Nhiễm nấm vẫn còn là một vấn đề khó khăn
trong chẩn đoán. Các triệu chứng lâm sàng và
cận lâm sàng thường không đặc hiệu. Do đó
đứng trước một bệnh nhi có nhiều yếu tố nguy
cơ và có biểu hiện của nhiễm khuẩn bệnh viện,
ta cần chỉ định cấy bệnh phẩm tìm nấm sớm.
Candida albicans vẫn là tác nhân thường gặp nhất.
Không ghi nhận trường hợp nào kháng
amphotericin B của các tác nhân phân lập được.
Tỉ lệ kháng thuốc của nhóm azole rất cao đối với
Candida spp.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh nhi nhiễm nấm tại khoa hồi sức tích cực-Chống độc-bệnh viện nhi đồng 1 từ 1/2009 đến 12/2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 22
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHI NHIỄM NẤM TẠI KHOA
HỒI SỨC TÍCH CỰC - CHỐNG ĐỘC - BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
TỪ 1/2009 ĐẾN 12/2013
Phùng Nguyễn Thế Nguyên**, Dương Thiện Trang Thi *, Nguyễn Minh Tiến*, Nguyễn Hữu Nhân*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và vi sinh ở bệnh nhi nhiễm nấm ở một khoa hồi
sức hàng đầu về nhi khoa.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả 42 trường hợp nhiễm nấm tại khoa Hồi sức Tích cực – Chống độc bệnh
viện Nhi Đồng 1 từ tháng 01/2009 đến tháng 12/2013.
Kết quả: Tỉ lệ nam/nữ là 2:1 với 71,4% trẻ dưới 1 tuổi. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất bao gồm:
sốt kéo dài không đáp ứng kháng sinh (23,8%), sốc mất bù (31%), suy hô hấp phải đặt nội khí quản (4,8%), cai
máy thất bại (7,1%). Tăng bạch cầu được ghi nhận trong 26,2% trường hợp, thiếu máu chiếm tỉ lệ 54,8% và
giảm tiểu cầu chiếm 50%. Tỉ lệ tăng men gan và suy thận lần lượt là 45,2% và 14,3%. Nấm được phân lập từ
máu trong 42,9% trường hợp và 57,1% từ NTA/ETA. Kết quả phân lập nấm theo thứ tự là: C. albicans (57,1%),
C. tropicalis (28,6%), C. parapsilosis (4,8%), C. famata (4,8%), C. glabarta (2,4%) và Saccharomyces cerevisiae
(2,4%). Tỉ lệ nhiễm nấm phối hợp vi khuẩn là 23,8%. Không ghi nhận trường hợp nào kháng amphotericin B. Tỉ
lệ kháng flucytosine, itraconazole, voriconazole và fluconazole lần lượt là 7,1%, 88,1%, 83,3% và 78,6%.
Kết luận: Nhiễm nấm vẫn là một thách thức trong quá trình chẩn đoán. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm
sàng thường không đặc hiệu. Candida albicans vẫn là tác nhân thường gặp nhất. Không ghi nhận trường hợp nào
kháng amphotericin B trong khi tỉ lệ kháng thuốc của nhóm azole rất cao. Cần cấy bệnh phẩm tìm nấm sớm trước
một bệnh nhi có nhiều yếu tố nguy cơ và có biểu hiện nhiễm khuẩn bệnh viện.
Từ khóa: Nhiễm nấm, Candida albicans, nhiễm khuẩn bệnh viện.
ABSTRACT
THE CHARACTERISTICS OF PEDIATRIC PATIENTS WITH FUNGAL INFECTION
IN THE INTENSIVE CARE – TOXICOLOGY UNIT, AT CHILDREN’S HOSPITAL 1
FROM 01/2009 TO 12/2013
Phung Nguyen The Nguyen, Duong Thien Trang Thi, Nguyen Minh Tien, Nguyen Huu Nhan.
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 3 - 2015: 22 - 28
Objective: To evaluate clinical manifestations, laboratory tests, species distribution and in vitro antifungal
susceptibilities in patients with fungal infection.
Methods: A retrospective study of 42 patients admitted to the Toxicology – Intensive care Unit at Children
Hospital 1 from 01/2009 – 12/2013.
Results: Male/female ratio was 2/1 and 71.4% of patients were younger than one year old. The most
* Bệnh viện Nhi Đồng 1. ** Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Dương Thiện Trang Thi ĐT: 0906909965 Email: phngthenguyen@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 23
common clinical presentations included prolonged fever after antibiotics therapy (23.8%), uncompensated shock
(31%), progress of respiratory failure that needed endotracheal intubation (4.8%) and failure of weaning from
mechanical ventilation (7.1%). Leukocytosis (26.2%), anemia (54.8%) and thrombocytopenia (50%) were found
in complete blood count. In addition, the rates of renal failure and hepatic lesion were 14.3% and 45.2%,
respectively. Sources of positive fungal culture included blood (42.9%) and NTA/ETA (57.1%). The species
distribution was as follows: C. albicans (57.1%), C. tropicalis (28.6%), C. parapsilosis (4.8%), C. famata (4.8%),
C. glabrata (2.4%) and Saccharomyces cerevisiae (2.4%). No case was resistant to amphotericin B in vitro.
Overall resistance rates for the other agents were 7.1% for flucytosine, 88.1% for itraconazole, 83.3% for
voriconazole and 78.6% for fluconazole.
Conclusions: Nosocomial fungal infection is still a challenge in diagnosis. Clinical manifestations and
laboratory tests are non-specific. Candida albicans was the predominant pathogen. No case was resistant to
amphotericin B while the resistance rates of azoles were very high. Culture for fungi should be indicated if the
patient has many risk factors for hospital – acquired fungal infection.
Key words: Fungal infection, risk factors for hospital – acquired fungal infection.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện (NTBV) là nhiễm
khuẩn thường gặp ở các khoa hồi sức, cả ở bệnh
nhi và người lớn, làm tăng nguy cơ tử vong và
chi phí điều trị. Trong đó, nấm là một tác nhân
gây NTBV ngày một nhiều(16,22). Theo báo cáo ở
Mỹ, từ 1979-2000, tỉ lệ nhiễm khuẩn huyết do
nấm tăng 207%(6). Nhiễm khuẩn huyết do
Candida albicans đứng hàng thứ tư trong số các
tác nhân gây NTBV tại khoa hồi sức(3,15,30).
Tại Việt Nam, nhiễm nấm ngày một tăng
trong khi thuốc điều trị thì hạn hữu và các
nghiên cứu về nhiễm nấm vẫn còn ít. Ngày nay
với việc can thiệp thủ thuật ngày càng nhiều
hơn, nhiều bệnh nặng được cứu sống và thời
gian điều trị tại hồi sức dài hơn, cùng với việc sử
dụng kháng sinh rộng rãi như hiện nay; tất cả
các yếu tố đó làm tăng nguy cơ nhiễm nấm ở trẻ
nằm tại khoa hồi sức.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định các đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng và vi sinh ở bệnh nhi nhiễm nấm tại khoa
Hồi sức tích cực – Chống độc bệnh viện Nhi
Đồng 1 từ tháng 1/2009 – 12/2013.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dân số chọn mẫu
Bệnh nhi được xác định nhiễm nấm bệnh
viện nhập khoa Hồi sức tích cực – Chống độc
bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời gian nghiên cứu.
Tiêu chí chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Kết quả cấy bệnh phẩm ra nấm và.
Có biểu hiện lâm sàng của nhiễm khuẩn
bệnh viện.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh án và hồ sơ hồi cứu không có đầy
đủ thông tin theo mẫu bệnh án soạn sẵn.
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.
Cỡ mẫu
Lấy trọn mẫu.
Thu thập và xử lý số liệu
Dữ liệu được nhập và xử lý thống kê bằng
phần mềm SPSS 16.0.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 24
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi ghi
nhận có 42 trường hợp nhiễm nấm tại khoa Hồi
sức tích cực – Chống độc bệnh viện Nhi Đồng 1.
Đặc điểm dịch tễ học
Trẻ nam chiếm tỉ lệ 66,7%, nữ chiếm 33,3%
với tỉ lệ nam: nữ là 2:1.
Trẻ dưới 1 tuổi chiếm tỉ lệ 71,4%, từ 1- 5 tuổi
chiếm 21,4% và trẻ trên 5 tuổi chiếm 7,2%.
Các bệnh lý cơ bản bao gồm: hô hấp (31%),
huyết học (16,7%), tim bẩm sinh (11,9%), nhiễm
khuẩn đường tiêu hóa (11,9%), suy giảm miễn
dịch (4,8%), thần kinh (4,8%), sốt xuất huyết
(4,8%), lupus ban đỏ hệ thống (4,8%), tay chân
miệng (2,4%), phỏng (2,4%) và bệnh lý ngoại
khoa (4,8%).
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng
Đặc điểm lâm sàng Tần suất Tỉ lệ (%)
Yếu tố nguy cơ
Đặt catheter tĩnh mạch trung ương 8 19
Dùng kháng acid 28 66,7
Đặt nội khí quản 35 83,3
Nuôi ăn tĩnh mạch 35 83,3
Sử dụng kháng sinh phổ rộng 42 100
Sốt kéo dài 10 23,8
Hạ thân nhiệt 3 7,1
Suy hô hấp cần đặt nội khí quản 2 4,8
Cai máy thất bại 3 7,1
Sốc mất bù 13 31
Xuất huyết da niêm 14 33,3
Rối loạn tri giác 13 31
Vàng da niêm 6 14,3
Bảng 2: Đặc điểm cận lâm sàng
Đặc điểm cận lâm sàng Tần suất Tỉ lệ (%)
Tăng bạch cầu 11 26,2
Giảm bạch cầu 9 21,4
Thiếu máu 23 54,8
Giảm tiểu cầu 21 50
Tăng CRP 22 52,4
Tăng men gan 19 45,2
Suy thận 6 14,3
Bảng 3: Đặc điểm vi sinh
Đặc điểm vi sinh Tần suất Tỉ lệ (%)
Vi trí phân lập
Máu 18 42,9
NTA/ETA 24 57,1
Tác nhân
Candida albicans 24 57,1
Candida tropicalis 12 28,6
Candida parapsilosis 2 4,8
Candida famata 2 4,8
Candida glabrata 1 2,4
Saccharomyces cerevisiae 1 2,4
Bảng 4: Tính kháng thuốc
Thuốc Nhạy (%) Trung gian (%) Kháng (%)
Amphotericin B 100 0 0
Flucytosine 92,9 0 7,1
Itraconazole 7,1 4,8 88,1
Voriconazole 14,3 2,4 83,3
Fluconazole 11,9 9,5 78,6
BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ học
Nam có xu hướng nhiễm nấm nhiều hơn nữ.
Kết quả này không khác biệt so với các nghiên
cứu trước đó của Nguyễn Thị Diệu Huyền với tỉ
lệ trẻ nam lần lượt là 61,5% (23). Trẻ càng nhỏ tuổi
nguy cơ nhiễm nấm sẽ càng cao do hệ miễn dịch
chưa hoàn thiện, tình trạng bệnh nặng trong khi
lại chịu nhiều thủ thuật xâm lấn. Điều này cũng
phù hợp với ghi nhận trong nghiên cứu của tác
giả trên(23).
Tất cả các nghiên cứu về nhiễm khuẩn đều
ghi nhận trẻ nhỏ nguy cơ cao hơn, nhất là trẻ
nhũ nhi.
Bệnh lí cơ bản trong nghiên cứu của chúng
tôi phần lớn là các bệnh lí nội khoa.
Nhóm bệnh lí ngoại khoa chỉ chiếm tỉ lệ
4,8%, gặp trong chấn thương tụy và thoát vị
hoành. Đây là những trường hợp nằm bệnh viện
kéo dài, phẫu thuật nhiều lần.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 25
Đặc điểm lâm sàng
Tỉ lệ bệnh nhân đặt nội khí quản trước
nhiễm nấm, dùng thuốc kháng acid, nuôi ăn
tĩnh mạch và sử dụng kháng sinh phổ rộng
chiếm tỉ lệ cao, lần lượt là 83,3%, 66,7%, 83,3%
và 100%. Đây là các yếu tố nguy cơ đã được
chứng minh nhiễm nấm qua nhiều nghiên
cứu(7,18,32).
Sốt kéo dài không đáp ứng kháng sinh gặp
trong 23,8%. Kết quả này tương tự với nghiên
cứu của Trương Ngọc Hải cho thấy bệnh nhân
nhiễm nấm Candida máu có số ngày sốt không
đáp ứng với kháng sinh trị liệu cao hơn so với
nhóm chứng với thời gian trung bình là 12,33 ±
5,14 ngày. Bross J cũng ghi nhận thời gian sốt
kéo dài trung bình là 10,3 ± 8,8 ngày(4). Cũng
không có nghiên cứu nào ghi nhận sốt sau bao
lâu không đáp ứng với kháng sinh thì sẽ nhiễm
nấm. Có thể vì bệnh nặng, nhiễm khuẩn nặng
làm khó khăn cho chẩn đoán nhiễm nấm. Do đó,
cần tìm nấm sớm khi điều trị kháng sinh không
đáp ứng trong vòng 1 tuần còn sốt không chờ
đến hết quá trình trị liệu kháng sinh.
Suy hô hấp phải đặt nội khí quản trong 4,8%
trong khi có 7,1% trẻ cai máy thất bại tại thời
điểm nhiễm nấm. Tỉ lệ suy hô hấp trong nghiên
cứu của Tsai CC là 19%(36) và trong nghiên cứu
của Nguyễn Thị Diệu Huyền là 33,3%(23). Trong
một nghiên cứu so sánh giữa nhiễm nấm
Candida máu ở người lớn và trẻ em, tác giả
Asmundsdóttir LR ghi nhận rằng trẻ em thường
có biểu hiện suy hô hấp và không sốt nhiều hơn
so với người lớn với p < 0,001(1). Điều này cho
thấy nhiễm nấm làm kéo dài thời gian hỗ trợ hô
hấp và thời gian nằm hồi sức, càng làm tăng
nguy cơ bội nhiễm và các biến chứng do thở oxy
kéo dài.
Sốc được ghi nhận trong 31% trường hợp.
Tất cả đều được phát hiện trong tình trạng sốc
mất bù. Tỉ lệ tử vong trong các trường hợp sốc là
92,3%. Điều trị sốc nhiễm khuẩn do nấm có thể
còn khó khăn hơn so với vi khuẩn vì cơ thể trẻ
vốn đã có nhiều nguy cơ bệnh nặng, một phần vì
phát hiện nấm trễ, phần vì nhiễm vi khuẩn tại
bệnh viện kèm theo. Mặc dù có nhiều nghiên
cứu mô tả các yếu tố nguy cơ của nhiễm nấm
Candida máu nhưng hiện chưa có nghiên cứu
nào xác định được các yếu tố tiên đoán sốc
nhiễm trùng trên những bệnh nhân này(17,25,26,38).
Nghiên cứu của Guzman JA cho thấy thời gian
từ lúc nhập Hồi sức đến lúc nhiễm nấm Candida
máu trên 7 ngày là yếu tố duy nhất có ý nghĩa
tiên đoán sốc nhiễm khuẩn khi phân tích đơn
biến và đa biến. Tuy nhiên, do cỡ mẫu nhỏ (102
bệnh nhân) nên kết luận này cần phải được kiểm
chứng lại trong những nghiên cứu lớn hơn(12).
Các triệu chứng lâm sàng khác được ghi
nhận bao gồm xuất huyết da niêm (33,3%), rối
loạn tri giác (31%), vàng da niêm (14,3%). Đây là
các triệu chứng phản ánh tình trạng nhiễm
khuẩn huyết nặng và không đặc hiệu cho tình
trạng nhiễm nấm. Các triệu chứng đặc hiệu khác
của nhiễm nấm như nấm miệng, sang thương da
không được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án.
Ngoài ra, không một bệnh nhân nào trong
nghiên cứu của chúng tôi được khám đáy mắt để
tìm những tổn thương do nấm Candida gây ra.
Đây là một thiếu sót cần rút kinh nghiệm vì theo
y văn, tỉ lệ bệnh nhân viêm nội nhãn chiếm từ 5 -
50% và khám đáy mắt là phương tiện chẩn đoán
quan trọng giúp phát hiện nhiễm nấm Candida
toàn thân(14,21).
Đặc điểm cận lâm sàng
Các triệu chứng cận lâm sàng thường
không đặc hiệu. Trong đó, thiếu máu và giảm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 26
tiểu cầu là hai biểu hiện thường gặp nhất,
chiếm tỉ lệ 54,8% và 50%. Giảm tiểu cầu là
triệu chứng thường gặp ở những trẻ nhiễm
nấm Candida máu kéo dài, kém đáp ứng điều
trị được ghi nhận trong nghiên cứu của
Hammoud MS(13). Giá trị CRP tăng gặp trong
52,4% trường hợp. Kết quả này thấp hơn so
với nghiên cứu của Nguyễn Thị Diệu Huyền
(76,9%)(23). Dù không có giá trị giúp phân biệt
tác nhân nhiễm khuẩn là vi khuẩn hay vi nấm
nhưng trong trường hợp CRP tăng cao sau khi
đã sử dụng kháng sinh phổ rộng kéo dài thì ta
cần lưu ý tìm thêm tác nhân nấm ở trẻ nhiễm
trùng bệnh viện. Ngoài ra, CRP còn là yếu tố
giúp theo dõi đáp ứng điều trị.
Đặc điểm vi sinh
Chúng tôi ghi nhận Candida spp vẫn là tác
nhân nấm gây bệnh thường gặp nhất, trong đó
nhiễm C.albicans là chủ yếu, chiếm tỉ lệ 57,1%.
Kết quả này của chúng tôi cũng tương tự với
nhiều nghiên cứu khác(23,5,7,19). Trong nhóm C.non-
albicans thì C.tropicalis là tác nhân thường gặp
nhất, chiếm tỉ lệ 28,6%. Tác nhân nấm đứng thứ
hai sau C.albicans rất khác nhau trong nhiều
nghiên cứu, trong đó các tác nhân thường được
nhắc tới nhiều nhất là C.parapsilosis, C.tropicalis
và C.glabrata(4,12) Sự khác biệt trong phân bố các
tác nhân nấm C.non-albicans qua các nghiên cứu
có thể được giải thích dựa trên 3 yếu tố chính:
Tình trạng dùng thuốc kháng nấm dự phòng
như fluconazole mặc dù có thể giảm tỉ lệ nhiễm
nấm Candida huyết ở những bệnh nhân ung thư
máu nhưng lại làm gia tăng chủng C.glabrata
kháng thuốc(5,6,33) Các nghiên cứu ở Hoa Kỳ
thường ghi nhận tỉ lệ cao của C.glabrata so với
các nghiên cứu ở khu vực châu Mỹ Latin do việc
điều trị dự phòng kháng nấm tại Hoa Kỳ được
sử dụng rộng rãi hơn. Trái lại, C.tropicalis là tác
nhân thường được ghi nhận trong các nghiên
cứu ở khu vực Đông Nam Á(24,31,35,39)
Tuổi của bệnh nhân cũng là một yếu tố ảnh
hưởng. Candida parapsilosis là vi nấm thường trú
ở trẻ sơ sinh, trong khi đó C.glabrata là tác nhân
thường gặp ở người lớn tuổi(28). Đây có thể là
nguyên nhân giải thích tỉ lệ C.glabrata trong
nghiên cứu của chúng tôi rất thấp (2,4%).
Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận C.parapsilosis
là tác nhân thường gặp ở những bệnh nhân có
đặt catheter tĩnh mạch trung ương(24,31,35,39). Việc
cải thiện các nguyên tắc chống nhiễm khuẩn
trong việc chăm sóc catheter đã làm cải thiện tỉ lệ
nhiễm nấm C.parapsilosis(20,37). Trong nghiên cứu
này, tỉ lệ bệnh nhân đặt catheter tĩnh mạch trung
ương của chúng tôi không cao (19%) nên
C.parapsilosis cũng ít gặp hơn.
Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi nhận một
trường hợp cấy nấm dương tính với
Saccharomyces cerevisiae trên ETA. Đây là một loại
nấm men được dùng rộng rãi trong quá trình lên
men bánh mì, rượu và bia, được sử dụng như là
một probiotic trong điều trị tiêu chảy do
Clostridium-difficle sau khi sử dụng kháng sinh
kéo dài. Đây được xem là một yếu tố nguy cơ
thường gặp ở những bệnh nhân nhiễm nấm máu
do Saccharomyces cerevisiae, đặc biệt trên những
bệnh nhân nặng. Bệnh nhi của chúng tôi là một
bé gái 10 tháng tuổi, được chẩn đoán là viêm xẹp
phổi-viêm não di chứng, được đặt nội khí quản
thở máy, không đặt catheter và nuôi ăn qua
sonde dạ dày, được điều trị kháng sinh phổ rộng
trong 9 ngày nhưng X-quang phổi vẫn không cải
thiện trước khi phân lập được tác nhân
Sacchromyces cerevisiae trên mẫy cấy ETA. Tuy
nhiên, bệnh nhi này không ghi nhận được triệu
chứng tiêu chảy và sử dụng probiotic trong quá
trình nằm viện.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 27
Về vị trí phân lập, chúng tôi ghi nhận
42,9% trường hợp nhiễm nấm máu và 57,1%
cấy dương tính trên NTA/ETA. Không có bất
kì bệnh nhân nào trong nghiên cứu này được
thực hiện sinh thiết phổi để xác định chẩn
đoán. Y văn đã ghi nhận, C.albicans là tác nhân
nấm thường trú được phân lập nhiều nhất
(50%), tiếp theo là C.parapsilosis, C.tropicalis và
C.glabrata(2). Do đó, việc phân lập nấm trong
các dịch từ đường hô hấp không được xem là
tiêu chuẩn chẩn đoán viêm phổi do nấm
Candida, ngay cả khi mẫu bệnh phẩm được
lấy từ dịch rửa phế quản(8). Tại khoa Hồi sức
của chúng tôi, bệnh nhân sẽ được cấy lại
NTA/ETA kiểm tra, đánh giá lại các yếu tố
nguy cơ và tình trạng lâm sàng trước khi chẩn
đoán viêm phổi do nấm và điều trị.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không ghi
nhận bất kì trường hợp nào kháng với
amphotericin B ở cả hai nhóm C.albicans và
C.non-albicans. Kết quả này cũng tương đồng với
các nghiên cứu của St-Germain(16), và Zepelin MB
(tỉ lệ kháng thuốc là 0,5%)(20). Kết quả kháng nấm
đồ của chúng tôi cho thấy flucytosine là thuốc có
tỉ lệ nhạy cao nhất (92,9%). Tỉ lệ kháng thuốc là
7,1% và chỉ gặp trong nhóm C.albicans (12,5%).
So sánh với các nghiên cứu khác, tỉ lệ này của
chúng tôi có phần cao hơn. Nghiên cứu của
Pemán J trên 1.377 bệnh nhân tại Tây Ban Nha
cho thấy tỉ lệ kháng flucytosine rất thấp (0,4%).
Tình trạng kháng flucytosine chỉ gặp ở bệnh
nhân nhiễm nấm C.albicans (0,7%) và C.tropicalis
(0,9%)(12). Tỉ lệ này trong nghiên cứu của St-
Germain G và Zepelin MB lần lượt là 3%(16) và
4%(20). Sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu của
chúng tôi nhỏ hơn so với các nghiên cứu trên.
Trong khi đó, tỉ lệ kháng thuốc ở nhóm azole
(itraconazole, voriconazole, fluconazole) rất cao.
Kết quả kháng nhóm thuốc này của chúng tôi
cao hơn rất nhiều so với các nghiên cứu khác,
đều cho thấy tỉ lệ kháng thuốc nhóm azole chỉ từ
0,2-5,4%(12,17). Do phòng vi sinh không trả kết quả
định lượng nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) nên
đây là một điểm khó khăn trong việc so sánh và
giải thích kết quả kháng thuốc với các nghiên
cứu khác và cũng gây khó khăn trong việc lựa
chọn thuốc thích hợp để điều trị trên lâm sàng.
Hiện tại chúng tôi chưa tìm tìm được lí do để
giải thích tỉ lệ kháng thuốc rất cao ở nhóm azole.
Do đó, chúng ta cần thêm nhiều nghiên cứu với
cỡ mẫu lớn hơn để xác định tỉ lệ kháng thuốc của
nhóm azole và xác định các yếu tố nguy cơ nhằm
giải thích tình trạng trên.
KẾT LUẬN
Nhiễm nấm vẫn còn là một vấn đề khó khăn
trong chẩn đoán. Các triệu chứng lâm sàng và
cận lâm sàng thường không đặc hiệu. Do đó
đứng trước một bệnh nhi có nhiều yếu tố nguy
cơ và có biểu hiện của nhiễm khuẩn bệnh viện,
ta cần chỉ định cấy bệnh phẩm tìm nấm sớm.
Candida albicans vẫn là tác nhân thường gặp nhất.
Không ghi nhận trường hợp nào kháng
amphotericin B của các tác nhân phân lập được.
Tỉ lệ kháng thuốc của nhóm azole rất cao đối với
Candida spp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Asmundsdóttir LR, Erlendsdóttir H, Gottfredsson M (2005),
“Improving survival of patients with Candidemia: analysis of
prognostic factors from long-term, nationwide study in
Iceland”, Scan J Infect Dis, 37, pp.111.
2. Azoulay E (2006), “Candida colonization of the respiratory
tract and subsequent pseudomonas ventilator-associated
pneumonia”, Chest, 129, pp.110-7.
3. Beck-Sague C, Jarvis WR (1993), “Secular trends in the
epidemiology of nosocomial fungal infections in the United
States, 1980-1990: National Nosocomial Infections Surveillance
System”, J. Infect Dis, 167, pp.1247-51.
4. Bross J, Talbot GH, Maislin G et al (1989), “Risk factors for
nosocomial Candidemia: A case-control study in adults
without leukemia”, Am J Med, 87, pp.614-20.
5. Chow JK, Golan Y, Ruthazer R et al (2008), “Factors associated
with candidemia caused by non-albicans Candida species
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 28
versus Candida albicans in the intensive care unit”, Clin Infect
Dis, 46, pp.1206-13.
6. Faiz S, Neale B, Rios E et al (2009), “Risk-based fluconazole
prophylaxis of Candida bloodstream infection in a medical
intensive care unit”, Eur J Clin Microbiol Infect Dis, 28:
pp.689-92.
7. Feja KN, Wu F, Roberts K et al (2005), “Risk factors for
Candidemia in critically ill patients: a matched case-control
study”, J Pediatr, 147(2), pp.156-61.
8. Garnacho-Montero J (2013), “Epidemiology, diagnosis and
treatment of fungal respiratory infections in the critically ill
patient”, Rev Esp Quimioter, 26 (2), pp.173-88.
9. Gómez J, García-Vázquez E, Espinosa C et al (2009),
“Nosocomial Candidemia at a general hospital: The change of
epidemiological and clinical characteristics. A comparative
study of 2 cohorts (1993-1998 versus 2002-2005)”, Rev Iberoam
Micol, 26(3), pp.184-8.)
10. González GM, Elizondo M, Ayala J (2008), “Trends in species
distribution and susceptibility of bloodstream isolates of
Candida collected in Monterrey, Mexico, to seven antifungal
agents: results of a 3-year (2004-2007) surveillance study”, J
Clin Microbiol, 46(9), pp.2902-5.
11. Greg SM (2003), “The epidemiolgy of sepsis in the United
States from 1979 through 2000”, The New England Journal of
Medicine, 348, pp.1546-54.
12. Guzman JA, Tchokonte R, Sobel JD (2011), “Septic shock due
to Candidemia: Outcomes and predictors of shock
development”, J Clin Med Res, 3(2), pp.65-71.
13. Hammoud MS, Al-Taiar A, Fouad M et al (2013), “Persistent
Candidemia in neonatal care units: risk factors and clinical
significance”, Int J Infect Dis, 17(8), pp.e624-8.
14. Hoeprich PD, Rinaldi MG, (1994), “Candiosis”, Infectious
Diseases- A treatise of infectious processes, JB Lippincott
Company, Phildelphia,5th, pp.498-508.
15. Jarvis WR (1995), “Epidemiology of nosocomial fungal
infections, with emphasis on Candida species”, Clin Infect
Dis, 20, pp.1526-30.
16. Kossoff EH, Bueshcer ES, Karlowicz MG (1998), “Candidemia
in a neonatal intensive care unit: trends during fifteen years
and clinical features of 111 cases”, Pediatr Infect Dis J, 17,
pp.504-8.
17. Leon C, Ruiz-Santana S, Saavedra P et al (2006),” A bedside
scoring system (“Candida score”) for early antifungal
treatment in nonneutropenic critically ill patients with
Candida colonization”, Crit Care Med, 34(3), pp.730-737.
18. Leroy O, Gangneux JP, Montravers P et al (2009),
“Epidemiology, management, and risk factors for death of
invasive Candida infections in critical care: a multicenter,
prospective, observational study in France (2005-2006)”, Crit
Care Med, 37, pp.1612-8.
19. Lortholary O, Desnos-Ollivier M, Sitbon K et al (2011),
“Recent exposure to caspofungin or fluconazole influences the
epidemiology of candidemia: a prospective multicenter study
involving 2 441 patients”, Antimicrob Agents Chemother, 55,
pp.532-38.
20. Macias AE, Huertas M, de Leon SP et al (2010),
“Contamination of intravenous fluids: a continuing cause of
hospital bacteremia”, Am J Infect Control, 38, pp.217-21.
21. Mc Cray E, Rampell N, Solomon SL et al (1986), “Outbreak of
Candida parapsilosis endopthalmitis after cataract extraction
and intraocular lens implantation”, J Clin Microbiol, 24,
pp.625-8.
22. Mullan RM (2002), “Trends in the epidemiology of Candida
bloodstream infections in Northern Ireland between January
1984 and December 2000”, J. Infect, 45(1), pp.25-8.
23. Nguyễn Thị Diệu Huyền (2003), Đặc điểm nhiễm nấm
Candida máu và kết quả điều trị bằng Amphotericin B tại
khoa hồi sức bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2000-2003, Luận văn
thạc sĩ y học chuyên ngành nhi, ĐH Y Dược TP.Hồ Chí Minh.
24. Oon LL, Yeo MG (2002), “Fluconazole susceptibility of
Candida species in Singapore by disc diffusion test”, Ann
Acad Med Singapore, 31, pp.495-501.
25. Ostrosky-Zeichner L, Pappas PG (2006), “Invasive Candidiasis
in the intensive care unit”, Crit Care Med, 34, pp.857-63.
26. Paphitou NI, Ostrosky-Zeichner L, Rex JH (2005), “Rules for
identifying patients at increased risk for candidal infection in
the surgical intensive care unit: approach to developing
practical criteria for systematic use in antifungal prophylaxis
trials”, Med Mycol, 43(3), pp.235-43.
27. Pemán J, Cantón E, Quindós G et al (2012), “Epidemiology,
species diatribution and in vitro antifungal susceptibility of
fungaemia in a Spanish multicenter prospective survey”, J
Antimicrob Chemother, 67, pp.1181-87.
28. Pfaller MA, Diekema DJ (2007), “Epidemiology of invasive
candidiasis: a persistent public health problem”, Clin
Microbiol Rev, 20, pp.133-63.
29. Pfaller MA, Diekema DJ, Jones RN et al (2001), “International
survaillence of bloodstream infections due to Candida species:
frequency of occurrence and in vitro susceptibilities to
fluconazole, ravuconazole, and voriconazole of isolates
collected from 1997 through 1999 in the SENTRY
antimicrobial surveillance program”, J Clin Microbiol, 39,
pp.3254-9.
30. Pfaller MA, Pappas P, Wingard J (2006), “Invasive fungal
pathogens: Current epidemiology trends”, Clin Infect Dis, 43,
pp.S13-4.
31. Saiman L, Ludington E, Pfaller M (2000), “Risk factors for
Candidemia in neonatal intensive care unit patients”, Pediatr
Infect Dis J, 19, pp.319-24.
32. Shorr AF, Lazarus DR, Sherner JH et al (2007), “Do clinical
features allow for accurate prediction of fungal pathogenesis
in bloodstream infections? Potential implications of the
increasing prevalence of non-albicans candidemia”, Crit Care
Med, 35, pp.1077-83.
33. St-Germain G, Lavediere M, Pelletier R et al (2001),
“Prevalence and antifungal susceptibility of 442 Candida
isolates from blood and other normally sterile sites: results of a
2-year (1996-1998) multicenter surveillance study in Quebec,
Cannada”, J.Clin.Microbiol, 39(3), pp.949-53.
34. Tan TY, Tan AL, Tee Nancy WS (2008), “A retrospective
analysis of antifungal susceptibilities of Candida bloodstream
isolates from Singapore Hospitals”, Ann Acad Med
Singapore, 37, 835
35. Tsai CC, Lay CJ, Wang CL et al (2011), “Prognostic factors of
candidemia among nonneutropenic adults with total
parenteral nutrition”, J Microbiol Immunol Infect, 44, pp.461-
66.
36. Volkow P, Sanchez-Mejorada G, de la Vega SL et al (1994),
“Experience of an intravenous therapy team at the Instituto
Nacional de Cancerologia (Mexico) with a long-lasting, low-
cost silastic venous catheter”, Clin Infect Dis, 18, pp.719-25.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 29
37. Wenzel RP, Gennings C (2005), ”Bloodstream infections due
to Candida species in the intensive care unit: identifying
especially high-risk patients to determine prevention
strategies”, Clin Infect Dis, 41(6), pp.S389-393.
38. Yang ZT, Wu L, Liu XY et al (2014), “Epidemiology, species
distribution and outcome of nosocomial Candida spp blood
stream infection in Shanghai”, BMC Infect Dis,14, pp.241-51.
39. Zepelin MB, Kunz L, Rüchel R et al, (2007), “Epidemiology
and antifungal susceptibilities of Candida spp. to six
antifungal agents: results from a surveillance study on
fungaemia in Germany from July 2004 to August 2005”, J
Antimicrob Chemother, 60, pp.424-8.
Ngày nhận bài báo: 12/01/15.
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 23/01/15.
Ngày bài báo được đăng: 22/06/15.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_benh_nhi_nhiem_nam_tai_khoa_hoi_suc_tich_cuc_chong.pdf