Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
UBTVQH trong việc giải thích Hiến pháp,
xuất phát từ thực tiễn khách quan là nhiều
quy định, nguyên tắc của Hiến pháp cần
phải được giải thích nhằm khắc phục những
hạn chế, thiếu hụt trong các quy định của
pháp luật hiện hành như: một số quyền tự do
dân chủ của công dân được Hiến pháp quy
định, nhưng chưa có văn bản luật quy định
chi tiết; chưa có quy định về trình tự, thủ tục
thực hiện, nên khó thực hiện; nhiều quy
định, nguyên tắc của Hiến pháp còn có
nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau,
nếu không có sự giải thích dễ dẫn đến sự tùy
tiện trong việc hiểu, vận dụng và thực hiện.
Do vậy, tăng cường giải thích Hiến pháp
là một trong những cơ sở quan trọng không
chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn có ý
nghĩa thực tiễn để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định các hành vi của công dân
trong việc thực hiện các quyền tự do, dân
chủ được quy định trong Hiến pháp là đúng,
hay sai, có được phép thực hiện hay không
được thực hiện, lý do không được thực hiện,
cơ quan nào có thẩm quyền cho phép, cơ
quan nào có thẩm quyền ngăn cấm; các hành
vi của công dân, và việc thực thi công vụ của
của cán bộ, công chức, của cơ quan có thẩm
quyền là đúng hay sai.
Bên cạnh việc tăng cường giải thích
Hiến pháp của UBTVQH, để các quy định,
nguyên tắc của Hiến pháp được thực hiện
trong cuộc sống, cũng cần nghiên cứu khả
năng công dân có thể viện dẫn các quy định
của Hiến pháp, đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và tòa án được áp dụng trực
tiếp các quy định, nguyên tắc của Hiến pháp
để giải quyết các tranh chấp phát sinh liên
quan tới quyền, lợi ích và nghĩa vụ của công
dân, trong mối quan hệ với Nhà nước ngay
cả khi chưa có các văn bản luật hay dưới
luật quy định
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cụ thể hóa các quy định mới về quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. yêu cầu khách quan cụ thể hóa các quy
định mới về quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013, được Quốc hội
thông qua ngày 28/12/2013. Hiến pháp đã
thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, kế thừa,
phát triển các bản Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980
và Hiến pháp năm 1992. Mục tiêu của việc
xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp mới
là vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, vững bước tiến lên
con đường XHCN.
Hiến pháp mới, trong tổng số 120 điều,
đã dành trọn vẹn 36 điều để quy định về
QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Điều đáng chú ý, các quy định về QCN,
bảo đảm QCN, QCD còn được quy định ở
nhiều chương khác của Hiến pháp.
Việc cụ thể hóa các nguyên tắc, quy
định mới về QCN, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong Hiến pháp năm
2013 xuất phát từ những yêu cầu khách
quan sau đây:
Thứ nhất, các quy định mới về QCN,
quyền và nghĩa vụ của công dân được quy
định trong Hiến pháp là những quy phạm có
tính nguyên tắc, quy định nền tảng, tạo
khuôn khổ pháp lý chung cho toàn bộ hệ
thống pháp luật.
Hiến pháp là đạo luật gốc, có hiệu lực
pháp lý cao nhất, quy định những nguyên
tắc chung. Chính vì vậy, để các nguyên tắc,
các quy phạm của Hiến pháp có thể thực
hiện được trong cuộc sống, đòi hỏi phải
được thể chế hóa, chi tiết hóa bằng các luật,
đạo luật, hay sự giải thích, hướng dẫn của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo
nghĩa đó, từ những quy phạm/nguyên tắc
3
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
CUÅ THÏÍ HOÁA CAÁC QUY ÀÕNH MÚÁI VÏÌ QUYÏÌN CON NGÛÚÂI,
QUYÏÌN CÖNG DÊN TRONG HIÏËN PHAÁP NÙM 2013
Tường Duy Kiên*
* PGS,TS. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Chế định quyền con người (QCN), quyền công dân (QCD) được quy định
trong Hiến pháp là những quy phạm, nguyên tắc có tính chất nền tảng.
Muốn các quy phạm, nguyên tắc hiến pháp về QCN, QCD - nhất là các quy
định, nguyên tắc mới - được thực thi trong thực tiễn cuộc sống, thì cần phải
cụ thể hóa, chi tiết hóa bằng pháp luật. Bài viết tập trung phân tích làm sáng
tỏ yêu cầu khách quan cụ thể hóa các quy định mới về QCN, QCD trong
Hiến pháp năm 2013; quan điểm, nguyên tắc cụ thể hóa các quy định mới
của Hiến pháp và các giải pháp cụ thể hóa bằng pháp luật.
của Hiến pháp, xuất phát từ thực tiễn quản
lý nhà nước, bảo đảm QCN, các cơ quan có
thẩm quyền cần xác định cụ thể việc ban
hành văn bản pháp luật mới để thể chế hóa
Hiến pháp, bảo đảm thực hiện được các
quyền, hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản
hiện hành có liên quan nhưng đã lạc hậu,
hay trái với các quy định của Hiến pháp.
Thứ hai, Hiến pháp của Việt Nam, về cơ
bản là Hiến pháp ở thể “tĩnh”, ít và khó có
thể viện dẫn, áp dụng trực tiếp để giải quyết
tại tòa án, nếu không được cụ thể hóa trong
luật, hoặc không được giải thích của cơ quan
có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật nhiều
nước, các quy phạm Hiến pháp có thể được
viện dẫn trực tiếp tại tòa án để phán xét về
một vấn đề cụ thể; và tòa án được giao trực
tiếp để giải thích Hiến pháp. Ở Việt Nam,
việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh,
Hiến pháp giao cho Ủy ban thường vụ Quốc
hội (UBTVQH)1. Trong khi trên thực tiễn,
vì nhiều lý do khác nhau, UBTVQH rất ít
khi giải thích Hiến pháp. Vì vậy, nếu không
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về
QCN, QCD bằng văn bản luật thì sẽ khó đi
vào cuộc sống.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên,
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, đã dành
riêng một điều (Điều 49) để quy định về thủ
tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Theo đó, tùy vào tính chất, nội dung của vấn
đề cần được giải thích, UBTVQH giao cho
các cơ quan có thẩm quyền2 xây dựng dự
thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh trình UBTVQH xem xét, quyết
định. Tuy vậy, theo các quy định của pháp
luật hiện hành, vẫn chưa có cơ quan được
giao quyền độc lập để tuyên bố đạo luật nào
đó, hoặc quyết định của cơ quan có thẩm
quyền là vi phạm Hiến pháp, vi phạm QCN.
Thứ ba, các nguyên tắc, quy định mới
về QCN, QCD trong Hiến pháp điều chỉnh
nhiều quan hệ xã hội ở phạm vi rộng, có liên
quan đến nhiều chủ thể và hầu hết các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
QCN, QCD, xét về mặt nội hàm khái
niệm có quan hệ rộng, phức tạp, liên quan
tới nhiều lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của
Nhà nước, và xác định vị trí, vai trò của
nhiều chủ thể trong xã hội. Trước hết khi
một quy phạm QCN được quy định, nó xác
lập quan hệ hai chiều giữa một bên là cá
nhân, công dân - chủ thể hưởng quyền với
một bên là Nhà nước - chủ thể mang nghĩa
vụ bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền.
Ví dụ: Hiến pháp quy định công dân có
quyền và nghĩa vụ học tập3. Quy định này
xác lập quan hệ giữa các chủ thể, trong đó
trước hết là Nhà nước, rồi đến nhà trường,
xã hội, gia đình có trách nhiệm bảo đảm
quyền của công dân được đến trường. Theo
đó, Nhà nước có trách nhiệm hoàn thiện
pháp luật để thể chế hóa nguyên tắc quyền
được học tập của công dân, nghiêm cấm các
hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị; xây dựng
và hoàn thiện các văn bản quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục; phải đầu tư
kinh phí, xây dựng hệ thống trường, lớp, đào
tạo nguồn nhân lực, đội ngũ nhà giáo; nhà
trường phải có đội ngũ giáo viên, các
phương tiện giảng dạy, giảng đường, cơ sở
vật chất; gia đình có trách nhiệm, nghĩa
vụ tạo điều kiện thuận lợi để con em được
đến trường, tham gia đóng góp xây dựng
nhà trường; xã hội có trách nhiệm giúp đỡ,
động viên, khuyến khích, hỗ trợ, nhất là đối
4
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Điều 74 Hiến pháp năm 2013.
2 Điều 49 Luật Tổ chức Quốc hội. Các cơ quan có thẩm quyền bao gồm: Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
3 Điều 39 Hiến pháp năm 2013.
tượng công dân có hoàn cảnh khó khăn được
đến trường, hỗ trợ xây dựng trường lớp
Chính vì QCN có nội dung rộng, nên việc
cụ thể hóa, chi tiết các quy phạm, nguyên tắc
về QCN trong Hiến pháp là một nhiệm vụ
không thể thiếu để các quy phạm, nguyên tắc
hiến pháp về QCN đi vào cuộc sống.
Thứ tư, việc cụ thể hóa các nguyên tắc,
quy định mới về QCN, QCD trong Hiến
pháp là cách thức, biện pháp hữu hiệu nhất
để Hiến pháp đi vào cuộc sống.
Từ thực tiễn tổng kết, thi hành các Hiến
pháp và đặc điểm của Hiến pháp Việt Nam
cho thấy, do các biện pháp, cơ chế thực thi
Hiến pháp còn có nhiều bất cập, nhất là chưa
có mô hình bảo hiến, chưa có cơ quan độc
lập để tuyên bố các đạo luật cụ thể là vi
phạm QCN, vi phạm Hiến pháp; việc giải
thích Hiến pháp trên thực tế còn nhiều bất
cập, nên một trong những giải pháp khả thi
nhất để Hiến pháp đi vào cuộc sống, đó
chính là phải thể chế hóa, cụ thể hóa các quy
định, nguyên tắc của Hiến pháp trong các
văn bản dưới Hiến pháp.
2. Quan điểm/nguyên tắc cụ thể hóa các
quy định mới về quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp năm 2013
Việc cụ thể hóa các quy định mới về
QCN, QCD trong Hiến pháp năm 2013 dựa
trên các quan điểm/nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, QCN xác lập mối quan hệ hai
chiều giữa cá nhân, công dân với Nhà nước,
theo đó Nhà nước, là chủ thể đầu tiên và
quan trọng nhất trong việc công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm QCN, QCD.
Phù hợp với luật nhân quyền quốc tế,
xuất phát từ bản chất của QCN, và bản chất
của Nhà nước ta, lần đầu tiên trong lịch sử
lập hiến Việt Nam quy định: “Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm QCN, QCD”4.
Với việc quy định trách nhiệm công
nhận, bảo vệ và bảo đảm QCN, QCD là
thuộc về Nhà nước, Hiến pháp - đạo luật có
hiệu lực pháp lý cao nhất đã đặt trách nhiệm
lên vai Nhà nước, cụ thể là các cơ quan
trong bộ máy nhà nước, các cán bộ, công
chức nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Đây
là nguyên tắc đặc biệt quan trọng, là linh
hồn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xác lập địa vị
pháp lý của cá nhân, công dân trong mối
quan hệ với Nhà nước. Quán triệt đầy đủ nội
dung, ý nghĩa của nguyên tắc này vào công
tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật của Việt Nam sẽ là tiêu chí đánh giá bản
chất dân chủ, tiến bộ, cũng như mức độ, hiệu
quả áp dụng Hiến pháp trong thực tế.
Thứ hai, các QCN, QCD được quy định,
liệt kê trong Hiến pháp là nguyên tắc tối
thượng và bất khả xâm phạm.
Về mặt lý luận cũng như trên thực tế,
không chỉ ở Việt Nam mà nhận thức chung
của các nhà lập hiến, lập pháp trên thế giới,
QCN được quy định trong Hiến pháp không
chỉ xác lập vị trí của cá nhân, công dân - chủ
thể mang quyền, mà còn là nguyên tắc mệnh
lệnh, bắt buộc các chủ thể có nghĩa vụ phải
tuân thủ. Lời mở đầu của Tuyên ngôn quốc
tế về QCN năm 1948, đã viết: “Việc thừa
nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng
và không thể tách rời của mọi thành viên
trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do,
công bằng và hòa bình thế giới;
Sự coi thường và xâm phạm các QCN
đã dẫn tới những hành động tàn bạo xúc
phạm tới lương tâm nhân loại Điều cốt
yếu QCN cần phải được pháp luật bảo vệ để
con người không buộc phải nổi dậy như là
4 Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
5
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự
độc tài và áp bức5”.
Phải quán triệt quan điểm/nguyên tắc
này trong thực tiễn, nhằm ngăn ngừa hành
vi vi phạm QCN từ phía Nhà nước và các
thực thể trong xã hội; đồng thời có ý nghĩa
trong xây dựng hệ thống pháp luật. Theo đó,
cần hiểu đầy đủ ý nghĩa, giá trị của nguyên
tắc này. Theo các quy định của pháp luật
hiện hành, QCN, QCD do Hiến pháp và luật
quy định. Các QCN, QCD trong Hiến pháp,
luật là tối thượng, là bất khả xâm phạm. Vì
vậy, việc thể chế hóa, chi tiết hóa các quy
định của Hiến pháp, trước hết là để bảo đảm
thực hiện quyền; tiếp đến là nhằm làm cho
cá nhân, công dân, các cơ quan, tổ chức dễ
hiểu, dễ vận dụng, dễ thực hiện. Và như vậy,
nguyên tắc thể chế hóa các quyền trong Hiến
pháp không được gây khó, cản trở, hay hạn
chế thực hiện quyền.
Ví dụ, Hiến pháp quy định: Mọi công
dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong
nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước
ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định6.
Tự do đi lại và cư trú, theo Hiến pháp là
quyền tự do của cá nhân, công dân, và quyền
này là bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, cũng
phải hiểu quyền tự do này, không phải là
quyền tuyệt đối, vì có thể bị hạn chế theo
khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013. Và
trên thực tế, vì lý do an ninh, quốc phòng,
chiến tranh, thảm họa tự nhiên, quyền này
có thể bị hạn chế thực hiện.
Ngoài các lý do trên, tự do đi lại, tự do
cư trú của công dân phải được cơ quan nhà
nước tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
Nhưng để thực hiện được quyền này, cần
phải có pháp luật quy định. Và theo nguyên
tắc QCN là tối thượng, thì thể chế hóa quy
định này bằng các văn bản pháp luật phải
theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân thực hiện được quyền tự do này của họ.
Vì vậy, quy định các điều kiện như để được
cư trú, phải có điều kiện về thời gian lưu trú,
thu nhập, có nhà ở, có hộ khẩu vô hình
chung là các quy định hạn chế cá nhân, công
dân thực hiện quyền tự do cư trú.
Thứ ba, QCN, QCD dù được quy định
trong Hiến pháp hay trong các đạo luật khác
cũng không phải là quy phạm có giá trị tuyệt
đối, có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong những trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng
đồng.
Lần đầu tiên Hiến pháp quy định QCN,
QCD chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp nhất định7. Quy định
này trước hết, phù hợp với chuẩn mực quốc
tế chung về QCN, và hầu hết Hiến pháp các
nước trên thế giới đều có các quy định xác
định những giới hạn trong việc thực hiện
quyền. Tuy nhiên, nên hiểu không phải tất
cả các quyền và tự do của con người đều có
thể bị hạn chế trong việc thực hiện. Theo
luật nhân quyền quốc tế, quyền có thể được
phân loại là quyền tuyệt đối8, quyền tương
đối9 và quyền có thể bị hạn chế10.
6
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Viện Nghiên cứu Quyền con người, Một số văn kiện của Liên hợp quốc về quyền con người trong quản lý tư pháp, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr. 13.
6 Điều 23 Hiến pháp năm 2013.
7 Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013.
8 Quyền tuyệt đối là các quyền trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thể bị xâm phạm, bị hạn chế. Ví dụ quyền không
bị tra tấn, nhục hình
9 Quyền tương đối là các quyền cần phải được thực hiện dần dần, từng bước một vì phụ thuộc các hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể, đó là các quyền chăm sóc y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở
10 Quyền có thể bị hạn chế thực hiện, là các quyền tự do dân chủ, cá nhân, như ngôn luận, báo chí, đi lại, cư trú
Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định
nguyên tắc chung là QCN, QCD có thể bị
hạn chế, nhưng chưa chỉ ra cụ thể quyền nào
có thể bị hạn chế. Và do vậy, rất có thể sẽ bị
lạm dụng trong thực thi công vụ. Quán triệt
quan điểm, nguyên tắc này trong thực tiễn,
cũng như thể chế hóa trong các đạo luật, các
văn bản dưới luật cần phải hiểu và làm rõ
nguyên tắc này. Theo đó, cần phải xác định
cụ thể quyền nào có thể bị hạn chế, các lý
do có thể bị hạn chế, cơ quan nào có thẩm
quyền hạn chế
Thứ tư, QCN, QCD gắn với nghĩa vụ
của công dân đối với Nhà nước, cộng đồng
và xã hội.
Mặc dù còn có nhiều quan điểm khác
nhau về QCD gắn với nghĩa vụ công dân.
Quy định này, về mặt quan điểm, nguyên tắc
chung là đúng, vì trong xã hội dân chủ, mọi
người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ,
không thể có người chỉ được hưởng quyền
mà lại không thực hiện nghĩa vụ và ngược
lại. Tuy nhiên, khi viện dẫn vào cụ thể từng
quyền, thì không phải quyền nào cũng có
nghĩa vụ đi kèm.
Hiểu và vận dụng nguyên tắc này trong
thực tế và trong xây dựng, hoàn thiện pháp
luật có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn.
Thứ năm, bảo đảm thực hiện QCN,
QCD phụ thuộc vào điều kiện phát triển
kinh tế, xã hội, vào lịch sử cụ thể, bối cảnh
văn hóa của quốc gia, dân tộc.
QCN là tối thượng, là bất khả xâm
phạm. Tuy nhiên, việc thể chế hóa, quy định
các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trên
thực tế là việc không dễ. Bởi vì, việc quy
định quyền trong Hiến pháp, trong luật mới
chỉ là cơ sở pháp lý bảo đảm ban đầu, để các
quyền có khả năng thực thi trong cuộc sống
thì còn cần phải có hàng loạt các biện pháp
bảo đảm khác, trong đó các bảo đảm về kinh
tế, về quyết tâm chính trị, các yếu tố văn
hóa, lịch sử cụ thể là rất quan trọng. Chính
vì vậy, việc thể chế hóa nguyên tắc này trong
thực tiễn và quán triệt vào quá trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất
là quy định các biện pháp bảo đảm trong luật
để thực hiện các quyền đã được Hiến pháp,
luật quy định cần phải xuất phát từ thực tế
khách quan, vào các điều kiện cụ thể.
3. Các giải pháp cụ thể hóa bằng pháp
luật nhằm bảo đảm hiện thực hóa các quy
định mới về quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013
3.1 Giải pháp chung
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch tổng
thể rà soát hệ thống pháp luật hiện hành, đề
xuất sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành và nghiên cứu xây dựng chương
trình pháp luật cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa
mới và chiến lược lập pháp cho các nhiệm
kỳ tiếp theo của Quốc hội.
- Rà soát, đối chiếu, so sánh và bổ sung
cơ chế thực thi Hiến pháp, trong đó cần cụ
thể hóa vai trò, trách nhiệm của UBTVQH
trong việc giải thích Hiến pháp; vai trò của
tòa án, và các cơ quan nhà nước khác có
thẩm quyền trong việc áp dụng, thực thi
Hiến pháp trong điều kiện chưa có cơ quan
bảo hiến.
3.2 Các giải pháp cụ thể
3.2.1 Thể chế hóa các quy định mới của
Hiến pháp về QCN, QCD bằng việc xây
dựng mới các đạo luật
Từ các quy định của Hiến pháp, yêu cầu
khách quan đối với một số quyền muốn bảo
đảm thực hiện được phải ban hành các luật
riêng để quy định về trình tự, thủ tục về bảo
đảm thực hiện. Đó là các quyền chính trị,
quyền tự do dân chủ của công dân được quy
định tại các Điều 25, Điều 27, Điều 28, Điều
29 Hiến pháp. Bao gồm các quyền sau đây:
Quyền tiếp cận thông tin của công dân;
quyền về lập hội; quyền hội họp, biểu tình;
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội;
quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân.
7
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Mặc dù theo quy định tại Điều 25 Hiến
pháp, việc thực hiện các quyền tự do dân
chủ về ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin,
lập hội, hội họp, biểu tình do pháp luật quy
định; nghĩa là có thể dùng các văn bản dưới
luật để quy định. Tuy nhiên, thể chế hóa
Hiến pháp bằng các văn bản dưới luật phải
bảo đảm nguyên tắc, các văn bản dưới luật
chỉ quy định cách thức, biện pháp để thực
hiện các quyền được liệt kê trong Hiến pháp.
Không được quy định các hạn chế thực hiện
quyền trong các văn bản dưới luật. Vì nếu
quy định các hạn chế/giới hạn là trái với
nguyên tắc Hiến pháp.
3.2.2 Thể chế hóa các quy định mới của
Hiến pháp về QCN, QCD bằng việc sửa đổi,
bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành
Cùng với việc ban hành các đạo luật
riêng, cần rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy
định pháp luật có liên quan, và thể chế hóa
các quy định của Hiến pháp, luật bằng các
văn bản dưới luật, theo hướng hoàn thiện về
cơ chế, thủ tục để bảo đảm thực hiện các
quyền đã được Hiến pháp và luật quy định.
Trước hết, đó các quy định mới về QCN,
QCD như: quyền sống (Điều 19); quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác; thử
nghiệm y học (khoản 3 Điều 20); quyền
được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34);
quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử
dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền
xác định dân tộc của mình (Điều 42); quyền
của mọi người được sống trong môi trường
trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường
(Điều 43).
Giải pháp này đòi hỏi các quy định mới
về QCN, QCD trên lĩnh vực về dân sự, kinh
tế, xã hội, văn hóa cần được quy định cụ thể
hơn, chính xác hơn trong các đạo luật và bảo
đảm phù hợp với thông lệ quốc tế về QCN.
- Về quyền sống: Quyền sống của cá
nhân, công dân liên quan tới việc quy định
hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự. Về
nguyên tắc, theo luật nhân quyền quốc tế,
không cấm các quốc gia áp dụng hình phạt
tử hình. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt
tử hình chỉ được phép áp dụng đối với
những tội ác nghiêm trọng nhất căn cứ vào
pháp luật hiện hành11. Hiện nay, đa số các
nước trên thế giới đã xóa hình phạt tử hình
trong Bộ luật Hình sự. Những nước thuộc
Liên minh châu Âu, điều kiện bắt buộc để
một quốc gia trở thành thành viên là phải
xóa hình phạt tử hình.
- Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người
và hiến xác; việc thử nghiệm y học, dược
học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử
nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có
sự đồng ý của người được thử nghiệm. Bảo
đảm các quy định này, cần bổ sung, quy định
chi tiết trong Bộ luật Dân sự, Luật Hiến, lấy,
ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy
xác
- Về quyền bảo đảm an sinh xã hội, cần
rà soát, bổ sung, sửa đổi các luật có liên
quan lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội,
an toàn, vệ sinh lao động
- Về quyền hưởng thụ và tiếp cận các
giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn
hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, cần rà soát,
bổ sung, sửa đổi các luật có liên quan trên
các lĩnh vực du lịch, văn hóa, di sản văn hóa,
thể thao
- Về quyền xác định dân tộc của mình,
sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ
giao tiếp, cần sửa đổi, bổ sung Luật Giáo
dục, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học
8
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11 Xem Điều 6 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966.
9
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
- Về quyền của mọi người được sống
trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ
bảo vệ môi trường, cần sửa đổi, bổ sung
Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên
nước, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
- Quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương trong xã hội, quyền trẻ em, bình
đẳng giới, quyền của người cao tuổi, quyền
của người khuyết tật đã được bảo đảm bằng
các đạo luật, cần được nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung phù hợp với các quy định của Hiến
pháp, thực tiễn của cuộc sống và thông lệ
quốc tế.
3.3.3 Thể chế hóa các quy định mới của
Hiến pháp về QCN, QCD bằng việc hiểu,
vận dụng, quán triệt đầy đủ các nguyên tắc
của Hiến pháp về QCN, QCD vào quá trình
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
Các nguyên tắc mới đã được bổ sung
trong Hiến pháp cần phải được hiểu, áp
dụng, thực hiện một cách thống nhất như:
- Các QCN, QCD về dân sự, chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa được Nhà nước
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật;
- QCN, QCD chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
cộng đồng;
- Người bị buộc tội phải được tòa án xét
xử kịp thời trong thời hạn luật định, công
bằng, công khai;
- Không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm.
3.3.4 Thể chế hóa các quy định mới của
Hiến pháp về QCN, QCD bằng việc nâng
cao hiệu quả hoạt động của UBTVQH trong
việc giải thích hiến pháp, luật và nghiên cứu
khả năng áp dụng trực tiếp các quy phạm,
nguyên tắc của Hiến pháp tại tòa án, nếu
chưa có các văn bản luật quy định chi tiết
để bảo đảm thực hiện các quyền hiến định.
Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
UBTVQH trong việc giải thích Hiến pháp,
xuất phát từ thực tiễn khách quan là nhiều
quy định, nguyên tắc của Hiến pháp cần
phải được giải thích nhằm khắc phục những
hạn chế, thiếu hụt trong các quy định của
pháp luật hiện hành như: một số quyền tự do
dân chủ của công dân được Hiến pháp quy
định, nhưng chưa có văn bản luật quy định
chi tiết; chưa có quy định về trình tự, thủ tục
thực hiện, nên khó thực hiện; nhiều quy
định, nguyên tắc của Hiến pháp còn có
nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau,
nếu không có sự giải thích dễ dẫn đến sự tùy
tiện trong việc hiểu, vận dụng và thực hiện.
Do vậy, tăng cường giải thích Hiến pháp
là một trong những cơ sở quan trọng không
chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn có ý
nghĩa thực tiễn để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định các hành vi của công dân
trong việc thực hiện các quyền tự do, dân
chủ được quy định trong Hiến pháp là đúng,
hay sai, có được phép thực hiện hay không
được thực hiện, lý do không được thực hiện,
cơ quan nào có thẩm quyền cho phép, cơ
quan nào có thẩm quyền ngăn cấm; các hành
vi của công dân, và việc thực thi công vụ của
của cán bộ, công chức, của cơ quan có thẩm
quyền là đúng hay sai.
Bên cạnh việc tăng cường giải thích
Hiến pháp của UBTVQH, để các quy định,
nguyên tắc của Hiến pháp được thực hiện
trong cuộc sống, cũng cần nghiên cứu khả
năng công dân có thể viện dẫn các quy định
của Hiến pháp, đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và tòa án được áp dụng trực
tiếp các quy định, nguyên tắc của Hiến pháp
để giải quyết các tranh chấp phát sinh liên
quan tới quyền, lợi ích và nghĩa vụ của công
dân, trong mối quan hệ với Nhà nước ngay
cả khi chưa có các văn bản luật hay dưới
luật quy định n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cu_the_hoa_cac_quy_dinh_moi_ve_quyen_con_nguoi_quyen_cong_da.pdf