Một số giải pháp góp phần hoàn thiện
cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước của chính quyền địa
phương hiện nay
- Giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý
+ Thể chế về kiểm soát quyền lực
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đối
với chính quyền địa phương: Tiếp tục hoàn
thiện pháp luật nâng cao hiệu quả giám sát
của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
các Đoàn đại biểu Quốc hội đối với chính
quyền địa phương cấp tỉnh; phân định rõ
thẩm quyền của Chính quyền cấp trên với
cấp dưới, quy chế hóa hoạt động giám sát
của HĐND với UBND cùng cấp.
+ Đối với thể chế về kiểm soát quyền
lực của các thiết chế bên ngoài bộ máy. Các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng liên
quan đến công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng đối với đảng viên và tổ
chức đảng phải ngắn gọn và dễ hiểu, dễ thực
hiện, dễ quy trách nhiệm; hoàn thiện quy
định và quy chế hóa mối quan hệ giữa giữa
các cơ quan kiểm tra, giám sát của Đảng với
cơ quan thanh tra, điều tra, truy tố và xét
của Nhà nước ở địa phương; tiếp tục rà soát,
sửa đổi những quy định pháp luật mâu thuẫn
trong các văn bản pháp luật về MTTQ Việt
Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
liên quan đến kiểm soát quyền lực của nhân
dân đối với chính quyền địa phương; hoàn
thiện quy định pháp luật phát huy các hình
thức giám sát của cử tri, cá nhân, công dân
trong các quy định pháp luật về bầu cử, ứng
cử, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, quyền khiếu nại, tố cáo.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Tóm tắt:
Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước đối
với chính quyền địa phương là tổng thể các yếu tố gồm thể chế
pháp lý, các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát và các điều
kiện bảo đảm thực hiện, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau; bảo đảm
quyền lực được nhà nước được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả
cao. Do vậy, phân tích những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và
đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế này ở Việt Nam hiện
nay là việc làm cần thiết.
Hoàng Minh Hội*
* TS. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Abstract
The legal mechanism for controlling the exercise of the state
power by the local administrations is an overall set of different
elements including the legal institutions, institutions carrying
out the controlling manadates and the conditions to ensure their
performance, with they are in closed relationship to ensure the
state's power to be used on right purposes with high efficiency.
Therefore, analysis of the theoretical issues, reviews of the
existing status and proper solutions for further improvements of
the mechanism are required in Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: cơ chế pháp lý; kiểm soát
quyền lực nhà nước; chính quyền địa
phương; kiểm soát chính quyền địa
phương.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 08/04/2019
Biên tập : 13/05/2019
Duyệt bài : 20/05/2019
Article Infomation:
Keywords: legal mechanism; controlling
of state’s power; local administrations;
controlling of local administration
Article History:
Received : 08 Apr. 2019
Edited : 13 May 2019
Approved : 20 May 2019
1. Khái niệm, vai trò và cấu trúc của
cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước đối với chính quyền
địa phương
Chính quyền địa phương là một bộ
phận hợp thành của chính quyền nhà nước
thống nhất, trong đó mỗi cấp chính quyền
địa phương gồm có Hội đồng nhân dân
(HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) được
tổ chức phù hợp với đặc điểm địa bàn ở
nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do luật định nhằm
thực hiện những nhiệm vụ do chính quyền
Trung ương phân cấp theo quy định của
Hiến pháp, pháp luật; đồng thời thực hiện
những nhiệm vụ ở địa phương đáp ứng yêu
cầu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Để
ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật
và bảo đảm hiệu quả hoạt động, pháp luật
quy định những biện pháp về kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước đối với chính
quyền địa phương. Tuy nhiên, không chỉ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 11(387) T6/2019
dừng lại ở việc ban hành các quy định pháp
luật mà cần phải tổ chức thực hiện chúng
thông qua một quy trình, có các yếu tố, với
nhiều giai đoạn khác nhau. Quy trình này
gọi là cơ chế pháp lý về kiểm soát việc thực
hiện quyền lực nhà nước ở địa phương.
Khi bàn về cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước, có tác giả cho rằng, cơ
chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước
là một chỉnh thể các thể chế pháp lý và các
thiết chế có liên quan đến việc kiểm soát
quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà
nước, gắn kết chặt chẽ với nhau, cùng vận
hành, nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những nguy
cơ, những việc làm sai trái của các cơ quan,
nhân viên nhà nước, bảo đảm cho quyền
lực nhà nước được tổ chức và thực hiện
theo đúng Hiến pháp, pháp luật, đúng mục
đích mong muốn và hiệu quả1. Ý kiến khác
cho rằng, “cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước là tổng thể các yếu tố thể chế,
thiết chế và các điều kiện bảo đảm, có mối
quan hệ hữu cơ tương tác lẫn nhau do Hiến
pháp và pháp luật quy định nhằm xác lập và
bảo đảm để các chủ thể thực hiện kiểm soát
quyền lực nhà nước có hiệu quả”2.
Theo cách tiếp cận trên, cơ chế pháp
lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước đối với chính quyền địa phương là một
chỉnh thể, có cấu trúc chặt chẽ gồm các yếu
tố như thể chế pháp lý, thiết chế thực hiện
hoạt động kiểm soát; đồng thời giữa các
yếu tố đó có mối quan hệ tác động qua lại,
chặt chẽ với nhau theo một trật tự nhất định
tạo nên sự vận động ăn khớp nhịp nhàng
trên cơ sở những điều kiện về chính trị -
tư tưởng, pháp lý và kinh tế - xã hội - văn
hóa nhất định. Như vậy, có thể hiểu: cơ chế
pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực
nhà nước đối với chính quyền địa phương là
1 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt
Nam hiện nay. Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 43.
2 Trần Ngọc Đường (chủ nhiệm), (2014) Báo cáo khoa học Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng
và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở
nước ta, (Viện Nghiên cứu lập pháp chủ trì). Hà Nội, tr. 6.
3 Xem: Trần Ngọc Đường, (2014) tlđd. tr. 131.
tổng thể các yếu tố gồm thể chế pháp lý, các
thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát và
các điều kiện bảo đảm thực hiện, có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau; được vận hành theo
nội dung và các phương thức do pháp luật
quy định nhằm ngăn ngừa hành vi lạm dụng
quyền lực, bảo đảm kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với chính quyền địa phương đạt
hiệu quả cao.
Tiếp cận dưới góc độ pháp lý, cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước được
chia thành ba tiểu cơ chế3. Theo đó, cơ chế
pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực
nhà nước đối với chính quyền địa phương
có hai bộ phận: cơ chế kiểm soát quyền lực
từ các thiết chế bên trong bộ máy nhà nước
đối với chính quyền địa phương như Quốc
hội, Chính phủ, chính quyền địa phương
cấp trên đối với chính quyền địa phương
cấp dưới, Tòa án và cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa
phương từ bên ngoài (gồm kiểm soát quyền
lực của Đảng cầm quyền, Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) và các tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức xã hội, phương tiện truyền thông đại
chúng, cá nhân, công dân).
Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực
hiện quyền lực nhà nước đối với chính
quyền địa phương đóng vai trò quan trọng.
Cơ chế này thể chế hóa quan điểm của
Đảng về kiểm soát việc thực hiện quyền lực
nhà nước đối với chính quyền địa phương;
góp phần hạn chế, loại bỏ, ngăn ngừa những
hành vi vi phạm pháp luật của một số cán
bộ, công chức, góp phần đấu tranh phòng
chống quan liêu, lãng phí và tham nhũng
và các hành vi tiêu cực khác đối với chính
quyền địa phương; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong việc tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, qua đó bảo vệ quyền,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 11(387) T6/2019
lợi ích chính đáng của nhân dân, lợi ích của
Nhà nước, xã hội; nâng cao hiệu lực hiệu
quả hoạt động của chính quyền địa phương.
Về cấu trúc, cơ chế pháp lý kiểm soát
việc thực hiện quyền lực nhà nước đối với
chính quyền địa phương gồm: (i), thể chế
pháp lý; (ii), các thiết chế thực hiện nhiệm
vụ kiểm soát quyền lực nhà nước; (iii), các
điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế; (iv),
mối quan hệ giữa thể chế và thiết chế. Từ
điển Luật học định nghĩa thể chế là “những
quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc
mọi người phải tuân theo”4. Thể chế cũng
có thể được hiểu là tổng thể các quy định,
các nguyên tắc xác lập các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật, tạo lập nên “luật chơi” trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số công
trình khoa học nghiên cứu về cơ chế pháp
lý đã thừa nhận thể chế pháp lý được coi là
một bộ phận quan trọng, không thể thiếu
của cơ chế pháp lý nói chung5. Thể chế pháp
lý kiểm soát quyền lực “là tổng thể những
quy định trong Hiến pháp và pháp luật do
Nhà nước ban hành, bao gồm những quy
định về nguyên tắc, chủ thể đối tượng, nội
dung, hình thức quy trình, thủ tục các biện
pháp hậu quả pháp lý”6. Như vậy, thể chế
pháp lý của cơ chế kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước đối với chính quyền
địa phương là tổng thể các quy định pháp
luật, các nguyên tắc xác định địa vị pháp lý
của chủ thể kiểm soát và trách nhiệm của
đối tượng chịu sự kiểm soát; xác định phạm
vi, hình thức và phương pháp, hậu quả pháp
lý của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với chính quyền địa phương. Thiết
chế được hiểu là “hệ thống tổ chức bộ máy”
được thiết lập trên cơ sở thể chế quy định
của Hiến pháp, pháp luật để thực hiện một
hoạt động nào đó của xã hội7. Các thiết chế
4 Từ điển Luật học (2006), Nxb. Bách khoa – Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 703.
5 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt
Nam hiện nay. Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 43; Trần Ngọc Đường (chủ nhiệm), (2014), tlđd, tr. 6.
6 Nguyễn Long Hải (2016), Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam; Luận án tiến sĩ, Học viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội, 2016, tr. 41.
7 Trần Ngọc Đường (2014), tlđd, tr. 13.
kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính
quyền địa phương như Quốc hội, Chính phủ,
chính quyền địa phương cấp trên kiểm soát
đối với chính quyền cấp dưới, Tòa án. Các
thiết chế bên ngoài bộ máy nhà nước kiểm
soát hoạt động của chính quyền địa phương
như Đảng cầm quyền, MTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, phương
tiện truyền thông đại chúng, cử tri, cá nhân,
công dân.
Các bộ phận của cơ chế pháp lý kiểm
soát việc thực hiện quyền lực nhà nước đối
với chính quyền địa phương có vị trí, vai trò
khác nhau và chúng có mối quan hệ tác động
qua lại. Để cơ chế pháp lý kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước đối với chính
quyền địa phương vận hành tốt, hiệu quả cần
phải có những điều kiện đảm bảo nhất định.
Đó chính là những điều kiện bảo đảm về
chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội.
2. Thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát
việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
nước của chính quyền địa phương ở Việt
Nam hiện nay
2.1 Về thể chế pháp lý
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013, nhiều đạo luật được ban hành
điều chỉnh quan hệ kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước của chính quyền địa
phương theo hướng tăng cường kiểm tra,
giám sát của trung ương, gắn quyền hạn với
trách nhiệm được giao cho chính quyền địa
phương mỗi cấp. Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức
Chính quyền địa phương, Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND và các văn
bản pháp luật khác đã xác lập thể chế pháp
lý về kiểm soát quyền lực nhà nước đối với
chính quyền địa phương tương đối đầy đủ,
đồng bộ. Theo đó, Quốc hội, Chính phủ có
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 11(387) T6/2019
thẩm quyền kiểm soát đối với chính quyền
cấp tỉnh, các cơ quan thuộc chính quyền địa
phương cấp trên kiểm soát đối với chính
quyền địa phương cấp dưới; HĐND đối với
UBND cùng cấp. Nội dung kiểm soát việc
tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước của
Chính quyền địa phương gồm: kiểm soát việc
tổ chức (bầu, miễn nhiệm, bãi miễn đại biểu
HĐND các cấp; bầu, miễn nhiệm, bãi miễn
các chức danh cho HĐND bầu, gồm người
đứng đầu các ban của HĐND và Chủ tịch
UBND, người đứng đầu các cơ quan chuyên
môn của UBND; kiểm soát hoạt động của
HĐND, đại biểu HĐND; kiểm soát hoạt
động của UBND và Chủ tịch UBND; kiểm
soát quyết định hành chính và hành vi hành
chính của chính quyền địa phương và người
có thẩm quyền; kiểm soát việc phân cấp,
phân quyền giữa trung ương và địa phương
theo quy định của pháp luật; kiểm soát việc
thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của chính quyền địa phương.
Pháp luật xác định địa vị pháp lý của
Đảng cầm quyền trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc
thực hiện quyền lực nhà nước của chính quyền
với các hình thức phù hợp thể hiện thông qua
việc các quy định về phát huy vai trò lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, thực hiện tốt chức năng
của ủy ban kiểm tra các cấp ủy đảng ở các địa
phương. MTTQ và các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, phương tiện truyền thông
đại chúng có nhiều hình thức và phương pháp
giám sát việc thực hiện quyền lực của chính
quyền địa phương, góp phần vào công tác đấu
tranh, phòng chống tham nhũng, kiểm soát
quyền lực nhà nước, chống chạy chức, chạy
quyền. Bên cạnh đó, pháp luật quy định cử
tri có quyền giám sát các đại biểu HDND,
cá nhân - công dân giám sát chính quyền địa
phương thông qua các quyền khiếu nại, tố cáo,
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
qua thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, qua
8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25/10/2017của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Khóa XII về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tr. 1. Nguồn: phapluat.vn
hoạt đông trưng cầu dân ý, thực hiện quyền
tiếp cận thông tin.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích
cực nêu trên, thể chế pháp lý về kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa
phương vẫn còn nhiều bất cập:
- Trước hết, mô hình tổ chức chính
quyền địa phương chưa thật sự khoa học và
hợp lý để chính quyền Trung ương có thể
hoàn toàn kiểm soát được chính quyền địa
phương; mặt khác, chính quyền địa phương
có thể chủ động, tích cực thực hiện nhiều
biện pháp để phát triển kinh tế, xã hội, văn
hóa nâng cao đời sống cho nhân dân ở địa
phương. Nguyên tắc phân cấp, phân quyền
giữa Trung ương với địa phương chưa thực
sự rõ ràng để có thể phát huy vai trò và năng
lực của chính quyền địa phương các cấp trên
các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa, xã hội; phát
huy và khai thác tối đa nguồn nhân lực ở địa
phương, “cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu
quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình còn hạn chế”8.
- Các quy định pháp luật về kiểm soát
việc thực hiện quyền lực nhà nước đối với
chính quyền địa phương thông qua các thiết
chế bên ngoài bộ máy nhà nước chưa đồng
bộ và có tính khả thi. Hiến pháp năm 2013
hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy
nhiên, thể chế pháp lý chưa phân định được
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng
đối với hoạt động của HĐND và UBND. Sự
chỉ đạo của ủy ban kiểm tra đảng cấp trên
đối với cấp dưới có lúc chưa kịp thời; văn
bản hướng dẫn chậm. Hoạt động kiểm tra,
giám sát và xử lý tổ chức đảng và đảng viên
vi phạm ở một số tổ chức đảng ở một số cấp
chính quyền địa phương chưa nghiêm minh,
chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tình trạng
tham nhũng, tiêu cực. Quy định về sự phối
hợp trong công tác kiểm tra và giám sát của
Đảng với công tác thanh tra, điều tra, truy tố,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 11(387) T6/2019
xét xử ở chính quyền địa phương chưa chặt
chẽ, chưa hiệu quả.
- Nhiều quy định về giám sát của nhân
dân thông qua MTTQ và các tổ chức chính
trị - xã hội đối với việc thực hiện quyền lực
nhà nước của chính quyền địa phương mang
tính nguyên tắc, chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ.
Nhiều quy định tập trung xác định địa vị của
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở
cấp Trung ương trong khi đó các quy định
cho các tổ chức này ở các cấp địa phương
khá mờ nhạt. Một số kiến nghị, phản ánh về
kết quả hoạt động giám sát của MTTQ đối
với chính quyền địa phương được gửi đến
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền chưa
kịp thời được xử lý, hoặc chưa được giải
quyết thấu đáo. Điều này dẫn đến tình trạng
đùn đẩy, né tránh việc trả lời kiến nghị giám
sát của nhân dân, hoặc chưa quan tâm giải
quyết, trả lời theo quy định pháp luật đối
với đơn, thư của công dân và kiến nghị của
MTTQ. Việc theo dõi giải quyết kiến nghị
sau giám sát của MTTQ ở một địa phương
còn buông lỏng, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc
trong khi chưa có cơ chế áp dụng biện pháp
chế tài thích hợp đối với các cơ quan, người
có thẩm quyền trong việc không hoặc chậm
tiếp nhận và xử lý kết quả giám sát do MTTQ
và các tổ chức chính trị - xã hội kiến nghị.
2.2 Về thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát
Pháp luật quy định kiểm soát việc thực
hiện quyền lực nhà nước đối với chính quyền
địa phương bằng các thiết chế nhà nước
trong bộ máy nhà nước như Ủy ban thường
vụ Quốc hội giám sát HĐND cấp tỉnh;
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ kiểm
soát lãnh đạo công tác của UBND các cấp;
hướng dẫn, kiểm tra HĐND trong việc thực
hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên;
tạo điều kiện để HĐND thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn do luật định. Các cơ quan thuộc
chính quyền địa phương cấp trên kiểm soát
đối với chính quyền địa phương cấp dưới.
HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện
nghị quyết của HĐND; UBND chịu trách
nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên.
Hệ thống các thiết chế kiểm soát bên
ngoài đối với chính quyền địa phương đa
dạng, không ngừng phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đảng cầm quyền và lãnh đạo đối với Nhà
nước và xã hội có quyền kiểm soát việc
thực hiện quyền lực đối với chính quyền
địa phương bằng các biện pháp và hình thức
khác nhau. MTTQ cùng các tổ chức thành
viên khác của Mặt trận phối hợp và thống
nhất hành động trong MTTQ thực hiện chức
năng giám sát và phản biện xã hội đối với
chính quyền địa phương. Các tổ chức xã
hội, nghề nghiệp là các Hội, Liên hiệp hội,
Hội liên hiệp, Liên đoàn, Hiệp hội; các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện hoạt
động kiểm soát quyền lực nhà nước đối với
chính quyền địa phương thông qua quyền
gửi phản biện, yêu cầu đối với chính quyền
địa phương các cấp, người có thẩm quyền về
việc thực thi Hiến pháp, pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên
đây, thực trạng hoạt động của các thiết chế
kiểm soát nhà nước đối với chính quyền địa
phương còn có những hạn chế sau:
- Kiểm soát quyền lực giữa cơ quan
chính quyền Trung ương với địa phương,
giữa chính quyền cấp trên với chính quyền
cấp dưới được thực hiện không thống nhất.
Với 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (không đều
về diện tích, dân cư, tính chất, trình độ và
tiềm năng phát triển) như hiện nay, hoạt
động của chính quyền địa phương các cấp
“có quá nhiều đầu mối trong quan hệ với
chính quyền trung ương, ảnh hưởng không
nhỏ đến khả năng điều hành và kiểm soát
của chính quyền trung ương đối với các địa
phương. Mặt khác, quy mô tỉnh nhỏ không
tạo ra được các điều kiện để tự phát triển
nếu không có các giải pháp phối hợp, liên
kết về kinh tế, văn hóa, địa lý đối với các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 11(387) T6/2019
tỉnh, thành phố bên cạnh”9. Trước hết là sự
giám sát của chính quyền trung ương đối với
các nhiệm vụ đã phân cấp cho chính quyền
địa phương trong phân công, phân cấp và
kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan
chính quyền Trung ương với địa phương và
chính quyền cấp trên với chính quyền cấp
dưới quan tâm chưa đúng mức. Có thể nói,
“sự phân cấp chưa đi kèm cơ chế kiểm tra,
giám sát chặt chẽ để đảm bảo sự tuân thủ
các chiến lược và quy hoạch chung khiến
một số ngành, một số lĩnh vực có sự phát
triển lệch hướng (cảng biển, sân bay, khu
công nghiệp nở rộ), hoặc mất cân đối giữa
các ngành công nghiệp với năng lượng, mất
cân đối giữa sự phát triển với các công tác
bảo vệ môi trường”10. Trong một chừng mực
nào đó, “sự kiểm soát không loại trừ được
tình trạng cục bộ địa phương; quan hệ quản
lý ngành và quản lý địa bàn lãnh thổ giữa
bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa
phương còn chồng chéo về thẩm quyền,
trách nhiệm đồng nghĩa với sự kiểm soát
không rõ ràng, mạch lạc”11.
- Phương thức kiểm soát quyền lực của
HĐND đối với UBND chưa có nhiều thay
đổi, còn hình thức và hiệu quả chưa cao. Ở
một số cấp chính quyền, “khó có thể thực
hiện vị trí, vai trò của mình với tư cách là
quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan
đại biểu cho nhân dân địa phương. Điều này
dẫn đến giám sát là một chức năng yếu nhất,
hình thức nhất của HĐND các cấp”12. Chính
quyền địa phương cấp trên là chủ thể kiểm
soát hoạt động của chính quyền địa phương
cấp dưới, tuy nhiên, “hoạt động kiểm soát
của chính quyền địa phương cũng có những
khó khăn, hạn chế nhất định như tính hình
9 Trần Công Dũng (2016), Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện
nay, Luận án TS, Đại học Luật Hà Nội, 2016. tr. 92.
10 Trần Công Dũng (2016), tlđd, tr. 93.
11 Vũ Thư (2018), Kiểm soát của chính quyền Trung ương đối với chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay, nguồn:
nuoc_ta_hien_nayall.html. Truy cập 14/4/2019.
12 Đặng Minh Tuấn, Hoàng Thị Ái Quỳnh (2018), Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương tại Việt
Nam: Tiếp cận dưới góc độ phân quyền, Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 2 (2018) tr. 114
13 Nguyễn Minh Đoan (2016), tlđd, tr. 187.
thức còn cao, hiệu lực, hiệu quả thấp, tâm
lý nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn
là trở ngại trong quá trình kiểm soát; nguồn
nhân lực thực hiện kiểm soát chưa đáp ứng
yêu cầu công việc. Kết quả kiểm soát còn
chưa rõ nét, còn thiên về khảo sát nắm tình
hình là chính và thường không đủ thông tin
để kiểm soát”13.
- Hệ thống Tòa án có vai trò không lớn
trong kiểm soát việc thực hiện quyền lực của
chính quyền địa phương. Tòa án chỉ kiểm
soát hoạt động của chính quyền địa phương
thông qua xét xử các vụ án hành chính. Tòa
án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh
thổ (Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện) nên chịu sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương, chịu
sự giám sát của HĐND, phụ thuộc chính
quyền địa phương về ngân sách hoạt động.
Tòa án chưa được trao thẩm quyền phán
quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn
bản pháp quy của chính quyền địa phương
mà chỉ được trao quyền phát hiện, kiến nghị
xử lý các văn bản quy phạm pháp luật trái
Hiến pháp, pháp luật, cũng chưa có quyền
giải thích Hiến pháp, luật. Tòa án nhân dân
tối cao chỉ thực hiện chức năng tổng kết thực
tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất
trong xét xử.
- Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà
nước của Đảng thông qua việc kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng đối với chính quyền địa
phương các cấp. Tuy nhiên, Ủy ban kiểm tra
của các tổ chức Đảng ở địa phương thường
hoạt động khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu
chủ động và chưa mang tính thường xuyên
của kiểm soát quyền lực nhà nước. Công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng chưa đủ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 11(387) T6/2019
sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái. Một
bộ phận đảng viên, cán bộ lãnh đạo quản lý
ở một số địa phương có dấu hiệu vi phạm
điều lệ đảng, vi phạm pháp luật nhưng chưa
được xử lý kịp thời và công khai.
- Các thiết chế MTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội vẫn lệ thuộc chính quyền địa
phương (nhất là UBND) là đối tượng bị giám
sát về biên chế, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt
động. Do vậy, ở một số nơi, MTTQ mới chỉ
đóng vai trò là cơ quan phối hợp, là cơ quan
tham gia thực hiện giám sát, góp ý kiến, kiến
nghị vào dự thảo các văn bản của chính
quyền địa phương chứ chưa thể hiện được hết
vai trò giám sát một cách chủ động với tư cách
là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Bên
cạnh đó, ở một số địa phương hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội có xu hướng bị
"hành chính hóa"; chưa xây dựng được cơ
chế phối hợp hiệu quả giữa cơ chế giám sát
của Quốc hội, HĐND với giám sát và phản
biện của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã
hội đối với hoạt động của UBND cùng cấp
và chính quyền địa phương cấp dưới.
- Các thiết chế kiểm soát bên ngoài
đối với chính quyền địa phương còn có các
tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, phương
tiện truyền thông - báo chí, cộng đồng dân
cư và hoạt động giám sát của công dân qua
việc thực hiện quyền dân chủ trực tiếp. Tuy
nhiên, “cơ chế bầu cử hiện nay tạo ra khả
năng kiểm soát của các cơ quan trung ương
trong các cuộc bầu cử, đồng thời làm hạn
chế vai trò của người dân trong việc quyết
định lựa chọn các đại biểu HĐND”14. Nhân
dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, Nhân
dân có quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội,
đại biểu HĐND nhưng hiện nay chưa có quy
định cụ thể về quy trình, trình tự để thực hiện
quy định này. Pháp luật còn thiếu những quy
định bảo đảm quyền giám sát trực tiếp của
Nhân dân đối với hoạt động của chính quyền
địa phương như thiếu các quy định cụ thể về
trưng cầu, lấy ý kiến cộng đồng hay tập hợp,
lấy ý kiến của các cá nhân tiêu biểu.
14 Đặng Minh Tuấn, Hoàng Thị Ái Quỳnh (2018), tlđd, tr. 113.
2.3 Về mối quan hệ giữa thể chế pháp lý và
thiết chế
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban
hành, thể chế pháp lý đã có bước phát triển.
Nhiều đạo luật cụ thể hóa nội dung và tinh
thần của Hiến pháp về kiểm soát quyền lực
nhà nước trong đó kiểm soát việc thực hiện
quyền lực của chính quyền địa phương. Thể
chế pháp lý xác định rõ ràng, cụ thể hơn địa
vị pháp lý cũng như chức năng, nhiệm vụ của
các thiết chế kiểm soát bên trong bộ máy nhà
nước như Quốc hội, Chính phủ, chính quyền
cấp trên đối với chính quyền cấp dưới cũng
như các thiết chế bên ngoài đối với chính
quyền địa phương. Trên cơ sở đó, các thiết
chế kiểm soát quyền lực nhanh chóng được
kiện toàn về tổ chức, bộ máy, cụ thể hóa các
chức năng, nhiệm vụ và thực hiện nhiệm vụ
kiểm soát đối với chính quyền địa phương.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu
trên, mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành
cơ chế này cũng bộc lộ những bất cập. Thể
chế pháp lý chưa tạo ra được bước đột phá
trong việc hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ
thống các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà
nước cũng như chưa có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các thiết chế kiểm soát bên trong bộ
máy nhà nước và bên ngoài như hoạt động
kiểm soát quyền lực của Đảng cầm quyền,
giám sát và phản biện xã hội của MTTQ,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
và nhân dân. Hoạt động kiểm soát việc thực
hiện quyền lực còn nặng về xử lý, ngăn chặn
những hành vi vi phạm pháp luật, lạm quyền
của đối tượng chịu sự kiểm soát mà chưa tạo
ra môi trường minh bạch, phát huy tính tích
cực, chủ động của chính quyền địa phương
mỗi cấp.
2.4 Về các điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế
Từ những chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước thể chế hóa bằng pháp luật,
tổ chức thực hiện các quy định về kiểm soát
quyền lực đối với chính quyền địa phương,
bước đầu đạt được những kết quả tích cực,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 11(387) T6/2019
được nhân dân đồng tình ủng hộ. Bên cạnh
đó, những kết quả về phát triển kinh tế, xã
hội - văn hóa đạt được sau hơn 30 năm đổi
mới đang tạo ra những tiền đề, điều kiện
quan trọng để tiếp tục thực hiện cơ chế pháp
lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước của chính quyền địa phương. Tuy
nhiên, nhiều quy định của Đảng về kiểm
soát quyền lực nhà nước chưa kịp thời thể
chế hóa bằng pháp luật. Hệ thống pháp luật
về kiểm soát quyền lực chưa đồng bộ. Tác
động mặt trái của nền kinh tế thị trường đã
dẫn đến “tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi.
Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến
phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp
nghiêm trọng”15 là những khó khăn của việc
thực hiện cơ chế trên đây.
3. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện
cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước của chính quyền địa
phương hiện nay
- Giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý
+ Thể chế về kiểm soát quyền lực
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đối
với chính quyền địa phương: Tiếp tục hoàn
thiện pháp luật nâng cao hiệu quả giám sát
của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
các Đoàn đại biểu Quốc hội đối với chính
quyền địa phương cấp tỉnh; phân định rõ
thẩm quyền của Chính quyền cấp trên với
cấp dưới, quy chế hóa hoạt động giám sát
của HĐND với UBND cùng cấp.
+ Đối với thể chế về kiểm soát quyền
lực của các thiết chế bên ngoài bộ máy. Các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng liên
quan đến công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng đối với đảng viên và tổ
chức đảng phải ngắn gọn và dễ hiểu, dễ thực
hiện, dễ quy trách nhiệm; hoàn thiện quy
định và quy chế hóa mối quan hệ giữa giữa
các cơ quan kiểm tra, giám sát của Đảng với
15 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 15.
cơ quan thanh tra, điều tra, truy tố và xét
của Nhà nước ở địa phương; tiếp tục rà soát,
sửa đổi những quy định pháp luật mâu thuẫn
trong các văn bản pháp luật về MTTQ Việt
Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
liên quan đến kiểm soát quyền lực của nhân
dân đối với chính quyền địa phương; hoàn
thiện quy định pháp luật phát huy các hình
thức giám sát của cử tri, cá nhân, công dân
trong các quy định pháp luật về bầu cử, ứng
cử, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, quyền khiếu nại, tố cáo.
- Giải pháp hoàn thiện các thiết chế
thực hiện hoạt động kiểm soát:
+ Đối với các thiết chế bên trong bộ
máy nhà nước: Nâng cao năng lực và trách
nhiệm giám sát của Quốc hội đối với HĐND
cấp tỉnh; phát huy vai trò kiểm soát của
Chính phủ đối với UBND các cấp, bảo đảm
sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc
kiểm soát quyền lực của chính quyền địa
phương; cần có cơ chế về cung cấp thông
tin liên quan đến việc thực hiện nghị quyết
của HĐND để đại biểu HĐND có điều kiện
nắm bắt các thông tin về hoạt động của
UBND; cần phải tăng cường giám sát của
HĐND và UBND cấp trên đối với UBND
cấp dưới. Đồng thời, tăng cường thanh tra
của Chính phủ đối với HĐND và UBND
cấp tỉnh.
+ Đối với Tòa án: Hệ thống Tòa án
cần được trao thẩm quyền rộng hơn để kiểm
soát quyền lực đối với chính quyền địa
phương thông qua chức năng kiểm soát tính
hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp
quy do chính quyền địa phương ban hành;
qua thẩm quyền giải thích áp dụng pháp luật
thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
+ Đối với Đảng cầm quyền: Phát huy vai
trò và năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban
kiểm tra các cấp đối với đảng viên, nhất là các
đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý trong việc
thực hiện nhiệm vụ được giao; kịp thời phát
hiện, chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc trong
(Xem tiếp trang 45)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 11(387) T6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_phap_ly_kiem_soat_viec_thuc_hien_quyen_luc_nha_nuoc_d.pdf