Trong ghép thận, chiến lược điều trị lao có
một số khác biệt so với người bệnh không nhận
thận ghép: thời gian điều trị có thể kéo dài 12- 24
tháng tùy trường hợp cụ thể. Điều trị lao(4,6,7,11,9,15)
với phác đồ cổ điển R12H12E12Z12 có tỷ lệ thành
công cao, nhưng chính Rifampicin ảnh hưởng
làm giảm nồng độ của các thuốc ức chế
calcineurin (CNI) (Sandimmun Neoral hay
Tacrolimus), nên phải tăng liều thuốc CNI nhằm
đạt được nồng độ yêu cầu của việc chống thải
ghép. Chính việc tăng liều này không chỉ làm
tăng chi phí điều trị mà còn làm tăng tác dụng
phụ của thuốc, 1 BN (2,2%) trường hợp phải
ngưng điều trị lao lúc 8 tháng (kết hợp sử sụng
thêm Quinolone và kiểm tra thương tổn ở phổi
đã sạch). Nên từ đầu năm 2010, nhằm hạn chế sự
thay đổi của nồng độ thuốc CNI, theo hướng
dẫn của các chuyên gia về ghép trên thế giới,
chúng tôi áp dụng phác đồ mới với
H12E12Z12Q12(6,7), cho những trường hợp lao phổi
đơn thuần. Đối với những trường hợp lao hạch,
lao xương, lao màng bụng,. hay lao đa cơ quan,
tùy thuộc vào việc đánh giá lâm sàng từng
trường hợp có thể chúng tôi sẽ áp dụng phát đồ
điều trị cổ điển đồng thời kết hợp thêm
Quinolone và thời gian điều trị có thể kéo dài
đến 24 tháng. Cho đến nay, chưa thấy có trường
hợp nào thải ghép cấp hay có lao tái phát.
Nhưng đáng tiếc có 1 BN (2,2%) lao khớp, thể
trạng suy kiệt nặng, người nhà cho ăn ở tư thế
nằm, bệnh nhân tử vong vì viêm phổi hít trước
khi bước vào liệu trình điều trị, 1 BN (2,2%) điều
trị được 3 tháng, tác dụng phụ xuất hiện-mờ
mắt, nhược cơ phải đặt nội khí quản thở máy,
chức năng thận vẫn tốt, người nhà không đồng ý
điều trị tiếp xin về. 1 BN (2,2%) tử vong vì rối
loạn điện giải, hạ đường huyết gây rối loạn nhịp
tim, bệnh nhân tự nhập viện ở khoa khác, do
mất thời gian tính để làm chẩn đoán nguyên
nhân nên phát hiện muộn và bệnh nhân đã tử
vong. Quyết định hoàn thành liệu trình điều trị
dựa vào chẩn đoán hình ảnh tổn thương lao
sạch, BK, PCR lao âm tính (nếu có mẫu), tốc độ
máu lắng, CRP âm tính.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 545 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh nhân lao sau ghép thận điều trị tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 183
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN LAO SAU GHÉP THẬN ĐIỀU TRỊ 
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Dư Thị Ngọc Thu*, Nguyễn Trọng Hiền*, Nguyễn Thị Thái Hà*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Thái Minh Sâm*, 
Trần Ngọc Sinh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh lao là loại bệnh nhiễm trùng thường gặp với tỉ lệ cao ở các nước đang phát triển. Trên 
bệnh nhân ghép tạng, tỷ lệ nhiễm lao cao hơn dân số chung do nhiều yếu tố thuận lợi(1,14,4). Nhiễm lao gây biến 
chứng trên nhiều cơ quan và làm gia tăng tỷ lệ tử vong. Do đó cần phải có kế hoạch tầm soát và phát hiện sớm 
bệnh lao trên đối tượng này. 
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả trên nhóm bệnh nhân (BN) theo dõi sau 
ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) từ 1992-2013. Tiêu chuẩn chọn bệnh là tất cả bệnh nhân được phát 
hiện nhiễm lao bất kỳ cơ quan nào. Các thông số đánh giá gồm thời gian nhiễm lao sau ghép tạng, các yếu tố nguy 
cơ gây nhiễm lao (môi trường sống, nghề nghiệp, liều thuốc ức chế miễn dịch, các bệnh lý đi kèm...), hiệu quả điều 
trị lao với sử dụng 3 phác đồ (phác đồ cổ điển R12H12E12Z12 (từ trước 1992-2007), phác đồ H12E12Z12Q12 và phác đồ 
R24H24E24Z24Q24 (từ 2008-2013), ảnh hưởng của thuốc kháng lao trên chức năng gan thận, tác dụng phụ của 
thuốc kháng lao. Chọn lựa các công thức điều trị cơ bản dựa vào hướng dẫn của CDC(13) phối hợp với kinh nghiệm 
của các chuyên gia về nhiễm trùng sau ghép thận(11,10). 
Kết quả: từ 1992-2013 có 710 trường hợp (TH) được theo dõi và điều trị sau ghép tại BVCR. Trong đó có 45/710 
TH (6,3%) bùng phát lao sau ghép: 20/45 TH (44,4%) ghép tại BVCR và 25/45 TH (55,6%) ghép từ các trung 
tâm khác ở trong và ngoài nước. Thời gian phát hiện bệnh trung bình là 86,9±92,7 (0,9;308) tháng sau ghép. Các 
cơ quan bị thương tổn lao sau ghép gồm: phổi 32/45TH (71,1%); hạch, khớp 3/45TH (6,6%), màng bụng, cột 
sống, cơ 4/45TH (8,8%), đa cơ quan 6/45TH (13,3%). Công thức điều trị REHZ 17/45TH (37,8%), EHZQ 
15/45TH (40,0%), REHZQ 10/45TH (22,2%). Thời gian điều trị trung bình 13,43±3,57 tháng (6;24). 1/45TH 
tử vong vì viêm phổi hít trước khi bước vào liệu trình điều trị, 1/45 TH tử vong vì hạ đường huyết và rối loạn 
điện giải, 1/45TH tử vong vì suy hô hấp do nhược cơ, 1/45 TH tử vong vì choáng nhiễm trùng. 39/45TH (86,7%) 
điều trị khỏi bệnh. 
Bàn luận và kết luận: Tỷ lệ nhiễm lao trên bệnh nhân ghép thận khá cao. Tổn thương lao có thể tìm thấy ở 
nhiều cơ quan trong cơ thể. Phát hiện bệnh sớm bằng cách lên kế hoạch tầm soát lao định kỳ cho tất cả bệnh nhân. 
Điều trị lao với phác đồ được khuyến cáo đủ thuốc, đủ thời gian sẽ đem lại kết quả khả quan. 
Từ khóa: Tuberculosis after renal transplantation, Tuberculosis in renal transplantation, Risk factors for 
post-transplant tuberculosis, infections after renal transplantation. 
ABSTRACT 
CHARACTERISTICS OF TUBERCULOSIS PATIENTS 
AFTER RENAL TRANSPLANTATION TO BE TREATMENT AT CHO RAY HOSPITAL 
Du Thi Ngoc Thu, Nguyen Trong Hien. Nguyen Thi Thai Ha, Hoang Khac Chuan, Thai Minh Sam, 
Tran Ngoc Sinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 183 - 188 
Background: Tuberculosis (TB) is a common infectious disease with a high rate in the developing countries. 
* Khoa - Bộ môn Ngoại Tiết Niệu BVCR 
Tác giả liên lạc: GS. Trần Ngọc Sinh, ĐT: 0983723493, Email: tnsinh@hotmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Thận Niệu 184
The ratio of tuberculosis infection is higher after transplantation because many factors(1,14,4). The TB disease can be 
infected in many organs and increased mortality, so need to plan on screening and early detection of tuberculosis 
in patients after transplant. 
Materials and methods: The prospectively study for all the patients, who are following after renal 
transplantation at Cho Ray Hospital (CRH) from 1992 to 2013. The criteria for selection of patients are all of 
cases had been TB infection in any organs. The parameters evaluated included duration of tuberculosis after organ 
transplant, the risk factors of tuberculosis (environment, occupational doses of immunosuppressive drugs, the 
comorbidity...), effective TB treatment regimens to use 3 (R12H12E12Z12 (from 1992-2007), R24H24E24Z24Q24, or 
H12E12Z12Q12 (from 2008 to 2013)). The effects of anti-tuberculosis drugs on liver and kidney function, the side 
effects of anti-tuberculosis drugs. Choosing the treatment regimen is based on the CDC guidelines(12) in 
collaboration with the experience of experts in infection after renal transplantation(9,10). 
Results: 710pts are following at CRH. 45/710pts (6.3%) have tuberculosis disease including: 20/45pts 
(44.4%) transplants at CRH and 25/45 pts (55.6%) transplants from other centers. The average time detection 
TB disease is 86.9±92.7 (0.9; 308) months after renal transplantation. The organ damaged by TB after 
transplantation includes: lung 32/45pts (71.1%), lymph nodes, joints 3/45pts (6.6%), peritoneum, spine, muscles 
4/45pt (8.8%), multi- organs 6/45pts (13.3%). The regiments of TB treatment include REHZ 17/45pts (37.8%), 
EHZQ 18/45pts (40.0%), REHZQ 10/45pts (13.3%). The average time of duration is 13.43 ± 3.57 months (6; 
24). 1/45pt died of the inhalation pneumonia before to accept the TB therapy, 1/45pt died of the hypoglycemia and 
electrolyte disorders, 1/45pt died of the respiratory failure due to muscle weakness, 1/45pt died of the septicemia. 
39/45pts (86.7%) achieved good results. 
Discussion and conclusion: The rate of TB infection in kidney transplant patients is quite high. TB lesions 
can be found in many organs in the body. Early detection by screening TB scheduled periodically for all patients. 
TB treatment regimens are recommended enough drugs; enough time will bring positive results. 
Key words: Tuberculosis after renal transplantation, Tuberculosis in renal transplantation, Risk factors for 
post-transplant tuberculosis, infections after renal transplantation. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Lao vẫn là một vấn đề sức khỏe lớn tại các 
nước đang phát triển. Tại Việt Nam, tần suất 
nhiễm lao là khá cao với 147/1.000.000 dân (số 
liệu của Ngân hàng thế giới năm 2012). Trên 
bệnh nhân ghép tạng, tỷ lệ nhiễm lao cao hơn 
dân số chung do nhiều yếu tố thuận lợi(1,14,4). 
Nhiễm lao gây biến chứng trên nhiều cơ quan và 
làm gia tăng tỷ lệ tử vong. Nghiên cứu tại Ấn Độ 
cho thấy, tỉ lệ nhiễm lao sau ghép tạng là 10-20% 
và tử vong trong số bệnh nhân mắc bệnh lao là 
20-25%(11,10). Ở Tây Ban Nha, tỷ lệ nhiễm lao trên 
bệnh nhân ghép thận là 6.24% so với tỷ lệ 0,14% 
của cả nước(1). 
Ở Việt Nam ghép thận được thực hiện từ 
tháng 12/1992. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có 
số liệu về nhiễm lao trên đối tượng bệnh nhân 
này của Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi 
nhằm mục đích báo cáo tỷ lệ nhiễm lao, các đặc 
điểm của bệnh nhân nhiễm lao sau ghép thận và 
kết quả điều trị kháng lao tại BVCR. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả trên nhóm bệnh 
nhân (BN) theo dõi sau ghép thận tại bệnh viện 
Chợ Rẫy (BVCR) từ 1992-2013. Tiêu chuẩn chọn 
bệnh là tất cả bệnh nhân được phát hiện nhiễm 
lao bất kỳ cơ quan nào. Các thông số đánh giá 
gồm thời gian nhiễm lao sau ghép tạng, các yếu 
tố nguy cơ gây nhiễm lao (môi trường sống, 
nghề nghiệp, liều thuốc ức chế miễn dịch, các 
bệnh lý đi kèm....), hiệu quả điều trị lao với sử 
dụng 3 phác đồ (phác đồ cổ điển R12H12E12Z12 (từ 
trước 1992-2007), phác đồ H12E12Z12Q12 và phác đồ 
R24H24E24Z24Q24 (từ 2008-2013), ảnh hưởng của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 185
thuốc kháng lao trên chức năng gan thận, tác 
dụng phụ của thuốc kháng lao. Chọn lựa các 
công thức điều trị cơ bản dựa vào hướng dẫn 
của CDC(13) phối hợp với kinh nghiệm của các 
chuyên gia về nhiễm trùng sau ghép thận(11,10). 
KẾT QUẢ 
Từ năm 1992 đến năm 2013 có 710 BN được 
theo dõi và điều trị sau ghép thận tại BVCR, 45 
(6,3%) BN được phát hiện nhiễm lao sau ghép: 
20/45 BN (44,4%) ghép thận tại BVCR và 25/45 
BN (55,6%) ghép từ các trung tâm khác ở trong 
và ngoài nước. Tuổi trung bình là 38,0±11,0 tuổi 
(cao nhất 68, thấp nhất 20). Tỉ lệ nam: nữ là 2:1. 
Bệnh nhân đến từ TPHCM chiếm đa số 44,4%, 
các tỉnh miền Tây Nam bộ 26,7% và ở các tỉnh 
khác 28,9%. Nghề nghiệp công nhân viên 55,6% 
(25 BN), buôn bán 22,2% (10 BN), một số ít là nội 
trợ, nông dân, sinh viên. Trong tiền sử bản thân 
có 5 BN bị lao trước đó (11,1%), 4 BN có người 
trong gia đình bị lao (8,9%). 4 BN có tiền căn hút 
thuốc trước ghép (8,9%). 
Các cơ quan bị nhiễm lao đa số là phổi (32 
BN -71,1%), 6 BN (13,3%) lao đa cơ quan (lao 
phổi-ống tai, lao phổi-cột sống, lao phổi-hạch, 
lao phổi-màng bụng, lao phổi-hốc mắt-màng 
não). Thời gian phát hiện bệnh trung bình là 
86,9±92,7 (0,9;308) tháng sau ghép. Bảng 1 mô tả 
đặc điểm của BN nhiễm lao. 
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân lao sau ghép thận 
Bệnh nhân lao sau ghép thận = 45 Tần số (%) 
Tuổi trung bình 
(cao nhất – thấp nhất) 
38,4±11,4 
68 - 20 
Tỷ lệ Nam:Nữ 2:1 
Địa chỉ 
TP Hồ Chí Minh 
Miền Tây Nam Bộ 
Khác (Miền Đông, Tây Nguyên...) 
20 (44,4) 
12 (26,7) 
13 (28,9) 
Nghề nghiệp 
Công nhân viên 
Buôn bán 
Khác (nông dân, sinh viên, nội trợ...) 
25 (55,6) 
10 (22,2) 
10 (22,2) 
Tiền sử - dịch tễ 
Bản thân đã bị lao 
Gia đình có người bị lao 
5 (11,1) 
4 (8,9) 
Thời gian phát hiện bệnh sau ghép (tháng) 
Trung bình ± độ lệch chuẩn 
86,7 ±7.2 
Bệnh nhân lao sau ghép thận = 45 Tần số (%) 
 3 tháng 
 6 tháng 
 12 tháng 
 >12 tháng 
3 (6,7) 
4 (8,9) 
1 (2,2) 
37 (82,2) 
Cơ quan tổn thương lao 
 Phổi 
 Hạch 
Cơ 
 Khớp 
Cột sống 
Màng bụng 
 Đa cơ quan 
32 (71,1) 
2 (4,4) 
1 (2,2) 
1 (2,2) 
2 (4,4) 
1 (2,2) 
6 (13,3) 
Các yếu tố thuận lợi làm bùng phát bệnh lao 
sau ghép thận là sau sử dụng thuốc ức chế miễn 
dịch chống thải ghép liều tải (bolus) (13 BN- 
28,9%); mắc bệnh lý kèm theo (22 BN -48,9%); và 
các yếu tố khác (8 BN - 17,8%). Phân tích chi tiết 
liều thuốc UCMD trung bình sử dụng tại thời 
điểm phát hiện lao được trình bày trong bảng 2, 
trong số này có 3 BN được kết hợp cả 
Solumedrol. 
Bảng 2: Thuốc UCMD trung bình đang sử dụng tại 
thời điểm phát hiện lao 
LOẠI THUỐC 
UCMD 
Thời điểm 
C0 ng/ml 
Thấ
p 
nhất 
Cao 
nhất 
Thời 
điểm C2 
ng/ml 
Thấ
p 
nhất 
Cao 
nhất 
Sandimmun 
Neoral 
115,3 
±83,2 
30 384 594,4 
±287,1 
176 1231 
Tacrolimus 6,6±3,7 2,1 18,4 
Loại thuốc 
UCMD 
Liều trung 
bình 
mg/24h 
Thấp 
nhất 
Cao 
nhất 
Mycophenolate 
Mofetil 
1364,1 
±374,5 
1000 2000 
Steroids 9,2±4,8 5 20 
Trong các bệnh lý kèm theo, nhiễm 
Cytomegalo virus (CMV) có 7 BN, viêm gan siêu 
vi (A, B, C hay cả B và C) có 8 BN. Ngoài ra là BN 
có tình trạng nhiễm trùng như nhiễm nấm phổi, 
nhiễm nấm đường tiêu hóa, viêm phổi hay các 
bệnh mạn tính như lupus, đái tháo đường, tăng 
huyết áp,....và thải ghép cấp, mạn. 
Những BN còn lại có các yếu tố tiền sử bản 
thân và gia đình nhiễm lao, tác dụng phụ của 
điều trị UCMD chống thải ghép (đa hồng cầu), 
Điều trị kháng lao áp dụng cho 42 BN do 1 
BN đã tử vong trước khi điều trị. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Thận Niệu 186
Điều trị kháng lao áp dụng cho 42 BN do: 
Nhóm 1992-2007: 
 + REHZ (1 TH bỏ khám, 1 TH tử vong khi 
đang điều trị 3 tháng, lao phổi phát hiện muộc, 
thải ghép mạn, chạy thận nhân tạo, suy kiệt 
nặng). 12 tháng (10 TH), 13 tháng (2TH). 
 + REHZQ 1TH bỏ khám vào tháng thứ tư (lao 
phổi-màng bụng, lao phổi-hốc mắt-màng não), 
13 tháng (2 TH) 
Nhóm 2008-2013: 1 BN đã tử vong trước khi điều 
trị. 
 + REHZ: 12 tháng (3TH) 
 + EHZQ: 1 TH tử vong do RLĐG 3 tuần sau 
điều trị, 1TH lao phổi + cột sống (phác hiện lao 
cột sống vào tháng thứ 8) tử vong vào tháng thứ 
8 do choáng nhiễm trùng suy đa cơ quan, nghi 
ngờ lao kháng thuốc, 1TH tử vong vào tháng thứ 
11 vì liệt cơ do tác dụng phụ của thuốc (người 
nhà xin về). 12 tháng (8 TH), 13 tháng (2TH), 14 
tháng (1TH), 16 tháng (2TH), 17 tháng (1TH), 18 
tháng (1TH) 
 + REHZQ: 1 TH do tương tác thuốc lao với 
thuốc UCMD nên phối hợp 5 loại thuốc, rút 
ngắn thời gian điều trị lao, ngưng lúc 6 tháng. 12 
tháng (2TH), 17 tháng (1TH), 24 tháng (3TH). 
Trong trường hợp có diễn tiến lâm sàng 
không thuận lợi sẽ xem lại công thức thuốc và 
chỉnh liều hoặc điều trị theo kháng sinh đồ (nếu 
có). 
Thời gian điều trị được xác định cho từng ca 
bệnh. Các yếu tố để quyết định chấm dứt liệu 
trình điều trị lao bao gồm hình ảnh X quang 
phổi, X quang xương, nội soi ống tai, tìm vi 
trùng lao trong đàm hay dịch dạ dày, xét nghiệm 
máu VS và CRP. Thời gian điều trị trung bình 
13,43±3,57 tháng (6;24). 
Theo dõi điều trị đã phát hiện 18 BN xuất 
hiện các tác dụng phụ của thuốc. Trong đó viêm 
gan (2 BN), suy thận (5 BN), giảm thị lực (2 BN), 
giảm thị lực kèm theo các tổn thương viêm gan, 
suy thận (4 BN, giảm thính và thị lực (1 BN), 
ngoài ra rối loạn điện giải kèm tổn thương thận 
và thị lực (1 BN), viêm gan, suy thận và suy tủy 
(1 BN), rối loạn điện giải kèm hạ đường huyết (1 
BN), liệt cơ (1 BN). 
Kết quả điều trị khỏi bệnh 39 BN (86,7%). Ba BN 
nặng xin về / tử vong (6,7%), trong đó 1 BN điều 
trị được 3 tháng xảy ra mờ mắt, nhược cơ phải 
đặt nội khí quản thở máy, thân nhân xin về. 1 
BN rối loạn điện giải, hạ đường huyết gây rối 
loạn nhịp tim, bệnh nhân nhập vào khoa khác 
trước khi chuyển đến khoa Ngoại Tiết Niệu, do 
mất thời gian tính để làm chẩn đoán nguyên 
nhân nên phát hiện muộn và bệnh nhân đã tử 
vong, 1 BN nghi lao kháng thuốc, kết quả chưa 
xác định được, BN tử vong vì choáng nhiễm 
trùng suy đa cơ quan, rối loạn đông máu. 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ nhiễm lao sau ghép thận trên bệnh 
nhân theo dõi và điều trị tại BVCR là khá cao 
(6,3%). Bệnh lao có thể xuất hiện ở bất kỳ thời 
gian nào và trên bất kỳ cơ quan nào ở bệnh nhân 
sau ghép nếu có kèm theo các yếu tố thuận lợi: 
thuốc UCMD liều cao, cơ thể suy kiệt hay bùng 
phát sau một đợt điều trị thải ghép hay bệnh 
khác cùng với hoàn cảnh và điều kiện sống của 
người bệnh(12,19). Theo các báo cáo của các tác giả, 
thông thường các bệnh nhiễm trùng thường xuất 
hiện trong năm đầu tiên, đặc biệt là 6 tháng đầu 
sau ghép(11,18). Trong loạt nghiên cứu của chúng 
tôi, số BN được phát hiện lao trong 6 tháng đầu 
tiên là 7 BN (15,6%), 12 tháng là 1 BN (2,2%) và 
sau 12 tháng là 37 BN (82,2%). Sự khác biệt này 
có thể liên quan đến nhiều yếu tố như: môi 
trường sống, bệnh lý kèm theo, tiền căn trước 
ghép và đặc biệt là liên quan đến vấn đề thuốc 
UCMD sau ghép(11). Qua bảng 2 nhận thấy rằng 
có 10 BN (23,3%) bệnh lao xuất hiện sau đợt điều 
trị thải ghép cấp và liều thuốc Sandimmun 
Neoral, Tacrolimus,... còn duy trì khá cao. 
Chọn lựa phác đồ điều trị lao chung cho 
người lớn theo hướng dẫn của Hội Lồng Ngực 
Mỹ, CDC (Centers for Disease Control and 
Prevention) và Hội những bệnh nhiễm trùng tại 
Mỹ(8), vì tỷ lệ vi trùng lao có khả năng kháng 
isoniazid (INH) tương đối cao nên thường khởi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 187
đầu với công thức REHZ trong 6 tháng thì hiệu 
quả điều trị sẽ đạt tối đa. Và trong trường hợp 
mới mắc bệnh lao thì phác đồ điều trị gồm 
REHZ trong 2 tháng, và khi kết quả cấy lao 
không kháng thuốc thì có thể loại bỏ ETB. 
Trong ghép thận, chiến lược điều trị lao có 
một số khác biệt so với người bệnh không nhận 
thận ghép: thời gian điều trị có thể kéo dài 12- 24 
tháng tùy trường hợp cụ thể. Điều trị lao(4,6,7,11,9,15) 
với phác đồ cổ điển R12H12E12Z12 có tỷ lệ thành 
công cao, nhưng chính Rifampicin ảnh hưởng 
làm giảm nồng độ của các thuốc ức chế 
calcineurin (CNI) (Sandimmun Neoral hay 
Tacrolimus), nên phải tăng liều thuốc CNI nhằm 
đạt được nồng độ yêu cầu của việc chống thải 
ghép. Chính việc tăng liều này không chỉ làm 
tăng chi phí điều trị mà còn làm tăng tác dụng 
phụ của thuốc, 1 BN (2,2%) trường hợp phải 
ngưng điều trị lao lúc 8 tháng (kết hợp sử sụng 
thêm Quinolone và kiểm tra thương tổn ở phổi 
đã sạch). Nên từ đầu năm 2010, nhằm hạn chế sự 
thay đổi của nồng độ thuốc CNI, theo hướng 
dẫn của các chuyên gia về ghép trên thế giới, 
chúng tôi áp dụng phác đồ mới với 
H12E12Z12Q12(6,7), cho những trường hợp lao phổi 
đơn thuần. Đối với những trường hợp lao hạch, 
lao xương, lao màng bụng,.. hay lao đa cơ quan, 
tùy thuộc vào việc đánh giá lâm sàng từng 
trường hợp có thể chúng tôi sẽ áp dụng phát đồ 
điều trị cổ điển đồng thời kết hợp thêm 
Quinolone và thời gian điều trị có thể kéo dài 
đến 24 tháng. Cho đến nay, chưa thấy có trường 
hợp nào thải ghép cấp hay có lao tái phát. 
Nhưng đáng tiếc có 1 BN (2,2%) lao khớp, thể 
trạng suy kiệt nặng, người nhà cho ăn ở tư thế 
nằm, bệnh nhân tử vong vì viêm phổi hít trước 
khi bước vào liệu trình điều trị, 1 BN (2,2%) điều 
trị được 3 tháng, tác dụng phụ xuất hiện-mờ 
mắt, nhược cơ phải đặt nội khí quản thở máy, 
chức năng thận vẫn tốt, người nhà không đồng ý 
điều trị tiếp xin về. 1 BN (2,2%) tử vong vì rối 
loạn điện giải, hạ đường huyết gây rối loạn nhịp 
tim, bệnh nhân tự nhập viện ở khoa khác, do 
mất thời gian tính để làm chẩn đoán nguyên 
nhân nên phát hiện muộn và bệnh nhân đã tử 
vong. Quyết định hoàn thành liệu trình điều trị 
dựa vào chẩn đoán hình ảnh tổn thương lao 
sạch, BK, PCR lao âm tính (nếu có mẫu), tốc độ 
máu lắng, CRP âm tính. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ nhiễm lao trên bệnh nhân ghép thận 
khá cao. Tổn thương lao có thể tìm thấy ở nhiều 
cơ quan trong cơ thể. Phát hiện bệnh sớm bằng 
cách lên kế hoạch tầm soát lao định kỳ cho tất cả 
bệnh nhân, và có lịch kiểm tra đặc biệt cho 
những bệnh nhân có nguy cơ cao như: có nhiều 
đợt thải ghép, có sự hòa hợp miễn dịch thấp phải 
sử dụng thuốc UCMD liều cao, người có tiền căn 
laoĐiều trị lao với phác đồ được khuyến cáo 
đủ thuốc, đủ thời gian sẽ đem lại kết quả khả 
quan cho bệnh nhân ghép thận bị nhiễm lao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aguado JM, Herrero JA, Gavalda´ J, Torre-Cisneros J, Blanes 
M, Rufí G, Moreno A, Gurguí M, Hayek M, Lumbreras C, 
Cantarell C (1997), “Clinical presentation and outcome of 
tuberculosis in kidney, liver, and heart transplant recipients in 
Spain”, Transplantation; 63, pp. 1278–1286. 
2. Atasever A, Bacakoglu F, Toz H, Basoglu OK, Duman S, 
Basak K, Guzelant A and Sayiner A (2005). “Tuberculosis in 
renal transplant recipients on various immunosuppressive 
regimens”, Nephrol Dial Transplant, 20, pp. 797–802. 
3. Bệnh lao toàn cầu kiểm soát: giám sát, lập kế hoạch, tài chính: 
WHO báo cáo năm 2008. Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới; 2008 
(WHO/HTM/TB/2008.393). 
4. Bộ Y Tế (2009), “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng 
bệnh lao”, ban hành kèm theo quyết định số 979/QĐ-BYT 
ngày 24 tháng 3 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Y Tế. 
5. Butler R, Carr J, (2008), “The photo of Mycobacterium 
tuberculosis was obtained from the Centers for Disease 
Control and Prevention, CDC”, U.S. National Institute of 
Allergy and Infectious Diseases (NIAID). 
6. Dư Thị Ngọc Thu, Thái Minh Sâm, Hoàng Khắc Chuẩn, 
Nguyễn Thị Thái Hà, Nguyễn Trọng Hiền (2010), “Tình hình 
lao sau ghép thận tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, nxb Y học chi nhánh 
TPHCM, tr. 140-157. 
7. Dư Thị Ngọc Thu, Thái Minh Sâm, Hoàng Khắc Chuẩn, 
Nguyễn Thị Thái Hà, Nguyễn Trọng Hiền (2012), “Lao trên 
người sau ghép thận: kinh nghiệm điều trị tại Bệnh viện Chợ 
Rẫy”, Y học TPHCM, phụ bản của tập 16, số 1, tr. 370-374. 
8. Gerberding JL, Fleming DW, Snider DE, Thacker SB, Ward 
JW, Hewitt SM, Smith-Akin CK, Mclntyre L, Holland BJ, 
Heilman MA, Doan QM (2003), “Treatment of Tuberculosis”, 
American Thoracic Society, CDC, and Infectious Diseases Society of 
America, Vol 52, n0. RR-11. 
9. Ginsburg AS, Grosset JH, Bishai WR (2003), 
“Fluoroquinolones, tuberculosis, and resistance”, Lancet Infect 
Dis. ; 3, pp. 432–442 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Thận Niệu 188
10. John GT (2009), “Infections after renal transplantation in 
India”, Journal of Nephrology and renal Transplantation (JNRT), 
2(1), pp 71-88. 
11. John GT, Shankar V, Abraham AM, Mukundan U, Thomas PP 
and Jacob CK (2001), “Risk factors for post-transplant 
tuberculosis”, Kidney International, 60, pp. 1148-1153. 
12. Kiểm soát bệnh lao toàn cầu: giám sát, quy hoạch, tài chính: 
WHO” (2008), Geneva: World Health Organization; 
(WHO/HTM/TB/2008.393). Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới; 
(WHO/HTM/TB/2008.393). 
13. Morbidity and Mortality Weekly Report (MMWR) (2003), 
“Treatment of Tuberculosis” American Thoracic Society, CDC, 
and Infectious Diseases Society of America, vol. 52, No RR-11. 
14. Nguyễn Hòa Bình, Đinh Ngọc Sỹ, Nguyễn Việt Nhung, 
Tiemersma E.W., Borgdorff M.W., Cobelens Fr. G.J. (2009), 
“Khảo sát toàn quốc về tỉ lệ nhiễm lao ở Việt Nam”, Bản tin 
của tổ chức Y tế thế giới, (88), tr. 273-280. 
15. O’Brien RJ (2003), “Development of fluoroquinolones as first-
line drugs for tuberculosis—at long last”, Am J Respir Crit Care 
Med; 168, pp. 1266–1268. 
16. Park YS, Choi JY, Cho CH, Chang KH, Song YG, Kim YS, Kim 
JM (2004), “Clinical outcomes of tuberculosis in renal 
transplant recipients”, Yonsei Med J; 45, pp. 865–872. 
17. Rosane, Urbini-Santos C, Alves-Filho G, Ribeiro Resende M, 
and Mazzali M Guida.JPS, Bignotto D, (2009). “Tuberculosis 
in Renal Transplant Recipients: A Brazilian Center Registry”. 
Transplantation Proceedings, 41, 883–884. 
18. Singh N, Paterson DL (1998), “Mycobacterium tuberculosis 
infection in solid organ transplantation recipients: Impact and 
implications for management”, Clin Infect Dis 27:1266. 
(PUBMED). 
19. Trần Văn Sáng (2007), “Đặc điểm của bệnh lao”, Bệnh học lao, 
nxb Y học Hà Nội, tr. 12-21. 
Ngày nhận bài báo: 17/5/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/5/2014 
Ngày bài báo được đăng: 10/7/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dac_diem_benh_nhan_lao_sau_ghep_than_dieu_tri_tai_benh_vien.pdf dac_diem_benh_nhan_lao_sau_ghep_than_dieu_tri_tai_benh_vien.pdf