ của thiết chế bảo vệ
hiến pháp là giải quyết tranh chấp xung đột
giữa các đảng phái chính trị. NNPQ XHCN
Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, vì
vậy, thiết chế bảo vệ hiến pháp trong NNPQ
XHCN Việt Nam không thực hiện nhiệm vụ
giải quyết xung đột đảng phái.
NNPQ XHCN Việt Nam vận hành theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất,
có sự phân công, phân cấp và phối hợp giữa
các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp; do vậy, trong thực tế
ít nảy sinh tranh chấp, mâu thuẫn giữa các
nhánh quyền lực và giữa trung ương và địa
phương. Nhiệm vụ giải quyết tranh chấp giữa
các nhánh quyền lực và tranh chấp trung ương
- địa phương không đặt ra đối với thiết chế bảo
vệ hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam.
Hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam
không có hiệu lực trực tiếp như hiến pháp
trong nhiều Nhà nước khác, nên cơ quan bảo
vệ hiến pháp không thụ lý và giải quyết các
khiếu kiện cá nhân liên quan đến các quyền và
tự do của công dân được quy định trong hiến
pháp. Nhiệm vụ bảo vệ quyền và tự do hiến
định của công dân trong NNPQ XHCN chủ
yếu được thực hiện thông qua hoạt động giám
sát văn bản của cơ quan nhà nước hoặc cá nhân
có thẩm quyền xem có vi phạm hoặc hạn chế
quyền và tự do của công dân hay không.
Phương thức vận hành đa dạng, chủ yếu
thể hiện mối quan hệ phối hợp, phân công và
hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện quyền lực
nhà nước và chịu sự chi phối bởi các quan
điểm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Những đặc thù của thể chế và thiết chế
bảo vệ hiến pháp có ảnh hưởng quan trọng
đến phương thức vận hành của cơ chế bảo vệ
hiến pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam. Khi
thiết chế bảo vệ hiến pháp bao gồm nhiều cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền liên quan đến
bảo vệ hiến pháp thì thể chế và phương thức
vận hành của cơ chế bảo vệ hiến pháp bao gồm
nhiều loại, rất đa dạng. Các phương thức đó
tồn tại trong nhiều nguồn của thể chế bảo vệ
hiến pháp. Sự vận hành của cơ chế bảo vệ hiến
pháp có thể tiến hành thông qua các hình thức
như kiểm tra văn bản, chất vấn, xem xét báo
cáo, tổ chức đoàn giám sát v.v.. Mỗi hình thức
lại được tiến hành với những quy trình, thủ tục
khác nhau. Trình tự, thủ tục bảo vệ hiến pháp,
mối quan hệ giữa thiết chế bảo vệ hiến pháp
và các cơ quan khác thể hiện sự phối hợp hoặc
kiểm soát bên trong của các cơ quan.
Đặc biệt, phương thức vận hành của cơ
chế bảo vệ hiến pháp vẫn thể hiện và chịu sự
ảnh hưởng bởi quan điểm lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng khác biệt
lớn của phương thức bảo vệ hiến pháp trong
NNPQ XHCN Việt Nam so với các phương
thức bảo vệ hiến pháp khác. Hiện nay, sự vận
hành của cơ chế bảo vệ hiến pháp trong NNPQ
XHCN Việt Nam đặt trong sự chỉ đạo mang
tính phân công và phối hợp để thực hiện quyền
lực nhà nước. Nhưng khi quan điểm về việc
xác lập cơ chế tài phán về những hành vi vi
hiến trong hoạt động lập pháp, hành pháp và
tư pháp được khẳng định trong Văn kiện Đại
hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam được triển
khai sẽ dẫn đến những thay đổi trong phương
thức vận hành của cơ chế bảo vệ hiến pháp
trong NNPQ XHCN Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_bao_ve_hien_phap_trong_nha_nuoc_phap_quyen_xa_hoi_chu.pdf