Thứ nhất, phân công - một hình thức
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nói một cách gián tiếp, trong phân
công đã bao hàm kiểm soát: phân công để
các quyền lực không “lấn sân” hay chồng
chéo nhau. Bản thân việc thực hiện đúng
khuôn khổ thẩm quyền đã là một cách kiểm
soát. Hơn nữa, việc phân công các quyền lực
lập pháp, hành pháp, tư pháp là nhằm bảo
đảm quyền lực chung của nhà nước không
bị độc quyền nắm giữ bởi bất cứ một nhánh
cơ quan nào. Mặt khác, giữa phân công và
kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ. Phân
công phải đi kèm với quyền tự vệ của mỗi
nhánh quyền để chống lại sự xâm phạm của
các nhánh quyền khác.
Thứ hai: phối hợp - một hình thức
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Bản chất của phối hợp là chia sẻ một
số bước trong tiến trình thực hiện công việc
- tồn tại trong mô hình tổ chức quyền lực ở
hầu khắp các quốc gia trên thế giới, dù theo
mô hình tổng thống hay nghị viện9. Có thể
minh hoạ về sự chia sẻ trong quyền làm luật
giữa nghị viện và chính phủ (trong chính thể
cộng hoà đại nghị - thể hiện qua quá trình
soạn thảo dự án luật); và giữa nghị viện và
tổng thống (trong chính thể cộng hoà tổng
thống - thể hiện qua quyền phủ quyết).
Ở Việt Nam, sự phối hợp - cũng là
nhằm mục tiêu kiểm soát tiến trình một công
việc - có thể thấy trong sự chia sẻ công việc
giữa Chính phủ, Quốc hội và Chủ tịch nước
trong ký kết các điều ước quốc tế; trong thủ
tục ban hành, thông qua và công bố các đạo
luật, pháp lệnh; trong quy trình thành lập các
cơ quan và các chức danh quan trọng của
nhà nước v.v. Thậm chí, ngay cả tư pháp -
thiết chế độc lập nhất trong các quyền lực
nhà nước - thì sự “lấn sân” của Toà án sang
các lĩnh vực khác trong đó bao gồm mục tiêu
kiểm soát có thể thấy trong việc: dù thẩm
quyền xét xử hiện hành chỉ gói gọn trong
các quyết định cá biệt, nhưng Toà án lại có
quyền kiến nghị xem xét văn bản quy phạm
pháp luật trong quá trình Toà án xét xử một
vụ án hình sự, dân sự, hành chính.
Khó có một thiết chế quyền lực nhà
nước nào có thể hoạt động riêng rẽ hay độc
chiếm một nhánh quyền. Ở khía cạnh này,
phân công, phối hợp vừa nhằm bảo đảm tính
chuyên môn hiệu quả của công việc; nhưng
cũng là một biện pháp kiềm toả đáng kể đối
với các nhánh quyền còn lại.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
PSG. TS. Nguyễn Hoàng Anh*
* Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt:
Dù quan niệm về nhà nước pháp quyền có thể khác nhau theo
kiểu châu Âu lục địa hay kiểu Anh - Mỹ, nhưng cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước luôn bao gồm các phương thức kiểm
soát trong hệ thống và kiểm soát từ bên ngoài. Ở Việt Nam,
trong số nhiều cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước thì kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp - là phương thức quan trọng, mới
được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Ngoài các cơ chế
kiểm soát chuyên biệt thì phân công, phối hợp cũng ít nhiều có
mục tiêu kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước - nhìn
từ hệ thống pháp luật hiện hành cũng như từ góc độ luật hiến
pháp so sánh.
Abstract:
Although the notion of a rule-of-law state may be different
in continental europeen’s countries to the anglo-saxon
ones, the control of state powers always includes internal
and external controls. In Vietnam, among the many
mechanisms of control of state powers, the control between
state bodies in the exercise of the legislative, executive and
judiciary powers is an important way, which is regulated
in the Constitution of 2013. In addition to specific control
mechanisms, the assignment and coordination among state
bodies in the exercise of the legislative, executive and
judiciary powers are also more or less for the goal of control
of state powers - viewed from the existing legal system as
well as comparative law.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: nhà nước pháp quyền; kiểm soát
quyền lực nhà nước; bảo hiến; luật so sánh
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 23/12/2017
Biên tập: 22/01/2018
Duyệt bài: 30/01/2018
Article Infomation:
Keywords: Rule - of - law state; control
of state powers; constitutional review;
comparative law.
Article History:
Received: 23 Dec. 2017
Edited: 22 Jan. 2018
Approved: 30 Jan. 2018
CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1. Nhà nước pháp quyền và cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước
Từ góc độ khoa học, nhà nước pháp
quyền có thể được hiểu cả hai nghĩa: hoặc
trong khuôn khổ nhà nước - một nhà nước
có bản chất “pháp quyền”; hoặc vượt ra
ngoài khuôn khổ nhà nước - một xã hội
được cai trị bằng pháp luật, và cao hơn, bởi
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 3+4 (355+356) T02/2018
công lý, do “cai trị theo luật pháp hàm ý là
phải hướng lên một nền công lý và luật pháp
ở mức cao hơn (có tính chất siêu việt mà
ai cũng hiểu) là mức bình thường của con
người hay của luật mà các chính trị gia nhất
thời ban hành”1.
Quan niệm thứ nhất - đó là quan niệm
“État de droit” kiểu Pháp hay “Rechtsstaat”
kiểu Đức (vốn là sản phẩm của giới lập
pháp và hành pháp đại diện cho giai cấp
tư sản mới lên khoảng đầu thế kỷ XVIII).
Nhà nước pháp quyền được quan niệm như
một nhà nước đặc biệt, đặt dưới một “chế
độ luật pháp”: trong nhà nước này, chính
quyền chỉ được sử dụng những phương tiện
được xác định bởi pháp luật, nhưng các cá
nhân được sử dụng những phương tiện tư
pháp để chống lại sự lạm quyền đến từ chính
quyền. Trung tâm của học thuyết nhà nước
pháp quyền là nguyên tắc các cơ quan nhà
nước chỉ có thể hành động dựa trên của sự
chính danh pháp lý. Mọi hành vi sử dụng
sức mạnh vật chất đều phải dựa trên pháp
luật. Nhà nước pháp quyền được xây dựng
dưới hình thức một trật tự của pháp luật.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi chính quyền
phải tuân thủ các quy định vốn tạo nên nền
tảng, khuôn khổ và phạm vi hoạt động của
chính quyền đó; sự tuân thủ này phải được
đảm bảo bởi sự tồn tại của một cơ chế kiểm
soát tư pháp linh hoạt, tức là hoặc bởi Tòa
án thường (Justizstaat), hoặc bởi Tòa án đặc
biệt (Sondergerichte); luật phải phù hợp với
Hiến pháp; nghị viện thực thi quyền hạn của
1 Greg Russell, “Chủ nghĩa hợp hiến”, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao (đồng chủ biên), Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến - Một số tiểu luận tổng quan của các học giả
nước ngoài (Sách tham khảo); Nxb. Lao động - Xã hội, H. 2012, tr.61.
2 Introduction to the Study of the Law of the Constitution, 1885.
3 Jacques Chevallier, “L’Etat de droit”, 4e edition, Montchretien, 2003; tr.15-21.
4 Tham khảo: Jacques Chevallier, “L’Etat de droit”, 4e edition, Montchretien, 2003; Troper M. “Le concept d’État de
droit”, Droit, no15, 1992
mình trong khuôn khổ đã được xác định bởi
Hiến pháp, xây dựng thiết chế đảm bảo sự
tôn trọng tính tối thượng của Hiến pháp.
Quan niệm thứ hai, “Rule of Law”
kiểu Anh - Mỹ (vốn đúc rút từ tập quán địa
phương và án lệ từ thế kỷ XVII), lý thuyết
của người Anh vốn được Dicey hệ thống
hóa2, được xây dựng để bảo vệ các quyền tự
do của cá nhân. Tư tưởng chủ đạo của "Rule
of law” là: 1) khẳng định uy quyền tối cao
và duy nhất của luật; 2) luật pháp phải bảo
đảm tính đại chúng, được công bố, không
hồi tố, trong sáng, hài hòa, ổn định, và trước
hết là có thể tiên liệu được; 3) tự do cá nhân
được bảo vệ bởi các Tòa án thường, nguyên
tắc bình đẳng trước luật pháp loại trừ tất cả
mọi ưu tiên về mặt tư pháp cho các nhân
viên của Hoàng gia3.
Như vậy, trong khi các quan điểm vốn
ban đầu không quá xa nhau, thậm chí là có
nhiều điểm chung, thì truyền thống của châu
Âu lục địa và Anh quốc cho đến nay đã có
nhiều khác biệt. Khác với Rule of Law - chú
trọng về mặt nội dung với mục tiêu bảo vệ
các quyền tự do của con người, “État de
droit” kiểu Pháp hay “Rechtsstaat” kiểu Đức
lại chú trọng nhiều hơn về khía cạnh hình
thức, mà cốt lõi là sự hiện diện của trật tự
pháp luật, sự kiểm soát quyền lực nhà nước
- chủ yếu là kiểm soát tư pháp4.
Từ sự khác nhau của “nhà nước pháp
quyền”, có thể liên hệ về phạm vi “kiểm soát
quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp
quyền”. Nếu như “nhà nước pháp quyền”
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 3+4 (355+356) T02/2018
được hiểu trong phạm vi nhà nước thì cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng
giới hạn là cơ chế kiểm soát trong nội bộ hệ
thống, tức là trong bộ máy nhà nước (kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau).
Nhưng hiểu “nhà nước pháp quyền” theo
hướng rộng thì cơ chế kiểm soát quyền lực
bao gồm cả trong hệ thống nhà nước và bên
ngoài xã hội.
Ở Việt Nam, khái niệm nhà nước pháp
quyền dường như được các nhà lập pháp ưu
tiên hiểu theo quan niệm đầu tiên - nhà nước
pháp quyền kiểu Pháp Đức. Theo Hiến pháp
năm 2013, “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; và
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật”(Khoản 1, Điều 8).
Chúng tôi cho rằng, dù quan điểm nào
về nhà nước pháp quyền thì cơ chế kiểm
soát nhà nước cũng cần được tiếp cận theo
nghĩa rộng: kiểm soát bên trong hệ thống và
các kiểm soát bên ngoài hệ thống.
2. Các phương thức kiểm soát quyền lực
nhà nước
2.1 Kiểm soát trong hệ thống nhà
nước và kiểm soát ngoài hệ thống nhà nước
Cách phân loại cơ bản nhất của các cơ
chế kiểm soát vẫn dựa trên phạm vi quyền lực:
kiểm soát trong hệ thống và kiểm soát ngoài
hệ thống. Kiểm soát trong hệ thống được thực
hiện bởi các cơ quan nhà nước với nhau - kiểm
soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Kiểm soát ngoài hệ thống là cơ chế
được thực hiện bởi các chủ thể ngoài nhà nước
như: công dân, cá nhân, các hiệp hội và kiểm
soát của báo chí, truyền thông.
Cách phân loại này cho phép nhìn bao
quát về toàn bộ các cơ chế kiểm soát trong
xã hội. Sự phân loại như trên cũng cho thấy
rõ đặc trưng của từng cơ chế: kiểm soát
trong hệ thống gắn với việc sử dụng quyền
lực nhà nước, với những chế tài nhà nước
có tác động trực tiếp mạnh mẽ đến các đối
tượng bị kiểm soát; trong khi đó, kiểm soát
ngoài hệ thống thường sử dụng những áp lực
có tính chất gián tiếp nhưng dài hạn hơn và
huy động được sức mạnh từ xã hội.
Cơ chế kiểm soát nội bộ bao gồm kiểm
soát theo nhánh cơ quan (lập pháp, hành
pháp, tư pháp) hoặc kiểm soát trong các quan
hệ lệ thuộc (trên - dưới); giữa các cơ quan
cùng cấp hay có mối liên hệ về chức năng
(ngang hay chéo) trong hệ thống nhà nước.
Cơ chế kiểm soát từ bên ngoài hệ
thống đang được phát triển mạnh mẽ ở Việt
Nam. Kiểm soát từ phía người dân - đó là
việc tăng cường tiếng nói và giám sát của
dân chúng - song song với việc tăng tính khả
thi rút ngắn các quy định về thủ tục khiếu
nại tố cáo; ban hành quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở, theo đó “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”, đề cao tiếng nói và
sự tham gia của dân chúng. Luật tiếp công
dân ra đời - tăng thêm vũ khí giám sát cho
người dân - không chỉ là khiếu nại hay tố
cáo trực tiếp, mà quyền kiến nghị, phản ánh
cũng được ghi nhận, giải đáp và ràng buộc
công quyền. Ngoài ra, một số văn bản luật
khác cũng trao quyền cho người dân: được
tham vấn, được góp ý trong quy hoạch đất
đai, giải phóng mặt bằng hay giám sát về ô
nhiễm môi trường; xây dựng cơ bản ở địa
phương...
Giám sát xã hội được thực hiện thông
qua vai trò của các tổ chức xã hội và truyền
thông. Với kênh giám sát thông qua các tổ
chức chính trị - xã hội, một số phương thức
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 3+4 (355+356) T02/2018
đã được luật hoá, ví dụ, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể quần chúng là nơi thu thập ý kiến,
nguyện vọng và những bức xức của người
dân thông qua quá trình tham vấn trong hệ
thống các tổ chức quần chúng. Ưu thế của
các tổ chức chính trị - xã hội là được tham
gia vào một số hoạt động nhà nước nên nắm
bắt kỹ, có thể giám sát rõ, và được trao một
số quyền hành trực tiếp như: Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là một tổ chức chính thức,
thậm chí là một tổ chức có các quyền và
nghĩa vụ được Hiến pháp quy định, được
báo cáo công tác trước Quốc hội; Mặt trận
có quyền đề xuất bãi miễn các chức danh
dân cử ở chính quyền cơ sở.
Tuy nhiên, giám sát của tổ chức xã hội
chỉ có hiệu lực khi dựa trên nền tảng minh
bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của
Nhà nước. Những kênh giám sát hiện hành
đôi khi trở nên kém mặn mà bởi sự thiếu
tin tưởng của người dân vào việc xử lý của
chính quyền. Khi kiến nghị của dân chưa
được xử lý và phản hồi một cách công khai,
minh bạch thì sẽ khó khích lệ họ tiếp tục
giám sát. Đây là cơ sở cho các thiết chế giám
sát phi chính thức hiện hành.
Giám sát xã hội còn được thực hiện
hiệu quả thông qua báo chí và truyền thông.
Là một “quyền lực thứ tư”, vai trò của báo
chí và truyền thông không ngừng được tăng
cường trong những năm gần đây. Bên cạnh
đó, các kênh truyền thông xã hội ngày càng
nở rộ, đưa những thông tin nhiều chiều về
hoạt động của chính quyền và có sức lan toả
mạnh mẽ trong xã hội, không phụ thuộc vào
sự giới hạn nào.
Một kênh giám sát nổi lên gần đây là
sức mạnh của cộng đồng - một tập thể người
không có kết nối mạnh mẽ qua các hiệp
hội hay thể chế, nhưng họ có cùng lợi ích.
Không chỉ các vụ việc có tính chính trị như
vị việc ở xã Đồng Tâm, mà ngay cả các vụ
việc có màu sắc kinh tế như các tài xế cùng
nhau trả tiền lẻ qua trạm BOT mà họ cho
rằng không đặt đúng vị trí - cũng nhằm thể
hiện một sự phản đối với các hành vi kinh
doanh - mà đằng sau đó là sự chấp thuận
của chính quyền. Kênh giám sát qua các
thiết chế phi chính thức đang hiện diện rõ
ràng trong thực tiễn, có khi vượt quá, nhưng
thường là bù đắp cho những thiết chế chính
thức nếu chưa đủ hay chưa đáng tin cậy với
người dân.
2.2 Kiểm soát nhà nước và kiểm soát
chính trị
Sự phân biệt giữa kiểm soát nhà nước
và kiểm soát chính trị cũng tương tự như sự
phân biệt giữa kiểm soát trong hệ thống nhà
nước và kiểm soát bên ngoài. Tuy nhiên, vai
trò của kiểm soát chính trị khá đặc biệt nên
cần có sự minh bạch. Ở Việt Nam, với tư
cách Đảng cầm quyền được thừa nhận trong
Hiến pháp, kiểm soát của Đảng đến hệ thống
chính quyền là rất mạnh mẽ và toàn diện.
Thông qua định hướng và theo dõi thực hiện
các định hướng chính trị, Đảng có thể kiểm
soát tầm vĩ mô các hoạt động của Nhà nước.
Đặc biệt thông qua công tác cán bộ, Đảng
nắm giữ quyền kiểm soát các chức danh
lãnh đạo trong chính quyền, từ đó có thể đi
sâu nắm bắt các hoạt động cụ thể trong hệ
thống. Trong bối cảnh hiện nay, khi cơ chế
kiểm soát quyền lực bên trong chưa hoàn
thiện, thì vai trò kiểm soát chính trị có thể
cho phép khỏa lấp những hạn chế đó. Tuy
nhiên, đây là công cuộc lâu dài và còn nhiều
thách thức khi mà những sai phạm trong hệ
thống nhà nước trở nên khá phổ biến và cố
hữu, cần đến cả những thay đổi từ nhận thức.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 3+4 (355+356) T02/2018
2.3 Kiểm soát chung và kiểm soát
chuyên biệt
Ở nước ta, bên cạnh cơ chế kiểm soát
chung, tồn tại khá nhiều cơ chế kiểm soát
chuyên biệt như: Thanh tra, Toà án, Kiểm
toán nhà nước. Ưu điểm của các cơ chế này
là tính chuyên sâu, các thủ tục kiểm soát
chặt chẽ. Tuy nhiên, nhược điểm cơ bản là
thẩm quyền còn khá hạn hẹp. Hoạt động
thanh tra, pháp chế... vẫn chỉ với tư cách
tham mưu, phục vụ cho quyết định cuối
cùng của thủ trưởng cơ quan hành chính. Vì
vậy, có ý kiến cho rằng: “Trong khi các cơ
quan chuyên trách như Thanh tra Chính phủ,
Kiểm toán Nhà nước và Bộ Công an rõ ràng
đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi,
Luật Phòng, chống tham nhũng lại giao trách
nhiệm chính trong việc tổ chức thanh tra cho
người đứng đầu các tổ chức. Hệ thống này
có hiệu quả trong việc xác định gian lận và
lãng phí hơn là phát hiện ra tham nhũng”5.
Kiểm soát của Toà án là phương thức
chuyên biệt nhất trong số các cơ chế kiểm
soát chuyên nghiệp - bởi vị trí độc lập,
khách quan và trình tự tố tụng tư pháp chặt
chẽ. Các Toà án chuyên giám sát quyền lực
công bao gồm Toà hành chính và Toà Hiến
pháp (hoặc xét xử hành chính và cơ chế tố
tụng Hiến pháp6. Sự gắn kết giữa nhà nước
pháp quyền và hai loại Toà án đặc biệt này
lớn đến mức, theo nhiều học giả nước ngoài
5 Như trên
6 Khi nói về Tòa Hiến pháp hay Tòa Hành chính, cần lưu ý rằng các Tòa chuyên trách như thế này chỉ tồn tại ở một số
nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa như Pháp, Đức và các quốc gia chịu ảnh hưởng hệ thống pháp luật này. Ở các
nước theo hệ thống luật Anglo - Sacxon, các Tòa án thường cũng có thể đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của các văn
bản pháp luật - nếu chúng có liên quan trong một vụ kiện cụ thể.
7 P. MOOR, J.-M. WOEHRLING, « Le contrôle juridictionnel de l’administration », Le contrôle de l’administration en
Europe de l’Est et de l’Ouest, Institut de recherches juridiques comparatives, Edition du CNRS, 1985op. cit., p. 57
8 Dẫn lại theo Louis Favoreu (và các tác giả khác), Luật Hiến pháp (tiếng Pháp), tái bản lần thứ 5, Nxb. Dalloz, Paris
2002, tr. 187.
thì Toà hành chính là hiện diện rõ rệt của nhà
nước pháp quyền7; và Toà Hiến pháp là “sự
đảm bảo về mặt pháp lý của Hiến pháp”8.
Mối liên quan chặt chẽ giữa nhà nước pháp
quyền và cơ chế xử lý hành chính hay cơ chế
bảo hiến được lý giải bởi lẽ đối tượng xét
xử của các loại hình tố tụng này là các đạo
luật, các văn bản pháp quy có dấu hiệu vi
hiến hay bất hợp pháp; các quyết định hành
chính, hành vi hành chính của công quyền.
Ở Việt Nam, cùng với định hướng
nhà nước pháp quyền, thiết chế xét xử hành
chính đã được xây dựng và triển khai trong
cuộc sống. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều rào
cản về thẩm quyền của Toà hành chính như
không mở rộng phạm vi tài phán sang các
quyết định quy phạm; không phải mọi quyết
định hành chính cá biệt đều có thể bị kiện ra
toà... Điều này cũng tạo nên những giới hạn
cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
hiện hành.
Trong số các cơ chế kiểm soát hiện
hành, kiểm soát nội bộ trong hệ thống công
quyền vẫn là cơ chế phổ biến, cơ bản nhất và
cũng có những thẩm quyền pháp lý rõ ràng
nhất. Kiểm soát quyền lực nội bộ có tầm
quan trọng lớn lao nhằm để chống sự lạm
quyền từ phía nhà nước, và cũng là để bảo
vệ quyền công dân, quyền con người, trật tự
pháp luật và công lý vốn là những mục tiêu
hướng đến của nhà nước pháp quyền.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 3+4 (355+356) T02/2018
3. Kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp
Cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp có thể thực hiện bằng
các phương thức sau;
Thứ nhất, phân công - một hình thức
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nói một cách gián tiếp, trong phân
công đã bao hàm kiểm soát: phân công để
các quyền lực không “lấn sân” hay chồng
chéo nhau. Bản thân việc thực hiện đúng
khuôn khổ thẩm quyền đã là một cách kiểm
soát. Hơn nữa, việc phân công các quyền lực
lập pháp, hành pháp, tư pháp là nhằm bảo
đảm quyền lực chung của nhà nước không
bị độc quyền nắm giữ bởi bất cứ một nhánh
cơ quan nào. Mặt khác, giữa phân công và
kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ. Phân
công phải đi kèm với quyền tự vệ của mỗi
nhánh quyền để chống lại sự xâm phạm của
các nhánh quyền khác.
Thứ hai: phối hợp - một hình thức
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Bản chất của phối hợp là chia sẻ một
số bước trong tiến trình thực hiện công việc
- tồn tại trong mô hình tổ chức quyền lực ở
hầu khắp các quốc gia trên thế giới, dù theo
mô hình tổng thống hay nghị viện9. Có thể
minh hoạ về sự chia sẻ trong quyền làm luật
giữa nghị viện và chính phủ (trong chính thể
cộng hoà đại nghị - thể hiện qua quá trình
soạn thảo dự án luật); và giữa nghị viện và
tổng thống (trong chính thể cộng hoà tổng
thống - thể hiện qua quyền phủ quyết).
9 Xem: Nguyễn Đăng Dung, “Bàn thêm về vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công phân quyền
và phối kết hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, số 6 năm 2007,
Ở Việt Nam, sự phối hợp - cũng là
nhằm mục tiêu kiểm soát tiến trình một công
việc - có thể thấy trong sự chia sẻ công việc
giữa Chính phủ, Quốc hội và Chủ tịch nước
trong ký kết các điều ước quốc tế; trong thủ
tục ban hành, thông qua và công bố các đạo
luật, pháp lệnh; trong quy trình thành lập các
cơ quan và các chức danh quan trọng của
nhà nước v.v.. Thậm chí, ngay cả tư pháp -
thiết chế độc lập nhất trong các quyền lực
nhà nước - thì sự “lấn sân” của Toà án sang
các lĩnh vực khác trong đó bao gồm mục tiêu
kiểm soát có thể thấy trong việc: dù thẩm
quyền xét xử hiện hành chỉ gói gọn trong
các quyết định cá biệt, nhưng Toà án lại có
quyền kiến nghị xem xét văn bản quy phạm
pháp luật trong quá trình Toà án xét xử một
vụ án hình sự, dân sự, hành chính.
Khó có một thiết chế quyền lực nhà
nước nào có thể hoạt động riêng rẽ hay độc
chiếm một nhánh quyền. Ở khía cạnh này,
phân công, phối hợp vừa nhằm bảo đảm tính
chuyên môn hiệu quả của công việc; nhưng
cũng là một biện pháp kiềm toả đáng kể đối
với các nhánh quyền còn lại.
Thứ ba: một cách trực tiếp, kiểm soát
thông qua cơ chế “đối trọng”, hay kìm chế.
Ví dụ, ở các chính thể đại nghị, “đối trọng”
thể hiện bằng cách nghị viện có thể lật đổ
chính phủ và ngược lại, chính phủ có thể
yêu cầu giải tán nghị viện; trong chính thể
tổng thống, quyền lập pháp của nghị viện
có thể bị chặn lại bởi quyền phủ quyết của
tổng thống, nhưng quyền phủ quyết của tổng
thống lại có thể bị bác bỏ bởi 2/3 số phiếu
của cả hai viện.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Ở Việt Nam, cơ chế kiểm soát bước
đầu được quy định trong Hiến pháp hiện
hành. Đó là hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với cơ quan hành pháp, tư pháp. Thông
qua việc thực hiện nhiệm vụ ban hành luật,
quyết định ngân sách, xét báo cáo công tác
và bỏ phiếu tín nhiệm..., Quốc hội thực hiện
quyền kiểm soát hoạt động của cơ quan hành
pháp, tư pháp. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát
hoạt động của Quốc hội từ phía các cơ quan
hành pháp, tư pháp còn chưa được làm rõ.
Thứ tư, kiểm soát chuyên biệt: xét xử
hành chính và bảo hiến
Như phần trên đã nêu, cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước chuyên biệt được
thực hiện thông qua con đường tư pháp, mà
cụ thể là xét xử hành chính và bảo hiến. Các
công cụ tố tụng này nhằm trực tiếp vào hai
nhánh quyền lực có nguy cơ dễ lạm quyền
nhất: hành pháp và lập pháp. Bảo hiến
được coi là một công cụ kiểm soát quyền
lực chuyên biệt có thể áp đặt chung lên các
nhánh quyền còn lại.
Ở Việt Nam, trong hai cơ chế kiểm
soát chuyên biệt này thì bảo hiến dường như
còn nhiều hạn chế hơn cả. Hạn chế đó thể
hiện ở sự thiếu vắng cơ chế tư pháp để kiểm
soát tính hợp hiến của đạo luật.
Sự thiếu hụt cơ chế bảo hiến lại càng
nghiêm trọng trong bối cảnh cơ chế làm, sửa
đổi Hiến pháp còn khá “lỏng”, so với những
điều kiện để tạo lập và bảo vệ Hiến pháp.
Những quy định của Điều 120 Hiến pháp
năm 2013 về quy trình làm và sửa đổi Hiến
pháp vẫn còn khá mở và để dành sự chủ động
ít nhiều cho Quốc hội và khả năng trưng cầu
ý dân về Hiến pháp vẫn thuộc quyền tuỳ nghi
của Quốc hội. Bởi vậy, hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước cần đồng thời
với việc tạo lập một cơ chế bảo hiến trong
tương lai, với vị trí là nhân tố cốt lõi để kiểm
soát sự tuân thủ pháp luật, và cao hơn, Hiến
pháp - điều làm nên pháp quyền
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jacques Chevallier (2003), L’Etat de droit, 4e edition, Montchretien, Paris.
2. Troper M. (1992), “Le concept d’Etat de droit”, Droit, no15/ 1992;
3. Samuel Kernell và Gary C. Jacobson (2007), Logic chính trị Mỹ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Greg Russell (2012), “Chủ nghĩa hợp hiến”, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao (đồng
chủ biên), Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến - Một số tiểu luận tổng quan của các học giả nước ngoài
(Sách tham khảo); NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
5. GS.,TS. Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà nước (2005), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. GS.,TS. Nguyễn Đăng Dung (2007), “Bàn thêm về vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự
phân công phân quyền và phối kết hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 6 năm 2007;
GS.,TS. Trần Ngọc Đường, (2015), “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công , phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
cuu-trao-doi.aspx?ItemID=7; 10/2/2015
Bùi Ngọc Sơn (2010), Bàn về lập hiến, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11(172), tháng 6/2010.
7. Bùi Ngọc Sơn (2012), Góp bàn về sửa đổi Hiến pháp ở Việt nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 3+4 (355+356) T02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_kiem_soat_quyen_luc_nha_nuoc_trong_nha_nuoc_phap_quye.pdf